Trương
Phi (chữ Hán: 張飛; 163 -
221) là danh tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung
Quốc.
Trương
Phi tự là Ích Đức, hay thường được gọi là Dực Đức[2], người Trác Quận (nay là
Trác Châu, địa cấp thị Bảo Định, tỉnh Hà Bắc)[1].
Ông sinh
trưởng trong một gia đình nghèo, làm nghề bán rượu, thân hình to lớn, dung mạo
oai phong, được học hành cả võ nghệ lẫn sách vở. Trương Phi viết chữ rất đẹp và
là một họa sĩ, ông có sở trường vẽ tranh mỹ nhân[3].
Khi còn
trẻ, Trương Phi đã gặp gỡ và kết giao với Lưu Bị và Quan Vũ. Ba người rất thân
thiết với nhau, coi nhau như anh em một nhà.
Năm 184,
Lưu Bị khởi binh giúp nhà Hán chống quân khởi nghĩa Khăn Vàng, Trương Phi và
Quan Vũ theo giúp sức. Nhờ lập công, Lưu Bị được phong làm Huyện úy An Hỷ. Được
một thời gian, Lưu Bị bỏ chức Huyện úy vì đánh viên Đốc bưu của triều đình đến
hạch sách, Trương Phi theo đi.
Tam Quốc
diễn nghĩa kể rằng người đánh viên Đốc bưu là Trương Phi khi ông nóng giận,
nhưng trong thực tế chính Lưu Bị làm việc này rồi bỏ ấn từ
quan[4].
Trương
Phi theo phò tá Lưu Bị đến huyện Hạ Mật[5] làm Huyện thừa (Phó huyện trưởng)
theo sự tiến cử của Vô Kỳ Nghị, rồi huyện úy Cao Đường[6].
Ít lâu
sau, anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi giao tranh với quân cướp địa phương bị
bại trận, bèn bỏ huyện Cao Đường đến nương nhờ sứ quân Công Tôn Toản ở U châu.
Sau đó Trương Phi lại theo Lưu Bị đến Thanh châu giúp Điền Khải chống Viên
Thiệu, đóng quân ở Bình Nguyên.
Lưu Bị
được phong làm tướng quốc Bình Nguyên, bèn phong cho Trương Phi làm Biệt bộ tư
mã, thống lĩnh quân đội.
Năm 193,
ông lại theo Lưu Bị đi cứu Đào Khiêm ở Từ châu bị Tào Tháo vây đánh, giúp Đào
Khiêm giữ được thành Đan Dương. Không lâu sau khi quân Tào rút đi (để về chiếm
lại Duyện châu từ tay Lã Bố), Đào Khiêm qua đời, trước khi mất tiến cử Lưu Bị
làm Châu mục Từ châu.
Năm 195,
Lã Bố thất bại trong cuộc giao tranh với Tào Tháo ở Duyện châu, đến nương nhờ
Lưu Bị. Quân phiệt Viên Thuật ở Thọ Xuân (Dương châu) tấn công Lưu Bị để tranh
đoạt Từ châu. Lưu Bị mang quân đi Vu Thai kháng cự Viên Thuật, sai Trương Phi
giữ thành Hạ Bì (thủ phủ Từ châu). Trương Phi bất hòa với viên tướng cũ của Đào
Khiêm là Tào Báo, bèn giết chết Tào Báo.
Viên
Thuật viết thư cho Lã Bố đề nghị đánh úp Từ châu, đổi lại Thuật sẽ giúp lương.
Lã Bố nhận lời, nhân lúc Hạ Bì hỗn loạn do cái chết của Tào Báo, bèn mang quân
đến đánh úp Hạ Bì. Viên Trung lang tướng Hứa Đam trong thành Hạ Bì phản lại
Trương Phi, mở cửa đón Lã Bố. Trương Phi không chống nổi quân Lã Bố, mang thủ hạ
bỏ chạy, không kịp mang theo gia quyến Lưu Bị[7].
