QUYỂN HẠ
GIÓ THU THỔI QUA GÒ NGŨ TRƯỢNG
THIÊN THỨ TÁM
DẤN THÂN TẬN TỤY
Chương XXVIII
GIÓ THU THỔI QUA GÒ NGŨ TRƯỢNG
Năm Kiến Hưng thứ 12, cuối tháng 8, Gia Cát
Lượng hào kiệt bậc nhất của Thục Hán ngã bệnh mất ở gò Ngũ Trượng trong doanh
trại tiền tuyến, lúc 54 tuổi, kể từ lều cỏ Long Trung bước ra đến giờ, ông đã
trải qua 27 năm.
1. Năm lần bắc phạt, tận lực tấn công.
Bắc phạt lần thứ tư thất bại, chủ yếu là ở
khó khăn cung ứng lương thực. Song Gia Cát Lượng sau khi liên tục đối trận với
những danh tướng bậc nhất Tào Ngụy như Tào Chân, Trương Cáp và Tư Mã Ý, niềm
tin càng tăng thêm, đặc biệt là sau khi tập kích giết chết Trương Cáp, Gia Cát
Lượng càng nắm chắc hơn việc chiếm được Quan Trung, đánh bại Tào Ngụy.
Để cải thiện vấn để tải lương, ông đã cải
tiến thêm một bước trâu gỗ ngựa máy. Năm Kiến Hưng thứ 11, Gia Cát Lượng lại
tăng cường kế hoạch nguồn lương và nguồn lính. Ông ta cho khai khẩn với quy mô
lớn ở Hoàng Sa (tỉnh Thiểm Tây), lại thao luyện việc vận tải bằng trâu gỗ ngựa
máy ở Bạch Mã Sơn vùng Cảnh Cốc (tỉnh Tứ Xuyên). Tháng 11 đang mùa đông, lại
cho xây dựng ở Tà Cốc kho lương lớn chưa từng thấy, để hoàn chỉnh chuẩn bị việc
lại tiếp tục bắc phạt. Liền hai năm, đại bộ phận thời gian của Gia Cát Lượng vẫn
ở Hán Trung để luyện binh giảng võ, khuyên quân cầy cấy, có lúc lại trở về
Thành Đô thăm người nhà, hai người con gái của ông được sinh ra trong thời gian
này là Gia Cát Hoài và Gia Cát Quả lúc ấy Gia Cát Lượng đã 52 tuổi, lại vẫn
sinh được hai gái có thể thấy sức khoẻ của ông vẫn khá tốt.
Chẳng qua, Gia Cát Lượng vẫn qua lại giữa
tiền tuyến và kinh thành như vậy, chẳng phải để đoàn tụ với gia đình, mà chủ yếu
là quân chính của Thục Hán đã nảy sinh những rối ren nghiêm trọng.
Phái chiến sĩ do hổ tướng Ngụy Diên đứng đầu,
với phái tham mưu do Xa kỵ tướng quân Lưu Đàm và Tùy quân tướng quân Dương Nghi
lãnh đạo, do bất hoà ý kiến từ trước dần dần diễn biến thành tranh giành ý kiến,
hai bên bài xích lẫn nhau, nảy sinh vấn đề vận hành trong quân đội khiến Gia
Cát Lượng bởi thế đau đầu không thôi.
Ngụy Diên vẫn rất được lòng quân, lại thêm
dũng mãnh thiện chiến, là tướng tài không thể thiếu ở tiền tuyến. Dương Nghi
thì giỏi nghiệp vụ hành chính, đối với vấn đề vận tải lương thực rất khó khăn,
thì đưa ra những biện pháp giải quyết hữu hiệu, rất được Gia Cát Lượng xem trọng.
Hai người này đều là tay phải tay trái mà Gia Cát Lượng không thể thiếu. Để điều
hoà ý riêng của hai bên, Gia Cát Lượng đành bắt Xa kỵ tướng quân Lưu Đàm, với
lý do say rượu làm càn phải trở về Thành Đô, để giảm nhẹ áp lực tâm lý của Ngụy
Diên vẫn đối địch với nhóm Dương Nghi.
