1/ Trương Phi chân thật trong lịch sử
Trong dân gian ta thường ví "Nóng như Trương Phi, đa nghi như Tào Tháo”, thế mới biết hình ảnh một Trương Phi nóng nảy đã in sâu vào tiềm thức mọi người. Theo pho truyện Tam quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung đời nhà Minh Trung Quốc, Trương Phi "tiếng vang như sấm, chạy nhanh như ngựa, râu cọp hàm én, đầu beo mắt lồi, lấy thủ cấp tướng giặc trong muôn quân như lấy đồ trong túi…”. Những chuyện liên quan đến Trương Phi như roi quất quan đốc bưu, một mình cự quân Tào ở dọc Trường Bản, dùng mưu lấy ải Ngõa Khẩu, mưu bắt Nghiêm Nhan v.v. cho thấy Phi không chỉ sức mạnh hơn người, còn biết dùng mưu, nhưng vẫn là một tướng võ biền, thiếu tố chất văn hóa. Vì nóng lòng trả thù cho anh kết nghĩa Quan Vũ bị Đông Ngô giết hại, Trương Phi đã bị 2 bộ tướng Phạm Cường, Trương Đạt giết, mang đầu nộp cho Tôn Quyền, nên Trương Phi có 2 phần mộ: đầu chôn ở huyện Vân Dương, thuộc thành phố Trùng Khánh; thân chôn ở thành Lãng Trung, thuộc miền đông tỉnh Tứ Xuyên. Trước khi bị hại, với hàm Tân Đình hầu, Xa kỵ tướng quân, Trương Phi đã trấn giữ Lãng Trung 7 năm, được tiếng là thương dân và trong sạch. Lãng Trung là thành phố văn hóa nổi tiếng của Trung Quốc, di tích lịch sử không sao kể xiết, trong đó có đền Hoàn Hầu (Trương Phi sau khi chết được truy phong Hoàn hầu), bốn mùa khói hương nghi ngút.
Đền Hoàn Hầu tùng bách ngút trời, nghiêm trang một ngôi đền cổ. Cổng đền có câu đối do Lưu Sa Hà, nhà thơ hiện đại nổi tiếng đề:
Viên tạ hồng đào, đại ca Huyền Đức nhị ca Vũ;
Quốc lưu thanh sử tam phân đỉnh thế bát phân thư.
Dịch ý:
Kết nghĩa vườn đào, đại ca Huyền Đức nhị ca Quan Vũ;
Lưu danh sử xanh, thế chân vạc cùng với thư pháp "bát phân”.
Thể chữ lệ đời nhà Hán có nét đặc sắc riêng, gọi là "Hán bát phân”: bút pháp chia theo 2 ngả, giống như hình chữ "bát” vậy. Câu đối ca ngợi thư pháp Trương Phi có thể lưu danh sử sách.
Tôi tò mò dò hỏi người Lãng Trung về sự tích Trương Phi thì được hỏi lại: "Thế ông thấy hình tượng Trương Phi thế nào”? Tôi trả lời: "Dĩ nhiên là ông tướng mặt đen râu xồm, hét ra lửa”. Họ cười ngất. Hóa ra Trương Phi là vị anh hùng trong lòng họ: không những khoẻ ngang cơ Lữ Bố, Mã Siêu, Quan Vũ, Điển Vi, mà còn là hoạ sĩ, nhà thư pháp đại tài, đặc biệt là... đẹp trai (!). "Bảy phần thực, ba phần hư” là bút pháp nổi tiếng của pho truyện Tam quốc diễn nghĩa, nhưng nhân vật điển hình Trương Phi được tạo dựng nên đã hoàn toàn "lệch pha” với sử liệu!
2/ Trương Phi nhà thư pháp đại tài
Về tài thư pháp của Trương Phi, thấy ghi sớm nhất trong "Đao kiếm lục” của Đào Hoằng Ảnh đời nhà Lương (502-557) thời Nam Bắc Triều: "Trương Phi khi mới được phong tước Tân Đình hầu, đã sai thợ tôi thép làm một thanh đao, tự tay khắc lời minh: Tân Đình hầu, đại tướng nước Thục. Sau khi Phi bị Phạm Cường giết, cây đao được dâng cho nước Ngô”. Đó chính là Điêu đẩu minh lừng danh. Đến đời Minh, trong cuốn "Đan diên tổng lục” còn ghi: "Ở Bôi Lăng có Điêu đẩu minh của Trương Phi, nét chữ rất đẹp, do chính Phi viết. Rất tiếc, sau đó bài minh đã thất lạc, không sao tìm thấy. Nhà thơ Trương Sỹ Hoàn đời Minh có thơ vịnh việc đó như sau:
Thiên hạ anh hùng chi Dự Châu,
A Man bất cộng đới thiên cừu.