Trương
Phi chạy đến chỗ Lưu Bị ở Hoài Âm. Do tình thế bức bách, lực lượng yếu không
kháng cự được Viên Thuật và Lã Bố, ba anh em Lưu Bị phải quay về Từ châu hàng Lã
Bố. Lã Bố tiến cử Lưu Bị làm Dự châu mục, sang đóng ở thành Tiểu Bái gần
đó.
Anh em
Lưu Bị phát triển thế lực ở Tiểu Bái khiến Lã Bố lo ngại. Lã Bố bèn mang quân
tới đánh. Anh em Lưu Bị thua chạy, đến nương nhờ Tào Tháo. Năm 198, Tào Tháo
liên hợp với Lưu Bị khởi đại binh đánh Từ châu, hạ thành Hạ Bì, giết chết Lã Bố.
Sau đó ông theo Lưu Bị về Hứa Xương, được Tào Tháo phong làm Trung lang
tướng.
Năm 199,
ông theo Lưu Bị rời Hứa Xương tới Từ châu, ly khai Tào Tháo. Tào Tháo mang quân
đánh Từ châu. Ba anh em Trương Phi xung trận thất bại, bị lạc mỗi người một nơi:
Lưu Bị chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu, Quan Vũ phải hàng Tào, còn Trương Phi
cầm một cánh quân chạy tới tận Cổ Thành thuộc huyện Chân Dương, quận Nhữ Nam[8].
Tại đây Trương Phi gặp tướng quân Khăn Vàng là Lưu Tiết, bèn hợp quân với nhau
làm một cùng nương tựa[9].
Năm 200,
Lưu Bị cùng Triệu Vân rời khỏi chỗ Viên Thiệu về Cổ Thành, Nhữ Nam hội với
Trương Phi và Lưu Tiết; Quan Vũ cũng đến hội[10]. Cuối năm đó, do giao tranh với
Tào Tháo bất lợi, Trương Phi theo Lưu Bị chạy về Kinh châu nương nhờ Lưu Biểu.
Ông cùng Lưu Bị đóng đồn ở Tân Dã thuộc quận Nam Dương.
Năm 208,
Tào Tháo sau khi tiêu diệt họ Viên làm chủ miền bắc, phát đại quân tấn công Kinh
châu. Con Lưu Biểu (mới mất) là Lưu Tông đầu hàng. Lưu Bị không chống nổi Tào
Tháo, mang dân vượt sông. Tào Tháo mang quân thiết kỵ truy kích, đuổi kịp Lưu Bị
ở Đương Dương Tràng Bản[11].
Lưu Bị
không kịp chống đỡ, bỏ cả gia quyến chạy, quân bị thua tan tác. Trương Phi theo
lệnh Lưu Bị mang 20 kỵ binh đi chặn hậu, ngăn cản quân Tào. Ông đợi Lưu Bị cùng
những người đi kịp sang sông rồi đứng lên chặn ở đầu cầu Tràng
Bản.
Quân Tào
truy kích đuổi đến nơi. Một mình Trương Phi hùng dũng đứng trên cầu cầm xà mâu,
không ai trong quân Tào dám tiến lên giao phong[12]. Nhờ đó Lưu Bị cùng các thủ
hạ chạy thoát.
Sau trận
Xích Bích, Trương Phi giúp Lưu Bị chinh chiến giành quyền kiểm soát phần lớn
Kinh châu. Lưu Bị cắt mấy huyện thuộc Nam quận ra thành lập quận Nghi Đô, phong
Trương Phi làm Chinh lỗ tướng quân, Thái thú Nghi Đô[13].
Năm 211,
Lưu Bị mang quân vào đánh Ích châu của Lưu Chương. Trương Phi cùng Quan Vũ,
Triệu Vân và Gia Cát Lượng trấn giữ Kinh châu.
Tôn
Quyền nghe tin Lưu Bị đi vắng, bèn phái một đội thuyền đến Kinh châu đón em gái
(vợ mới của Lưu Bị) về. Tôn phu nhân muốn mang theo con Lưu Bị là Lưu Thiện lúc
đó mới 7 tuổi, về theo. Trương Phi và Triệu Vân nghe tin, vội mang quân ra chặn
sông, khuyên Tôn phu nhân ở lại nhưng Tôn phu nhân không nghe. Hai tướng đành để
Tôn phu nhân đi, nhưng buộc phu nhân để lại A Đẩu.