Bởi thế, sự lo lắng và khối lượng công việc
của Gia Cát Lượng tăng thêm không ít. Cũng lúc này ông ta nghe nói người bạn
già từ hồi ở Long Trung là Ngự sử trung thừa Từ Thứ và Điểm nông hiệu uý Thạch
Thao đều được Tào Ngụy cho nghỉ hưu, Gia Cát Lượng không khỏi cảm thán rằng:
"Nhân tài nước Ngụy sao nhiều vậy, đến như những người ấy cũng có cơ hội nghỉ
hưu ư!”.
Cũng vào thời kỳ này sự ăn uống và giấc ngủ
của Gia Cát Lượng rõ ràng giảm sút, tư lự vô cớ càng thêm nghiêm trọng, mọi việc
lớn nhỏ nếu không tự mình nhúng tay, lấy làm không yên tâm, tình trạng sức khoẻ
đã bắt đầu suy thoái.
2. Tiến quân đến gò Ngũ Trượng.
Năm Kiến Hưng thứ 12, vào tháng 2, Gia Cát
Lượng dẫn binh mã như lớp lang bắc phạt lần thứ tư, lại xuất chinh lần nữa.
Lần này chiến tuyến của ông có thay đổi rất
lớn. Sách lược hai lần đi vòng phía tây đánh Lương Châu đều gặp thất bại. Lại nữa
vấn đề vận chuyển lương thảo, do chiến tuyến kéo dài lại càng thêm nghiêm trọng.
Ngoài ra, liên tục đối trận mấy lần, trận tuyến Tào Ngụy ở đấy đã tăng cường rất
lớn lực lượng phòng vệ. Từ đường Tý Ngọ tấn công Tràng An, tuy là nhanh chóng
nhất, song đường đi rất khó khăn, cũng có thể tạo ra khó khăn lớn về vận chuyển.
Bởi thế, ông lựa chọn đường Ba Tà, ra khỏi
Tà Cốc, đánh vào phía tây nam Quan Trung là vị trí quan trọng Mi huyện. Năm trước,
khi cho xây dựng ở Tà Cốc những kho lương lớn là đã quyết định chiến thuật này.
Chiến thuật này hiệu quả tuy rất trực tiếp
song đàn hồi cũng rất lớn. Để phân tán lực lượng của Tào Ngụy, Gia Cát Lượng đã
đặc biệt phái sứ giả đến nước Ngô, giao ước với Tôn Quyền cùng khởi binh, đã được
Tôn Quyền gật đầu đồng ý.
Khoảng tháng 2, Gia Cát Lượng vẫn lấy Ngụy
Diên làm tiên phong, ra Tà Cốc trực tiếp đánh Mi huyện, tự mình dẫn quân lính
chủ lực khoảng 10 vạn người, theo sau tiến vào Ngũ Trượng, đóng doanh trại ở đấy.
Tào Tuấn lại lấy Tư Mã Ý làm tổng tư lệnh,
theo bờ nam sông Vị Thủy bầy trận, công sự phòng ngự dựa lưng vào sông, chuẩn bị
trường kỳ ngăn chặn sự tấn công của quân Thục. Gò Ngũ Trượng ngày nay thuộc huyện
Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây, là một vùng gò đồi thấp, chất đất phì nhiêu thích hợp trồng
trọt lương thực, Gia Cát Lượng lựa chọn vùng đất này, hiển nhiên là bởi vấn đề
cung ứng lương thực, ông ta dự liệu tác chiến trường kỳ, có sự chuẩn bị nên trước
chưa thắng được mà đợi địch thì có thể thắng được. Khá thấy lúc bấy giờ, vấn đề
sức khoẻ của Gia Cát Lượng là khá tốt.