Sơn hà cát cứ tam phân quốc,
Vũ miếu uy danh bát trượng mâu.
Chúng ngưỡng từ đường nghiêm kiếm bội,
Nhân gian điêu đẩu kiến ngân câu.
Không dư Gia Cát Tần Xuyên biểu,
Tả đơn hà nhân phục vị Lưu.
Tạm dịch:
Thiên hạ anh hùng chỉ có Lưu
, A Man quyết chí nặng thù sâu.
Núi sông chia cắt ba chân vạc,
Vũ trụ oai danh bát trượng mâu.
Thần tượng còn đeo thanh kiếm bội,
Nhân gian đâu thấy nét ngân câu.
Để đời Gia Cát xuất sư biểu,
Ai đó một lòng phò Dự Châu.
Bài thơ dùng nhiều điển tích, tôi xin ghi chú như sau:
- Dự Châu: Lưu Bị từng được phong tước Dự Châu mục nên thường được gọi là Lưu Dự Châu.
- A Man: Nhũ danh của Tào Tháo, gọi có tính chất khinh miệt.
- Bát trượng mâu: Thường gọi là bát xà mâu, vũ khí của Trương Phi.
- Điêu đẩu: Nguyên chỉ dụng cụ đánh trống canh trong quân đội ngày xưa, ở đây chỉ bài Minh điêu đẩu của Trương Phi.
- Ngân câu: Chỉ chữ viết sắc nét (thiết họa, ngân câu).
- Tần Xuyên biểu: Chỉ bài tiền và hậu Xuất sư biểu, áng văn lưu danh thiên cổ của Gia Cát Lượng, tức Khổng Minh.
- Tả đản (cởi tay áo bên trái): Năm 179 TCN, thời Tây Hán, khi Chu Bột đứng lên diệt Lã hậu, kêu gọi binh lính ai ủng hộ họ Lã thì hữu đản (cởi tay áo bên phải), ai ủng hộ họ Lưu thì tả đản (cởi tay áo bên trái), kết quả binh lính đều theo nhà Hán lật đổ họ Lã. Ý chỉ chuyên tâm phò tá một người.
Theo chánh sử Tam quốc chí của Trần Thọ, năm Kiến An 23 (218 CN), Lưu Bị tranh giành đất Hán Trung với Tào Tháo.
Tháo sai danh tướng Trương Cáp mang 3 vạn quân đánh tập hậu. Lưu Bị cử Trương Phi mạng 1 vạn binh mã về cứu viện. Hai bên cầm cự hơn 50 ngày ở vùng núi Bát Mông, cuối cùng Trương Phi đã lợi dụng địa hình hiểm trở chia cắt quân của Cáp, đánh cho tan tác. Quân của Trương Cáp chỉ còn vài chục mạng tháo chạy thoát thân. Trận này Trương Phi đã lấy ít thắng nhiều, giúp cho Lưu Bị thôn tính toàn bộ đất Hán Trung.
Sau trận đánh, Phi mở tiệc ăn mừng. Ngà ngà say, ông lấy giáo làm bút, lấy vách đá thay giấy khắc bài "lập mã minh” 22 chữ theo kiểu chữ lệ: "Hán tướng quân Phi, suất tinh tốt vạn nhân, đại phá tặc thủ Trương Cáp vu Bát Mông, lập mã lặc minh” (Hán tướng quân Phi, dẫn tinh binh vạn người, đại phá trùm giặc Trương Cáp tại vùng Bát Mông, nay dừng ngựa tại minh) nhằm khích lệ tướng sĩ và làm nhục quân Tào.
Đời Minh, ở huyện Lưu Giang, tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc phát hiện chữ khắc trên vách đá Ma Nhai, chính là "lập mã minh”của Trương Phi. Về sau do núi lở minh văn bị huỷ hoại. Đời Quang Tự nhà Thanh (1881), tri huyện Kỳ Sơn, tỉnh Thiểm Tây Hồ Đạo Du theo thác bản mà mình cất giữ thuê người khắc lại trên vách đá núi Bát Mông. Đọc văn bia, ta thấy bay bướm mạnh mẽ, "đầu tằm, đuôi én”, cực kỳ tinh xảo, mang dấu ấn thời đại lúc đó, đồng thời thể hiện phong cách riêng của tác giả. Hiện thác bản được bảo tồn tại Viện bảo tàng Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây. Người đời Nguyên Ngô Trấn có thơ Vịnh đền Trương Dực Đức” như sau:
Quan hầu phúng Tả thị, Xa kỵ cánh công thư.
