Nếu
là một người mê Tam quốc, có lẽ không ai không biết về cuộc kết bái huynh đệ nổi
tiếng của ba anh em Lưu Quan Trương mà người ta vẫn thường gọi là "kết nghĩa
vườn đào”. Thế nhưng, có lẽ ít người biết rằng, kết nghĩa vườn đào chỉ là câu
chuyện hoàn toàn bịa đặt của tác giả Tam quốc. Thực tế, Lưu Bị, Quan Vũ và
Trương Phi chưa bao giờ kết bái huynh đệ chứ đừng nói tới vườn
đào…
Cuộc
kết nghĩa của ba anh em Lưu Quan Trương là câu chuyện mở đầu của cuốn tiểu
thuyết "Tam quốc diễn nghĩa” nổi tiếng được không ít người biết tới. Chuyện kể
rằng, vào cuối thời nhà Hán, triều đình thối nát khiến cảnh đói rách tràn lan,
những cuộc khởi nghĩa của nông dân nổi lên khắp mọi nơi. Năm đó, bọn giặc Khăn
vàng nổi dậy chống lại triều đình, sức tấn công như vũ bão.
Khi
đại quân của chúng tấn công vào U Châu, thái thú của châu này là Lưu Yên rất lo
lắng mới viết cáo thị dán giữa chợ để tìm người tài tham gia cùng binh lính
triều đình chống giặc Khăn vàng. Hôm cáo thị đến Trác Quận thì cũng là lúc Lưu
Bị, Quan Vũ, Trương Phi tình cờ gặp nhau.
Lưu
Bị vốn là dòng dõi hoàng thất bị sa sút, phải làm nghề đan dép, bán chiếu kiếm
sống, thấy cáo thị chiêu quân không nén được lòng mới cảm khái thở dài.
Trương
Phi làm nghề mổ lợn, tính tình nóng như lửa, thấy vậy mới quát hỏi: "Đại trượng
phu phải vì quốc gia mà ra sức, chứ than thở có ích gì?”. Lưu Bị thấy Trương Phi
khí khái mới mời vào quán uống rượu bàn chuyện thế sự. Đương lúc đó thì Quan Vũ
bước vào gọi rượu, nói rằng uống say để ngày mai giết giặc Khăn vàng. Thấy Quan
Vũ tướng mạo hơn người, Lưu Bị mới sang mời lại cùng ngồi. Ba người nói chuyện
càng lúc càng tâm đắc, cuối cùng Trương Phi đề nghị, ngày mai, ba người sẽ đến
vườn đào để làm lễ kết bái anh em rồi cùng mưu tính việc
lớn.
Lưu
Bị và Quan Vũ cho là phải, đồng ý nghe theo. Ngày hôm sau, Trương Phi sai người
nhà bày lễ tại vườn đào, ba người quỳ trước hương án lạy hai lạy rồi cùng thề
đồng tâm hiệp lực, sống chết có nhau. Thề xong, ba người đem so tuổi nhau thì
Huyền Đức được làm anh cả, Vân Trường làm thứ 2, còn Trương Phi làm em
út.
Xuất
hiện ở ngay hồi một và là ba nhân vật chính xuyên suốt của cuốn tiểu thuyết "ủng
Lưu phản Tào” (ủng hộ Lưu Bị, chống lại Tào Tháo), cuộc kết nghĩa vườn đào của
ba anh em Lưu Quan Trương từ trước tới nay luôn được coi là tấm gương mẫu mực
cho tình huynh đệ kết nghĩa.
Thậm
chí, kết nghĩa vườn đào còn trở thành một điển cố giàu ý nghĩa trong văn chương.
Thế nhưng, thực tế lịch sử lại diễn ra hoàn toàn không giống như những gì đã
được tác giả La Quán Trung đã viết. Những bằng chứng rõ ràng nhất đều cho thấy,
Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi thực sự chưa bao giờ kết nghĩa làm anh
em.
