Thời
Tam Quốc, Gia Cát Lượng phò tá Lưu Bị. Ông là nhà chính trị, nhà chiến lược, nhà
quân sự thiên tài. Sự kiệt xuất của ông khiến kẻ thù cũng phải kính nể. Những
mưu lược của ông như "Khẩu chiến thuyết quần nho”, "Mượn gió Đông”, "Hỏa công
Xích Bích”, "Ba lần chọc tức Chu Du”,
"Mưu trí bày trận Hoa Dung”... khiến hậu thế phải nghiêng mình thán phục. Trong
số những tư tưởng vượt trội của Khổng Minh, 7 tiêu chuẩn chọn hiền tài của ông
vẫn còn nguyên giá trị.
Vừa
qua, các nhà nghiên cứu lịch sử, xã hội học Trung Quốc đã tổ chức một số cuộc
hội thảo phân tích về 7 cách chọn hiền tài của Gia Cát Lượng. Cụ thể, vị quân sư
kiệt xuất này đã dựa trên 7 tiêu chí lớn: "Chí, Biến, Thức, Dũng, Tính, Liêm,
Tín”.
1.
"Vấn chi dĩ thị phi nhi quan kỳ Chí”. Nghĩa là hỏi họ về điều phải lẽ trái để
xem xét chí hướng của họ. Muốn trọng dụng một người, trước tiên phải biết được ý
chí, lập trường của người ấy ra sao. Nếu như đối phương lẫn lộn giữa điều phải
lẽ trái hoặc mơ hồ giữa cái đúng cái sai, lập lờ trắng đen thì quyết không thể
giao phó trọng trách. Bởi lẽ con người này không vững vàng, không kiên định về
lập trường, dễ đổi trắng thay đen và dễ phản trắc.
Chí
hướng là động lực thúc đẩy con người tiến lên. Người không có chí hướng thì
không thể làm nên việc lớn. Người không có chí hướng chẳng khác gì người đi đêm
không có trăng sao, người đi biển không có ngọn hải đăng. Bởi vậy, biết rõ được
chí hướng của con người thì sẽ đánh giá được ý chí của họ. Không chỉ Trung Quốc,
tại nhiều nước trên thế giới, phần lớn những nhà chính trị, nhà chiến lược, nhà
quân sự nổi tiếng đều có chí hướng ngay từ khi tuổi còn
nhỏ.
2.
"Cùng chi dĩ từ biện nhi quan kỳ Biến”. Nghĩa là đưa ra nhiều câu hỏi, lý lẽ dồn
họ vào thế đường cùng để xem khả năng ứng biến đối phó với các tình huống của
họ. "Biến” ở đây là chỉ khả năng ứng phó, năng động. Khi chọn người, Gia Cát
Lượng thường dồn dập đưa ra những lý lẽ, những tình huống để dồn họ vào thế
đường cùng, thế bí nhằm xem xét khả năng đối phó, ứng biến của đối
phương.
Người
có khả năng ứng biến giỏi, nhất là các tướng cầm quân khi bị dồn vào thế đường
cùng, họ ắt sẽ biết cách ứng phó, biết chuyển bại thành thắng, biết mở cho mình
con đường sống. Người xưa có câu: "Sơn trùng thủy phục nghi vô lộ. Liễu âm hoa
minh hựu nhất thôn”. Nghĩa là trong thế đường cùng bốn bề sông núi tưởng không
lối thoát, nhưng người biết ứng biến, năng động vẫn có thể mở ra lối thoát tới
nơi rực rỡ đầy hoa.
3
- "Tư chi dĩ kế mưu nhi quan kỳ Thức”. Nghĩa là dùng mưu kế của mình để tham
khảo những mưu kế, sách lược của đối phương, thông qua đó có thể đánh giá những
kiến thức của đối phương.