Văn võ thú tuy biệt, cổ nhân thường hữu dư.
Hoành mao tư uyển lực, Do, Tượng khủng nan như.
Dịch ý:
Quan công thuộc lòng sách Xuân Thu (Tả Truyện),
Xa kỵ tướng quân càng giỏi về thư pháp.
Chí hướng của quan văn, võ tuy có khác nhau,
Người xưa đều có sở trường riêng.
Nhìn ông cầm cây mao lại nghĩ đến lực cổ tay khi cầm bút, Ngay cả Chung Do, Hoàng Tượng cũng khó sánh bằng. Năm 221, Trương Phi được phong hàm Xa kỵ tướng quân, nên cũng hay gọi là Trương Xa kỵ. Ý thơ Ngô Trấn ca tụng thành tựu thư pháp của Trương Phi: ngay cả 2 nhà thư pháp lớn đương thời (Chung Do nước Ngụy, Hoàng Tượng nước Ngô) cũng không sánh bằng. Năm 1985, khi đào đắp công trình thủy lợi ở Lãng Trung, người ta đã vớt được dưới lòng sông Trường Giang một tấm bia đá cao 1,56m x 1,12m x 0,21m. Theo ngành khảo cổ, đó chính là bút tích "lập mã minh” của Trương Phi. Tấm bia đó trước đây do chính Trương Phi đã làm thác bản (bản rập) mang về Lãng Trung rồi sai thợ khắc lại trên đá. Phát hiện khảo cổ này đã giải quyết triệt để một nghi án ngàn năm. Nét chữ như nước chảy mây trôi vẻ đẹp xuất thần khiến nhiều nhà thư pháp phải thán phục. Tấm bia được coi như báu vật hàng đầu của Hoàn Hầu Lãng Trung, được giữ trong chụp thủy tinh, không dễ gì tiếp cận, mãi đến giữa năm này mới được mang ra triển lãm trước công chúng.
3/ Danh họa kiêm nhà thơ Trong cuốn "Họa tủy nguyên thuyên” của Trác Nhĩ Xương đời Minh có ghi: "Trương Phi thích vẽ người đẹp, giỏi chữ thảo”. Trong cuốn "Lịch đại họa trưng lục” đời nhà Thanh cũng ghi: "Trương Phi, người Trác Châu, giỏi vẽ người đẹp”. Rất tiếc, tranh người đẹp cũng như chữ thảo của Trương Phi đều thất truyền, khiến chúng ta không còn cơ hội thường thức người đẹp dưới nét bút của vị hổ tướng.
Hiện nay người Trác Châu đều nói bức tranh "Nàng Nữ Oa vá trời” trên tường thành Trác Châu là do chính Trương Phi vẽ khi còn ở quê nhà. Bích hoạ "Vạn Phật các” gần nguyên quán Trương Phi cũng là di bút của ông. Người Trác Châu kể với du khách đầy vẻ tự hào: "Những điều trên đều là sự thật không thể chối cãi”.
Hồi nhỏ Trương Phi tính khí nóng nảy, mấy ông thầy làng không ai dạy nổi. Cậu của Phi giới thiệu một ông thầy tên Vương Dưỡng Niên đến dạy, ông thầy này vừa dạy văn vừa luyện võ, được Phi hết sức nể trọng. Mới 13 tuổi, Trương Phi đã tinh thông võ nghệ và thuộc làu sử sách, ông hận đời muốn quét sạch bọn ác để cứu lê dân. Thầy Vương muốn rèn giũa tính tình Phi, liền nghĩ ra cách dạy Phi hội họa và thư pháp. Phi vốn tư chất thông minh nên chỉ 3 năm sau, thư, hoạ đều tinh thông, nổi tiếng một vùng.
Trương Phi đã từng làm thơ. Sau khi đánh bại Trương Cáp, đi qua vùng núi Chân Đa, ông nổi thi hứng, viết bài "Du ký núi Chân Đa” theo thể "ca hành” thịnh hành thời Ngụy- Tấn:
Vương Phương Bình thái dược thử san,
Trọng Tử ca Ngọc Lư sơn gián.
Tuyết, trú túc phương hành.