1.Không
sử sách nào ghi chép
Trong
phần "Quan Vũ truyện”, sách "Tam quốc chí” của Trần Thọ có chép, khi Lưu Bị dựng
cờ tập hợp quân sĩ, Quan Vũ, Trương Phi đã đến đầu quân dưới trướng. Lưu Bị sau
đó được phong Bình Nguyên tướng, "thân thiết với Quan, Trương như anh em, còn
ngủ cùng giường. Quan, Trương hai người ngày ngày hầu hạ bên cạnh, không quản
ngại khó nhọc, gian khổ”. Quan Vũ từng nói: "Tôi chịu ơn của Lưu tướng quân, thề
sẽ cùng sống chết”.
Từ
hai đoạn chép trong cuốn sử được coi là khá chính xác về thời đại Tam quốc như
"Tam quốc chí” của Trần Thọ, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng mối quan
hệ giữa Lưu, Quan, Trương rất thân thiết, vui buồn cùng hưởng, hoạn nạn cùng
chia. Quan Vũ, Trương Phi cũng rất chung thành với Lưu Bị, không quản gian khổ
ngày ngày theo hầu bên cạnh để bảo vệ cho Lưu Bị.
Tuy
nhiên, trong nguyên văn Trần Thọ chỉ viết, ba người "thân như anh em” chứ hoàn
toàn không nói ba người có quan hệ anh em hay đã từng kết bái làm anh em. Thêm
nữa, câu nói của Quan Vũ cũng cho thấy, ba người chưa từng kết nghĩa huynh đệ
như những gì La Quán Trung đã miêu tả trong "Tam quốc diễn nghĩa”. Bởi vì nếu
như ba người đã từng kết nghĩa huynh đệ, Quan Vũ sẽ phải gọi Lưu Bị là "anh” chứ
không bao giờ gọi Lưu Bị là "Lưu tướng quân” như Trần Thọ đã chép. Tuy nhiên,
đây chưa phải là chứng cứ duy nhất.
Sách
"Tam quốc chí” phần "Trương Phi truyện” cũng có chép, từ khi Trương Phi còn trẻ
đã cùng với Quan Vũ khởi sự và cùng thờ Lưu Bị. "Vũ lớn hơn nhiều tuổi, nên Phi
coi như anh”. Như vậy, sách "Tam quốc chí” cũng chỉ chép Trương Phi xem Quan Vũ
như anh chứ không đề cập đến Lưu Bị. Hơn nữa, sử gia này cũng chỉ nói, vì Quan
Vũ nhiều tuổi hơn so Trương Phi nên Trương Phi đối đãi như anh chứ không phải
hai người họ kết nghĩa. Gọi một người là "anh” hoàn toàn không có nghĩa rằng họ
đã từng kết nghĩa làm anh em.
Trong
"Lưu Diệp truyện” của sách này cũng chép, sau khi Quan Vũ làm mất Kinh Châu, bị
quân Đông Ngô giết chết, Ngụy Văn Đế Tào Phi, con Tào Tháo mới hỏi quần thần
rằng liệu Lưu Bị có xuất binh tấn công Ngô hay không, trong số những người đứng
hầu, Lưu Diệp bước ra đáp: "Lưu Bị và Quan Vũ nghĩa là quân thần, nhưng ơn như
cha con, Quan Vũ bị giết hại, nếu như Lưu Bị không xuất quân báo thù cho hắn thì
cả ơn cả nghĩa đều không thể coi là trọn vẹn trước sau với Quan Vũ”.
Lưu
Diệp dùng từ "cha con” để hình dung mối quan hệ cá nhân giữa Lưu Bị và Quan Vũ
chứ không hề đề cập tới quan hệ anh em. Nếu như Lưu, Quan, Trương đã từng kết
bái huynh đệ, ắt hẳn Lưu Diệp sẽ không nói như vậy.
Từ
những dẫn chứng nói trên, có thể khẳng định hai điều. Một là, mối quan hệ giữa
Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi đích thực rất thân thiết, giống như anh em, cha
con. Thứ hai, và điều này mới quan trọng, rằng không có bất cứ sử liệu nào ghi
chép chuyện kết nghĩa vườn đào của Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, ngoại trừ "Tam
quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung.
Trong
hồi đầu tiên của "Tam quốc diễn nghĩa” có viết, khi giặc Khăn vàng nổi dậy nhằm
vào năm Trung Bình thứ nhất đời Hán Linh Đế (tức năm 184), khi đó Lưu Bị đã 28
tuổi. Sau đó, trong cùng một ngày, Lưu
Bị gặp cả Trương Phi và Quan Vũ, cả ba đều hận rằng đã gặp nhau quá muộn. Vì
thế, ngay ngày hôm sau, ba người đã có buổi "kết nghĩa vườn đào” nổi tiếng mà ai
cũng biết.