Năm 214,
do giao tranh tại Ích châu chưa giành được thắng lợi, Lưu Bị triệu tập thêm các
tướng ở Kinh châu tham chiến. Trương Phi cùng Triệu Vân và Gia Cát Lượng mang
quân vào Tây Xuyên trợ chiến, để Quan Vũ ở lại trấn thủ Kinh
châu.
Tam Quốc
diễn nghĩa kể rằng lúc đó Gia Cát Lượng thống lĩnh Trương Phi và Triệu Vân mang
cánh quân vào Tây Xuyên. Các sử gia đính chính rằng: thực tế là Trương Phi và
Triệu Vân theo lệnh của Lưu Bị mang theo Gia Cát Lượng cùng đi, vì lúc đó chức
vụ của Trương Phi (Chinh lỗ tướng quân) cao nhất, sau đó đến Triệu Vân (Nha môn
tướng quân), rồi mới đến Gia Cát Lượng (Quân sư trung lang tướng, chức "trung
lang tướng” còn kém "tướng quân” một cấp)[14]. Các sử gia còn bàn rộng hơn rằng,
lúc đó Trương Phi ngoài chức tướng quân, ông còn có tước đình hầu, như vậy đã có
thể xưng "Cô” như Tào Tháo và Tôn Quyền[13].
Cánh
quân của Trương Phi, Triệu Vân và Khổng Minh rầm rộ tiến vào bình định các quận
huyện. Trương Phi đánh Ba quận, Gia Cát Lượng đánh Ba Đông, Triệu Vân đánh Giang
Dương và quận Kiện Vi. Trương Phi đụng thái thú Ba quận là Nghiêm Nhan. Nghiêm
Nhan trí dũng song toàn, dựa vào thành trì ở vùng núi hiểm trở nên không quy
phục. Trương Phi dùng mưu kế đánh bại và bắt sống Nghiêm Nhan. Trước sự khẳng
khái của Nghiêm Nhan, ông cởi trói, trọng đãi Nghiêm Nhan, dụ được Nghiêm Nhan
đầu hàng[15].
Tam Quốc
diễn nghĩa mô tả trận này Trương Phi dùng kế lừa Nghiêm Nhan đi ra khỏi thành để
vây bắt Nghiêm Nhan
Sau đó
Trương Phi cùng Gia Cát Lượng đi theo đường phía bắc, còn Triệu Vân cầm cánh
quân đi theo đường phía nam, cùng hội ở Lạc Thành. Các sử gia xác định ông đi
theo lối Bồi Giang lên phía tây bắc qua Hợp Xuyên, Toại Ninh, Tam Đài. Ông được
Nghiêm Nhan hỗ trợ dụ hàng các vùng Ba Tây, Đức Dương. Lưu Chương sai lão tướng
Trương Duệ mang quân ra kháng cự, bị Trương Phi đánh tan[16]. Trương Duệ mang
tàn quân chạy về Thành Đô. Trương Phi chuyển qua hướng tây để hợp binh với Lưu
Bị và Triệu Vân đánh Lạc Thành rồi tấn công vào Thành Đô.
Lưu
Chương đầu hàng. Lưu Bị chiếm được Tây Xuyên, bổ nhiệm Trương Phi làm Thái thú
Ba Tây.
Năm 215,
Tào Tháo đánh bại Trương Lỗ, chiếm cứ Hán Trung rồi để lại Hạ Hầu Uyên và Trương
Cáp trấn giữ. Trương Cáp mang quân xuống phía nam tiến vào Ba Tây để bắt dân
mang về. Trương Phi mang quân ra kháng cự. Hai bên gặp nhau ở Đãng Cừ, Mông Đầu,
cầm cự 50 ngày không phân thắng bại. Trương Phi tự mình mang hơn 1 vạn quân ra
đường khác chặn đánh Trương Cáp. Trương Cáp gặp đường núi khó di chuyển nên bị
Trương Phi đánh bại, phải bỏ ngựa dẫn tàn quân men theo đường nhỏ dốc đứng trốn
thoát về Nam Trịnh[17].