Thực ra Tư Mã Ý rất sợ Gia Cát Lượng phát động
quyết chiến. Lúc ấy bộ tham mưu đề nghị ông ta bố trí quân ở phía bắc Vị Thủy,
song Tư Mã Ý cho rằng như thế sẽ dẫn quân Thục vượt qua đông Mi huyện, để bảo vệ
Tràng An, thì không thể không tiến hành quyết chiến. Tuy quân Tào chiếm ưu thế
tuyệt đối về số người, song sau khi Trương Cáp mất, trận tuyến Tào Ngụy thực tế
thiếu một viên chỉ huy đối đầu với Ngụy Diên ở chiến trường, bởi thế nên tiến
hành giao chiến lớn sẽ chẳng có lợi.
Ông ta phải hạ lệnh dời quân đến phía nam Vị
Thủy xây dựng doanh trại phòng ngự, mục đích chủ yếu là để dốc toàn lực ngăn cản
Gia Cát Lượng đánh sang phía đông hoặc phía bắc.
Do hai bên vẫn cẩn thận đối trận như lần
trước, hai bên thi gan ở gần gò Ngũ Trượng, cục điện chiến trường tạm thời rơi
vào thế đông cứng.
Cuối tháng 2, Gia Cát Lượng hạ lệnh cho đại
quân tự mình chỉ huy, bầy trận phân tán ở gò Ngũ Trượng, theo bờ sông làm đồn
điền ở vùng Khâu Lăng dưới núi Thái Bạch, chuẩn bị tự cung tự cấp lâu dài về
lương thực.
Nhìn bề ngoài, Gia Cát Lượng như nhàn hạ
không vội vã, thực ra suy nghĩ cháy bỏng của ông vẫn lộ rõ hàng ngày. Nghe nói
ông tự mình kiêm nhiệm việc quản lý phẩm chất của tùy tùng, hằng ngày xem kỹ hiệu
quả việc vận chuyển của trâu gỗ ngựa máy, lại tự mình cải tiến nỏ liên châu,
xem xét việc xử tội từ 20 roi trở lên. Hiển nhiên Gia Cát Lượng lợi dụng công
việc không tiêu phí đầu óc này để tiêu hao thời gian, giải toả áp lực tâm lý.
Tháng 3, Hoàng đế cuối cùng của nhà Hán
cùng tuổi với Gia Cát Lượng là Hán Hiến đế, sau 12 năm bị bãi truất ngã bệnh mất
ở Hứa Xương, lúc 54 tuổi, kết thúc cuộc đời chính trị nhiều gập ghềnh của ông
ta.
Ngụy Minh đế Tào Tuấn lệnh cho Tư Mã Ý cố
thủ trận địa, tránh mũi nhọn tấn công của địch, để đại quân Thục Hán tiến thoái
lưỡng nan, chỉ cần họ rơi vào tình huống không đủ lương thực thì có thể dễ dàng
đánh bại được.
Chiến lược kiên trì phòng thủ đã trở thành
công thức trung tâm quyết sách của Tào Ngụy. Dẫu Gia Cát Lượng khiêu khích, dẫn
dụ, giả vờ ra sao, Tư Mã Ý thảy đều không để ý, đối với sự tấn công của quân Thục,
đều lấy mưu để đối phó, các binh sĩ một bước cũng không rời khỏi doanh trại, lại
khiến lại cho Gia Cát Lượng thực sự bó tay không có kế sách gì.
Vào thời gian này ông ta viết một bức thư gửi
cho anh cả Gia Cát Cẩn bày tỏ: Cháu Gia Cát Chiêm năm nay 8 tuổi, thông minh lại
đáng yêu chỉ hơi ngại sớm chín chắn một chút, sợ sau này không có khí chất lớn.