Tuy
nhiên, việc La Quán Trung nói trong "Tam quốc diễn nghĩa” rằng năm đó, Lưu Bị
"tuổi đã 28” là không chính xác. Căn cứu theo "Tiên chủ truyện” (Truyện về Lưu
Bị) của sách "Tam quốc chí” thì Lưu Bị chết vào tháng năm Chương Vũ thứ 3 (tức
năm 223), năm đó, Lưu Bị "63 tuổi”. Theo cách tính tuổi truyền thống của người
Trung Quốc là tính cả tuổi mụ thì Lưu Bị sinh vào năm 161. Như vậy, khi giặc
Khăn vàng nổi dậy vào năm 184 thì Lưu Bị mới 23 tuổi.
Lại
xem đến tuổi của Quan Vũ. Sử sách ghi chép về năm sinh của Quan Vũ là "không
rõ”, chỉ biết vị tướng mặt đỏ râu dài này mất vào năm Kiến Anh thứ 24 (tức là
năm 219). Các nhà nghiên cứu sau khi bỏ rất nhiều công khảo chứng cho rằng, Quan
Vũ sinh vào khoảng năm 159, lớn hơn Lưu Bị 2 tuổi.
Vào
những năm dưới triều vua Khang Hy nhà Thanh, khi đào giếng tại quê cũ Quan Vũ
tại Giải Châu (nay là thành phố Vận Thành, Sơn Tây, Trung Quốc), người ta đã đào
được bia mộ của ngôi mộ tổ của dòng họ Quan Vũ.
Trên
tấm bia mộ đào được có khắc gia thế của Quan Vũ. Khi đó, có một người tên là Chu
Đán đã viết một bài văn có tên là "Ghi chép về tấm bia mộ tổ Quan Vũ”. Trong bài
viết này Chu Đán có viết rằng, Quan Vũ sinh vào năm Diên Hy thứ 3 nhà Hán, tức
năm 1960.
Theo
cách tư liệu này thì Quan Vũ hơn Lưu Bị 1 tuổi. Như vậy, dù theo nguồn sử liệu
nào thì chí ít, Quan Vũ cũng lớn hơn Lưu Bị ít nhất là một tuổi. Tuổi của Trương
Phi thì tương đối dễ xác định. Trong sách "Quan Công niên phổ” có chép, Trương
Phi nhỏ hơn Lưu Bị 4 tuổi. Theo đó mà tính thì Trương Phi sinh vào khoảng năm
165 và kém Quan Vũ chí ít là 5 tuổi. Theo một tài liệu khác thì Trương Phi sinh
vào năm 167.
Từ
những số liệu trên đây có thể khẳng định rằng, trong số ba người Lưu Bị, Quan Vũ
và Trương Phi thì Quan Vũ là người lớn tuổi nhất, thứ đến là Lưu Bị rồi mới tới
Trương Phi. Như vậy, giả như ba người họ có làm lễ kết nghĩa thành anh em mà các
sử gia "quên” không ghi vào sử sách thì người anh cả phải là Quan Vũ chứ không
phải Lưu Bị và bộ ba "Lưu Quan Trương” đáng ra phải là "Quan Lưu Trương” mới hợp
lẽ.
3.Chuyện
bịa đặt trong dân gian
Như
vậy, rõ ràng là chuyện "kết nghĩa vườn đào” của ba người Lưu Bị, Quan Vũ, Trương
Phi là hoàn toàn không đáng tin vì vừa không có căn cứ về mặt sử liệu lại vừa có
rất nhiều sơ hở. Vậy vì sao La Quán Trung lại đưa chuyện kết nghĩa vườn đào vào
trong tiểu thuyết của mình mà lại đưa lên ngay vị trí đầu tiên của cuốn sách?