Tam Quốc
diễn nghĩa mô tả trận này Trương Phi sai người tung tin ông say rượu trong
trướng, để hình người nộm để dụ Trương Cáp vào cướp trại rồi đổ phục binh đánh
bại Trương Cáp
Trương
Phi thắng trận, cho dựng một tấm bia trên sườn núi Đãng Cừ, tự tay viết văn bia,
lời lẽ rất hùng tráng[18]:
"Tướng
quân nhà Hán là Phi, suất lãnh một vạn tinh binh đại phá đầu sỏ của giặc là
Trương Cáp ở Đãng Cừ, dừng ngựa dựng bia"
Năm 219,
Lưu Bị chiếm được Hán Trung, tự xưng là Hán Trung vương, bổ nhiệm Trương Phi là
Hữu tướng quân.
Cùng năm
219, anh kết nghĩa của Trương Phi là Quan Vũ bị liên minh Ngô-Ngụy giáp binh
đánh bại và bị giết.
Năm 221,
Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Trương Phi được phong làm Xa kị tướng quân kiêm Tư Lệ
hiệu úy, Tây Hương hầu. Lưu Bị khởi binh đi đánh Đông Ngô báo thù cho Quan Vũ,
sai Trương Phi cầm quân bản bộ xuất phát từ Lãng Trung đến Giang châu hội binh
với Lưu Bị.
Khi đang
chuẩn bị tấn công Đông Ngô, Trương Phi bị 2 tuỳ tướng của mình là Trương Đạt và
Phạm Cương sát hại[1]. Trương Đạt và Phạm Cương sau đó trốn sang Đông
Ngô.
Tam Quốc
diễn nghĩa kể rằng Trương Phi bắt hai tướng Trương Đạt và Phạm Cương phải gấp
rút may đủ áo giáp trắng để tang Quan Vũ trong thời gian ngắn và đánh đập họ khi
họ kêu khó hoàn thành nhiệm vụ.
Lưu Bị
truy tặng thụy hiệu cho Trương Phi là Hoàn hầu.
Vợ
Trương
Phi lấy Hạ Hầu thị, cháu gọi Hạ Hầu Uyên bằng bác, em họ của Hạ Hầu Bá. Cha mẹ
Hạ Hầu thị mất sớm, được Hạ Hầu Uyên nuôi dưỡng và coi như con gái[19]. Năm Kiến
An thứ 5 (200), khi khoảng 13-14 tuổi, Hạ Hầu thị ra ngoài kiếm củi thì bị quân
của Trương Phi bắt được[19]. Họ có 2 con trai và 2 con
gái.
Con
cái
Trương
Bào, mất sớm[1]. Tam Quốc diễn nghĩa kể Trương Bào là một viên tướng nối nghiệp
cha, theo Lưu Bị đi đánh Đông Ngô rồi lại theo Gia Cát Lượng bình định Nam Trung
và đánh Tào Ngụy.
Trương
Thiệu. Làm quan tới thị trung thượng thư bộc xạ[1].
Kính Ai
hoàng hậu Trương thị (?-237). Lấy thái tử Lưu Thiện vào năm Chương Vũ thứ 1
(221), tới năm Kiến Hưng thứ 1 (223) được lập làm Kính Ai hoàng hậu của Thục
Hán. Mất năm Kiến Hưng thứ 15 (237)[20].
Trương
hoàng hậu, vợ Lưu Thiện. Nhập cung làm quý nhân sau khi Kính Ai hoàng hậu mất.
Tháng 1 năm Diên Hi thứ 1 (238) được lập làm hoàng hậu. Sau khi Thục Hán diệt
vong năm 263 thì theo Lưu Thiện tới Lạc Dương[20].
Cháu
Trương
Tuân, con Trương Bào, làm quan tới thượng thư. Từng theo Gia Cát Chiêm tới phòng
thủ tại Miên Trúc, cùng Đặng Ngải giao chiến và chết tại
trận[1].