Trong "Gia Cát Lượng tập”. Thấy ở hai thiên
"Giới Tử Thư” có nói đến đạo cầu học, mà cũng nói đến phải tiết kiệm chè rượu
khi tiếp khách. Nghĩ rằng đây là viết cho con nuôi Gia Cát Kiều (là con thứ của
Gia Cát cẩn, được Gia Cát Lượng nhận làm con nuôi đã tử trận trong chiến dịch
Nhai Đình), nếu không với người con trai mới 8 tuổi mà giáo huấn như thế thì có
nghĩa gì?
Chẳng qua, sách lược đồn điền của Gia Cát
Lượng làm được khá thành công bởi là ông ta điều hành quân sĩ nghiêm minh, những
binh sĩ làm đồn điền với dân trong vùng rất hoà hợp.
Tam quốc chí có chép: "Trăm họ yên ổn, quân
không tư riêng vậy”. Lại thêm có sự chuẩn bị từ trước, tạm thời việc cung ứng
lương thực của quân Thục Hán tựa hồ chưa có vấn đề gì.
Tư Mã Ý cố thủ ở trong doanh trại, cũng
nghĩ không ra biện pháp đối phó gì đành yêu cầu hậu phương chi viện nhiều hơn nữa
để tiếp tục cố thủ lâu dài. Chiến tuyến phía tây không có giao tranh, song chiến
tuyến phía đông lại bắt đầu náo nhiệt.
3. Tôn Quyền xuất chiêu không đâu.
Khoảng tháng 5, Tôn Quyền tự mình dẫn 10 vạn
đại quân đánh vào vị trí quân sự Hợp Phì ở phía đông Tào Ngụy. Đồng thời, Gia
Cát Cẩn và Lục Tốn cũng tiến quân vào Giang Hạ, kéo ra Miện Khẩu, chuẩn bị tiến
đánh Tương Dương.
Ngoài ra Tôn Chiếu, Trương Thừa cũng đem một
số binh mã bày trận ở Quảng Lăng, Hoài Âm suốt một dải dài.
Thục Ngô cùng bắc phạt, chính quyền Tào Ngụy
gặp phải áp lực chưa từng có. Người thay thế Tư Mã Ý chỉ huy chiến tuyến phía
đông của Tào Ngụy là lão tướng Mãn Sủng có kinh nghiệm tác chiến phong phú, văn
võ toàn tài.
Mãn Sủng thời Tào Tháo đã được trọng dụng,
lại có năng lực tác chiến độc lập chỉ huy mấy năm vừa rồi đại quân nước Ngụy phần
lớn đến Quan Trung để đối phó với những cuộc bắc phạt liên tục của Gia Cát Lượng,
đến nỗi quân lực Mãn Sủng có thế sử rất rộng, một thời gian cũng cảm thấy rất đỗi
đau đầu.
Trải qua đánh giá cẩn thận Mãn Sủng quyết định
chọn sách lược kiên trì phòng thủ, ông ta hạ lệnh tướng trấn thủ các nơi đóng cửa
thành, tự mình dẫn đại quân chủ lực, chuẩn bị nghênh chiến với đội quân bắc
chinh của Tôn Quyền, mặt khác thì xin Tào Tuấn chi viện thêm.
Xem xét kỹ chiến cục, Tào Tuấn quyết định
ngự giá thân chinh đối kháng với Tôn Quyền.
Tháng 7, chiêu mộ đội cảm tử, Mãn Sủng đột
kích đại bản doanh của Tôn Quyền; người cháu của Tôn Quyền là Tôn Thái bị tử trận,
quân Ngô bị vấp ngã nghiêm trọng, lại thêm khí trời nóng bức, quân Ngô phần lớn
nhiễm dịch bệnh, lại nghe nói Tào Tuấn tự mình dẫn 30 vạn đại quân, đã tiến sát
mấy trăm dặm, Tôn Quyền vội lo lắng nếu giao chiến ác liệt thì quân đội của
mình bất lợi phải khẩn cấp hạ lệnh rút quân.
Tôn Chiếu bố trí ở Hoài Âm, cũng bởi Tôn
Quyền đã rút quân mất đi bình phong che chở, cũng rút về Trường Giang.