"Tam
quốc diễn nghĩa” vốn là một cuốn sách "bảy phần thực ba phần hư”. Tác giả La
Quán Trung, sống cách thời Tam quốc hàng ngàn năm để viết được một cuốn sách như
vậy phần lớn là căn cứ vào các câu truyện lưu truyền trong dân gian rồi biên
soạn lại. Mà chuyện kết nghĩa vườn đào là một trong số không ít những câu chuyện
do dân gian tưởng tượng mà nên. Việc dân gian lưu truyền cuộc kết nghĩa vườn đào
của ba người Lưu Quan Trương có thể là do sự tưởng tượng từ câu "tình như anh
em” trong cuốn chính sử của Trần Thọ.
Còn
việc Lưu Bị mặc dù nhỏ tuổi hơn Quan Vũ nhưng vẫn được tôn làm anh là vì Lưu Bị
ít tuổi, song lại là vua. Trong mối quan hệ về mặt "hành chính”, Lưu Bị là "cấp
trên” của Quan Vũ, do vậy khi dân gian tưởng tượng ra câu chuyện "kết nghĩa vườn
đào” đã đưa Lưu Bị lên làm anh. Như vậy mới gọi là biết "lễ”, biết "nghĩa”. Vấn
đề là ở chỗ, từ khi nào thì câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” bịa đặt này bắt đầu
xuất hiện?
Chuyện
"kết nghĩa vườn đào” xuất hiện trong "Tam quốc diễn nghĩa” rõ ràng là do La Quán
Trung căn cứ trên các truyền thuyết dân gian rồi kết hợp với yêu cầu về tình
tiết của cuốn tiểu thuyết mà sáng tạo nên. Nhưng trước khi cuốn sách Tam quốc
nổi tiếng ra đời, thì câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” đã lưu truyền trong dân
gian từ lâu.
Theo
khảo cứu thì muộn nhất là tới thời nhà Tống (khoảng thế kỷ 11) thì câu chuyện
"kết nghĩa vườn đào” bắt đầu lưu truyền. Cuối đời Tống, trong cuốn sách "Ghi
chép về việc xây lại miếu” có chép: "Ban đầu, Quan Vũ và Xa kỵ tướng quân Trương
Phi cùng với Lưu Bị làm bạn, kết thành anh em…”.
Như
vậy, bắt đầu từ đây, mối quan hệ "thân như anh em” trong chính sử, bắt đầu biến
thành "kết thành anh em” trong các câu chuyện dân gian. Đến thời Nguyên sau đó,
câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” này càng ngày càng trở nên đầy đủ và hoàn thiện
hơn. Người ta bắt đầu thêm vào đó các tình tiết để câu chuyện trở nên phong phú
hơn. Và cũng vì thế, bắt đầu xuất hiện những dị bản khác nhau về chuyện "kết
nghĩa vườn đào”.
Trong
một vở kịch được dựng vào thời Nguyên, thời đại hý kịch phát triển nhất trong
lịch sử Trung Quốc, có một vở kịch tên là "Kết nghĩa vườn đào của Lưu Quan
Trương” có ghi lại câu chuyện như sau: Quan Doãn Bồ Châu họ Tang muốn nhân lúc
thiên hạ rối loạn tự mình tạo dựng binh nghiệp, mời Quan Vũ làm tướng thống
lĩnh. Quan Vũ giết họ Tang rồi trốn đến đất Phạm Dương, Trác Châu. Lúc đó,
Trương Phi đang mở cửa hàng bán thịt tại đây.
Một
hôm, Trương Phi có việc ra ngoài, trước khi đi, cố ý dùng một tảng đá lớn đè lên
một thành đao đặt phía trước cửa hàng, nói với người làm rằng, nếu như có người
có thể lấy được thanh đao đặt dưới tảng đá thì đem toàn bộ thịt biếu cho người
đó và phải nhớ người đó ở đâu.
Không
lâu sau, Quan Vũ đi ngang qua cửa hàng của Trương Phi, nghe câu chuyện này, mới
nhẹ nhàng bước tới nâng tảng đá lớn, lấy thanh đao một cách dễ dàng. Tuy nhiên,
Quan Vũ nhất định từ chối không nhận thịt. Khi Trương Phi trở về, biết chuyện
này bèn đi tìm Quan Vũ đến quán rượu gặp mặt rồi bái Quan Vũ làm anh.