Trong
tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Trương Phi được mô tả "cao
tám thước, đầu báo, mắt tròn, râu hùm, hàm én". Trương Phi đã cùng với Lưu Bị và
Quan Vũ kết bái làm huynh đệ trong vườn đào. Ông là em út trong ba người. Ông
được Chiêu liệt hoàng đế tức Lưu Bị phong làm một trong ngũ hổ đại
tướng.
Ông là
một người rất khẳng khái, bộc trực và rất nóng nảy. Ông đã đóng góp rất nhiều
cho sự ra đời của nước Thục. Ông nổi tiếng với võ nghệ siêu phàm cùng với sự
dũng cảm coi thường cái chết. Ông thật sự là nỗi khiếp đảm của quân thù. Như
trận đánh cầu Trường Bản, ông đã quát mấy tiếng khiến Tào Tháo hoảng sợ mà lui
quân. Khi ấy ông chỉ có vài mươi kị sĩ còn Tào Tháo có trăm vạn hùng binh. Trong
trận ấy, viên quan theo hầu Tào Tháo là Hạ Hầu Kiệt đã hoảng sợ đến mức vỡ mật
mà chết.
Ngoài
ra, ông là một trong 2 tướng đã từng đơn độc giao chiến với Lã Bố mà chưa bị
thua chạy hoặc bị giết (người còn lại là Hứa Chử). Trong trận Hổ Lao, để cứu
Công Tôn Toản, ông đã đấu với Lã Bố hơn 50 hiệp bất phân thắng bại trước khi
Quan Vũ và Lưu Bị ra trợ chiến. Tổng cộng ông đã đấu với Lã Bố 2 trận, tất cả
gần 150 hiệp và đều bất phân thắng bại (trong khi Hứa Chử chỉ giao chiến với Lã
Bố được 20 hiệp bất phân thắng bại trước khi Tào Tháo sai 5 tướng khác ra trợ
chiến)
Cũng
chính vì tính nóng nảy của mình mà ông đã chuốc họa sát thân. Do nôn nóng báo
thù cho anh là Quan Vũ bị quân Đông Ngô hại nên ông thường đánh đập quân sĩ.
Trong đó có hai tên hạ quan dưới trướng là Trương Đạt và Phạm Cương, họ âm thầm
sát hại ông vì lo sợ bị ông chém đầu vì không hoàn thành quân lệnh ông giao là
phải lo quân trang cờ xí màu trắng cho toàn quân của ông mặc để tang anh là Quan
Vũ trong cuộc tấn công báo thù quân Đông Ngô. Đêm đó ông say rượu ngủ và bị đâm
chết.
Chú
thích:
1^ a b c
d e f g Tam quốc chí - quyển 36: Thục thư 6: Trương Phi
2^ Trịnh
Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr
617
3^ Lê
Đông Phương, sách đã dẫn, tr 94, 194
4^ Lê
Đông Phương, sách đã dẫn, tr 94
5^ Phía
đông huyện Xương Ấp, Sơn Đông
6^ Phía
tây nam Võ Thành
7^ Trịnh
Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr
618
8^ Ở
vùng Chính Dương, Hà Nam, Trung Quốc
9^ Lê
Đông Phương, sách đã dẫn, tr 103
10^ Lê
Đông Phương, sách đã dẫn, tr 107
11^ Nay
là phía bắc huyện Đương Dương, Hồ Bắc
12^
Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr
619
13^ a b
Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 249
14^ Lê
Đông Phương, sách đã dẫn, tr 248-249
15^
Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr
620
16^ Trần
Văn Đức, sách đã dẫn, tr 253
17^
Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr
621
18^ Lê
Đông Phương, sách đã dẫn, tr 264
19^ a b
Tam quốc chí - quyển 9: Ngụy thư - Hạ Hầu Uyên (dẫn Ngụy
lược)
20^ a b
Tam quốc chí - quyển 34: Thục thư 4 - Nhị chủ phi tử
truyện
21^
Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr
614