4
- "Cáo chi dĩ nan nhi quan kỳ Dũng”. Nghĩa là đặt ra những tình huống gian nguy,
khó khăn để đánh giá sự dũng cảm của đối phương, nhất là đối với những tướng cầm
quân ngoài mặt trận. Thời cổ đại, hai tiêu chuẩn rất quan trọng đối với tướng
lĩnh là "Trung, Dũng”, tức là trung thành và dũng cảm. Người Trung Quốc xưa có
câu "Hiệp lộ tương phùng dũng giả thắng”, nghĩa là hai đối thủ gặp nhau trên con
đường độc đạo, người dũng cảm sẽ chiến thắng.
Khi
lựa chọn hiền tài, Gia Cát Lượng thường đưa ra những nghịch cảnh, khó khăn gian
nguy để thử thách sự dũng cảm của họ, bởi lúc lâm nguy tinh thần dũng cảm vô
cùng quan trọng. Khắc phục một khó khăn có thể dễ dàng nhưng khắc phục 10 hay
100 khó khăn, gian nguy liên tiếp đòi hỏi con người phải có tinh thần dũng cảm
vô song. Một nhà triết học người Đức từng nói: "Chỉ có con người nào đã từng
trải qua sự giày vò của địa ngục thì mới có sức mạnh để xây dựng được thiên
đường”.
5
- "Túy chi dĩ tửu nhi quan kỳ Tính”. Gia Cát Lượng cho đối phương uống rượu say
để đánh giá tính tình, thực tâm của họ. Rượu là chất kích thích, khi bị say thì
vỏ đại não bị tê dại, con người khi ấy bị mất lý tính, không còn ý thức được
những hành vi của mình. Nên lời nói của họ không chút giấu giếm mà rất thực
lòng. Từ đó Gia Cát Lượng đánh giá đúng thực chất tâm tính của đối
phương.
6
- "Lâm chi dĩ lợi nhi quan kỳ Liêm”. Nghĩa là dành cho họ nhiều tiền tài, bổng
lộc, thậm chí hứa giao cho trọng trách để đánh giá sự liêm khiết hay lòng tham
lam của họ. Bản tính của con người thường có máu tham, hám lợi, tham tiền, nhất
là những người làm quan và giữ trọng trách lớn. Gia Cát Lượng cho rằng, một
người liêm khiết thường có những đặc điểm như: Trung thành vô hạn, Làm việc liêm
khiết vô tư, Thấu hiểu nỗi khổ của dân chúng, Chú trọng tiết kiệm, Không hám
giàu sang, không mê tửu sắc, Tự khép mình vào kỉ luật.
Khi
làm Thừa tướng nước Thục, Gia Cát Lượng đưa ra nhiều đạo luật nghiêm khắc, nhưng
không ai phàn nàn oán giận ông nửa lời. Bởi bản thân ông rất gương mẫu, liêm
khiết. Nước Thục khi đó có nhiều quan thanh liêm và tướng tài, như Vận Tưởng
Uyển, Đổng Hòa, Lưu Ba, Đổng Doãn, Dương Hồng. Thực tế cũng cho thấy, cổ kim
đông tây, người nào vượt lên sự cám dỗ của tiền tài danh vọng thường là những
quan thanh liêm, được lòng dân và góp phần làm cho đất nước hưng
thịnh.
7
- "Kỳ chi dĩ sự nhi quan kỳ Tín”. Tức là giao việc cho họ để xem lời họ hứa so
với thực tế làm việc ra sao, từ đó đánh giá chữ "Tín” của họ. Gia Cát Lượng cho
rằng: "Ngôn nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã”, tức là một người chỉ biết nói suông
không đi đôi với việc làm, là người không có chữ tín.
Bởi
vậy, có câu: "Thính kỳ ngôn, Quan kỳ hành”, tức nghe họ nói không đủ mà phải xem
họ làm như thế nào. "Quốc vô tín bất hưng, nhân vô tín bất lập”, một đất nước mà
không có chữ tín với các nước thì không thể hưng thịnh, một người không có chữ
tín với mọi người thì không thể lập nghiệp.