Hai
người sau đó lại gặp Lưu Bị. Thấy Lưu Bị tướng mạo phi phàm nên Quan Trương hai
người mới mời uống rượu cùng. Lưu Bị uống say nằm ngủ, chỉ thấy có con rắn đỏ
chui vào thất khiếu Lưu Bị. Quan Vũ cho rằng "phúc của người này tương lai ắt sẽ
giàu sang phú quý”. Vì vậy, hai người lại cùng bái Lưu Bị làm anh. Ba người cùng
mổ trâu giết ngựa, lập hương án tại vườn đào ngoại thành làm lễ trước trời đất
đồng thời thề rằng: "Không cầu cùng sinh môt ngày, chỉ cầu sẽ cùng chết một
ngày”.
Trong
một cuốn sách có tên "Lời bình về Tam quốc chí” cũng thuộc thời Nguyên, câu
chuyện "kết nghĩa vườn đào” càng được miêu tả chân thực hơn. Sách viết rằng:
Quan Vũ quê ở Bình Dương, Bồ Châu, vốn là một người lương thiện, tướng mạo phi
phàm, mắt phượng mày ngài, thân cao 9 thước 2, thích xem sách "Xuân Thu”, "Tả
truyện”, mỗi khi xem đến đoạn bọn loạn thần tặc tử thì vô cùng tức giận. Sau đó,
vì quan huyện Bình Dương tham tàn bạo ngược, tàn hại nhân dân trong huyện, Quan
Vũ trong cơn tức giận đã giết chết tên quan độc ác, sau đó bỏ trốn đến Trác
Quận.
Ở
Trác Quận có một người họ Trương, tên Phi, thân cao hơn 9 thước, tiếng nói như
chiếc chuông lớn, là một người giàu có trong vùng. Một hôm, khi Trương Phi đang
đứng trước cửa nhà mình thì nhìn thấy Quan Vũ đi qua. Trương Phi thấy người đàn
ông đi qua trước mặt mình tướng mạo hơn người nên mới bước lên thi lễ hỏi thăm.
Quan
Vũ kể cho Trương Phi nghe câu chuyện mình giết người rồi phải bỏ trốn đến đây.
Trương Phi nghe xong, cảm thấy Quan Vũ có chí của một anh hùng nên mời Quan Vũ
tới quán rượu trò chuyện. Hai người vừa uống vừa trò chuyện, thấy rất tâm đầu ý
hợp, giống như bạn cũ lâu ngày không gặp nhau.
Vừa
khi đó, có một người bán giày cỏ dạo trên phố tên Lưu Bị vừa bán hết hàng cũng
vào quán rượu. Quan, Trương hai người nhìn thấy Lưu Bị tướng mạo phi phàm, khác
hẳn người thường.
Quan
Vũ mời Lưu bị một chén rượu, Lưu Bị không khách khí, một hơi uống cạn. Nói
chuyện vài câu, ba người bèn chuyển sang ngồi cùng một bàn. Uống một lúc, Trương
Phi bỗng nói ở quán rượu đông người nói chuyện không tiện, nên mời Lưu Bị và
Quan Vũ về nhà mình.
Tại vườn đào phía sau nhà Trương Phi, ba người
ngồi trong mái đình uống rượu trò chuyện. Trong cuộc trò chuyện, ba người so độ
tuổi thì Lưu Bị lớn tuổi nhất, thứ đến Quan Vũ và trẻ nhất là Trương Phi. Vì
thế, ba người bèn kết nghĩa làm anh em, lớn làm anh, nhỏ làm em, đồng thời mổ
ngựa trắng, giết trâu đen làm lễ tế trời đất, nguyện không sinh cùng ngày nhưng
sẽ chết cùng ngày.
Từ
những ghi chép sơ sài thời Tống, cho tới cuốn tiểu thuyết của La Quan Trung, có
thể nói "Tam quốc diễn nghĩa” đã đưa câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” lên tới mức
hoàn chỉnh nhất đồng thời đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật.
Từ đời Tống, qua đời nhà Nguyên, "kết nghĩa
vườn đào” đã lưu truyền trong dân gian một thời gian rất dài nên dị bản rất
nhiều. La Quan Trung đã khéo léo lược bỏ những phần hoang đường, thô sơ trong
các câu chuyện lưu truyền trong dân gian để viết thành phiên bản "kết nghĩa vườn
đào” kinh điển nhất.