Tạm dịch ý:
Vương Phương Bình hái thuốc núi non này,
Khe Ngọc Lư, Trọng Tử từng ca cùng núi mây.
Tuyết rơi, ta tá túc, rồi lại đi ngay.
Vương Phương Bình và Trọng Tử đều là ẩn sĩ đương thời. Bài ca thể hiện tính khoáng đạt và trọng kẻ sĩ của Hoàn hầu.
4/ Trương Phi còn là đấng mỹ nam
Tam Quốc Chí của Trần Thọ xưa nay nổi tiếng tiếc chữ như vàng, viết cực kỳ vắn tắt. Khi viết về Lưu Bị, ông mô tả: "dái tai gần chấm vai, hai tay dài quá đầu gối”; Quan Vũ là "mỹ nhiêm công” (ông râu đẹp). Còn đối với Trương Phi, không có nét bút mô tả nào. Như vậy, từ truyền thuyết dân gian đến ngòi bút của La Quán Trung, Trương Phi nghiễm nhiên có "bộ mặt đen” giống y chang Lý Quỳ trong truyện Thủy Hử. Ngày 18.11.2004, trên núi Trương Phi Doanh huyện Giàn Dương tỉnh Tứ Xuyên, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã phát hiện tượng đầu người khổng lồ, được xác định là tượng Trương Phi. Tượng cao 4,5m, bề ngang gần 3m, có cặp mắt to, dáng vẻ hiền từ, chỉ có hai hàng ria mép chứ chẳng có cọng râu nào. Viện Khảo cổ tỉnh Tứ Xuyên đã tiến hành đo đạc và giám định, xác định tượng đá được tạc vào đời nhà Đường (618-907), năm xưa Trương Phi từng đóng quân nơi đây, dân địa phương tạc tượng để tưởng nhớ ông. Nhà Đường cách thời Tam Quốc hơn 300 năm, nên có phần tin cậy được.
Dung mạo thực của Trương Phi không còn khảo cứu được, chỉ có thể suy đoán qua những dữ liệu gián tiếp.
Năm Chương Vũ thứ nhất (221), Lưu Bị xưng đế, nạp con gái lớn của Phi làm phi của thái tử Lưu Thiền. Lưu Thiền lên ngôi, con gái Phi tấn ngôi hoàng hậu. 15 năm sau, Trương hậu qua đời, hậu chúa Lưu Thiền lấy tiếp con gái thứ của Phi, trước phong làm quý nhân, sau cũng lập hoàng hậu. Sử gọi là Đại Trương hoàng hậu và Tiểu Trương hoàng hậu. Hậu chúa nổi tiếng hoang dâm háo sắc, nếu không có nhan sắc hơn người, ắt 2 chị em họ Trương khó lòng được phong hậu. Tục nói "con gái giống cha”, từ đó suy ra Trương Phi rất có thể là anh chàng đẹp trai!
Theo sách "Tam Quốc Chú”, của Bùi Tùng Chi đời Tấn, "Phi cao 8 thước”. Theo chế độ đo lường nhà Hán, 1 thước = 23,1 cm, như vậy Phi cao 1,85m, chiều cao đáng nể đủ để trở thành người đàn ông quyến rũ theo tiêu chuẩn hiện đại. Trương Phi là đồng hương với Lưu Bị xuất thân đồ tể, có biệt hiệu "Trương nhất đao”, nghĩa là chọc tiết heo không cần đến nhát dao thứ 2. Từ đó dân gian suy tôn ông là tổ sư ngành giết mổ, cũng như Lưu Bị là tổ sư ngành đan lát, Quan công là tổ sư ngành khuân vác (!). Hình ảnh Trương Phi gần gũi với dân chúng, khác hẳn Quan Vũ được vua chúa lịch phong tới "Quan Thánh đại đế”, là ngẫu tượng để thiên hạ quỳ lạy. Trong lịch sử Trung Hoa, không thiếu những võ tướng am hiểu văn chương như Nhạc Phi, Trương Tuần, Phạm Trọng Yểm… nhưng Trương Phi là người sớm đạt thành tựu cao nhất, thật đáng trân trọng. Rời khỏi Lãng Trung, tôi nhớ ngôi thành cổ kính sương mù bao phủ quanh năm, càng nhớ vị nho tướng Trương Hoàn Hầu, thương tiếc cho ông bất đắc kỳ tử do "kính trọng kẻ sĩ nhưng không thương sĩ tốt, hay đánh kiện nhi” (lời bình của Trần Thọ).