Trong
cuốn sách này, Lưu Quan Trương ba người kết nghĩa làm anh em trước hoàn cảnh đất
nước gặp họa và cả ba đều muốn đầu quân tham gia giết giặc, bảo vệ đất nước. Với
cách sáng tạo này, rõ ràng, câu chuyện "kết nghĩa vườn đào” của La Quán Trung
cao hơn hẳn các phiên bản khác, giúp người đọc tin phục một cách tuyệt đối rằng,
hành động kết nghĩa của ba người Lưu Quan Trương là hành động vì chính
nghĩa.
Một
vấn đề đáng quan tâm nữa là, vì sao từ dân gian cho tới La Quán Trung đều muốn
mọi người coi Lưu Quan Trương là chính nghĩa mà Tào Tháo là gian ác, phi
nghĩa?
Nếu
như căn cứ theo cuốn chính sử "Tam quốc chí” của Trần Thọ thì Tào Tháo kỳ thực
là một nhân vật kiệt xuất, hùng tài đại lược. Còn những Lưu Bị, Quan Vũ, Trương
Phi cho tới Khổng Minh đều hoàn toàn không phải là hiện thân của chính nghĩa,
hay trung nghĩa mà chỉ là một trong ba thế lực cát cứ thời bấy giờ.
Tuy
nhiên, chỉ vài triều đại sau đó, hình ảnh hai phe phái này đã có sự đảo chiều,
Tào Tháo dần dần trở thành kẻ gian hùng, hiểm ác còn Lưu Bị thì dần trở thành
hóa thân của chính nghĩa. Đặc biệt là Quan Vũ và Khổng Minh thì ngày càng được
thần thánh hóa. Họ được dân gian đặt ngang bằng với hoàng đế, thậm chí là cao
hơn cả hoàng đế. Cho tới nay, ở Trung Quốc, số đền thờ Quan Vũ có tới hàng ngàn,
nhiều hơn cả miếu thờ Khổng Tử.
Quan
điểm "ủng Lưu kháng Tào” bắt đầu xuất hiện từ thời nhà Đường, nhưng tới thời Nam
Tống thì thực sự có một bước ngoặt. Đó là khi triều đình Bắc Tống bị quân Kim
tấn công, chiếm cả thủ đô.
Tàn
quân nhà Tống chạy về phía nam, lập kinh đô mới ở Lâm An (nay là Hàng Châu) hình
thành nhà Nam Tống. Bị quân Kim chiếm mất nửa đất nước, những người theo nhà Nam
Tống đương nhiên hận đến thấu xương đối với những người Kim sống ở miền bắc.
Trong
thời kỳ Tam quốc, nước Ngụy của Tào Tháo chiếm cứ toàn bộ vùng phía bắc, còn
nước Thục và nước Ngô thì ở phía nam. Vì thế, vào thời Nam Tống, mỗi khi nhắc
tới những câu chuyện thời Tam Quốc, Tào Tháo trở thành kẻ địch trong tưởng tượng
của họ. Thế là bao nhiêu nỗi uất hận đối với người Kim, những con dân Nam Tống
đều dồn cả lên đầu Tào Tháo. Từ đó mà hình thành tư tưởng đề cao Lưu Bị, hạ thấp
Tào Tháo.
Câu
chuyện giữa Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi cũng là một nguyên nhân khiến Tào Tháo
bị phản đối. Dân gian thường coi trọng tư tưởng trung nghĩa mà mối quan hệ thân
thiết, trung thành giữa ba người Lưu Quan Trương thì thỏa mãn được nhu cầu tâm
lý này.
Hơn
nữa, Lưu Bị dẫu sao vẫn là họ Lưu, nghĩa là con cháu nhà Hán. Còn Tào Tháo thì
nói đi nói lại vẫn là con cháu một tên hoạn quan, xuất thân thấp hèn. Vì vậy,
người ta đồng ý để Lưu Bị có thêm hai người anh em có võ nghệ cao cường với lòng
trung thành tuyệt đối. Đó cũng là lý do vì sao, người ta lại bịa ra câu chuyện
"kết nghĩa vườn đào” hoàn toàn chưa bao giờ xảy ra này.