Lục Tốn đang ở chiến tuyến Kinh Châu nghe
tin, lập tức phái tướng thân tín là Hàn Biểu đến gặp Tôn Quyền xin chỉ thị tác
chiến, không may Hàn Biểu giữa đường bị quân thám báo của Tào Ngụy bắt sống.
Gia Cát Cẩn đang ở tiền tuyến nghe được tin
này, rất đỗi hoang mang, lập tức phái người đến thông báo với Lục Tốn: "Đại
quân của chúa thượng đã rút về Giang Nam quân giặc lại bắt được Hàn Biểu, khó
khăn trước mắt của chúng ta rất nhiều, xem ra phải mau chóng rút quân vậy!”.
Lục Tốn thấy sứ giả đến cũng không nói năng
hoặc trả lời gì, trái lại trước mặt sứ giả, còn bắt người đi trồng đậu, còn
mình vẫn đánh cờ, bắn tên chẳng khẩn trương chút nào.
Sứ giả về báo lại với Gia Cát Cẩn, nghe nói
vậy Gia Cát Cẩn không khỏi cảm thán rằng: "Bá Ngôn (tức Lục Tốn) vẫn có khí chất
lớn, nhiều mưu lược, nghĩ rằng sớm đã có kế sách đối phó”, bèn tự mình đến thỉnh
giáo Lục Tốn .
Lục Tốn bày tỏ: "Quân giặc biết Chúa thượng
đã rút, lúc này chúng ta khá bất lợi, tiến lên thì chẳng thể được, rút lui thì
có nguy cơ bị chặt đứt, nếu xử lý không thoả đáng, có thể sẽ bị tan vỡ hoàn
toàn. Bởi thế trước mắt quan trọng nhất là phải bình tĩnh dùng kỳ binh để ứng
biến, mới có thể thoát được khó khăn. Nếu như bây giờ vội vã rút quân, quân giặc
biết rõ có thể đã hoang mang, ắt sẽ ngăn chặn, như vậy chúng ta nhất định thất
bại”.
Hai người bàn bạc bỏ thế thủ chuyển thế
công ngay lúc ấy.
Gia Cát Cẩn phụ trách chỉ huy thủy quân, bầy
trận, vùng hiểm yếu sông Hán Thủy. Lục Tốn tự mình dẫn quân chủ lực tiến đánh
thành Tương Dương phía bắc. Tướng giữ kinh bắc của Tào Ngụy vẫn sợ Lục Tốn ,
đem toàn quân mau chóng rút về giữ thành không dám ra đánh. Gia Cát Cẩn chỉ huy
đội thuyền, xuôi theo hạ lưu sông Hán Thủy, Lục Tốn cũng dẫn quân lính rút theo
đội thuyền. Do quân ngũ chỉnh tề như thế, quân Tào không dám đến gần, quân Lục
Tốn sau khi thuận lợi hợp quân với Gia Cát Cẩn, mau chóng rút lui. Khi đến cửa
Bạch Hà, Lục Tốn còn giả vờ lên bờ đi săn, lại ngầm phái bộ tướng tập kích vào
Tân Thi ở phía bắc quận Giang Hạ, tiếp đến là An Long và Thạch Dương bắt giết
hơn 1000 quân Tào Ngụy, khiến cho hành động quân sự lần này của quân Đông Ngô
không đến nỗi hoàn toàn thất bại, làm phấn chấn tinh thần binh sĩ không ít.
4. Gia Cát Lượng trêu ngươi, Tư Mã Ý nhẫn
nhục.
Sau khi đại quân Đông Ngô rút lui, không ít
đại thần luôn khuyên Tào Tuấn nhân cơ hội ngự giá thân chinh, đến Tràng An để động
viên Tư Mã Ý, có thể giải toả được sự uy hiếp của Gia Cát Lượng.
Tào Tuấn cười mà rằng: "Tôn Quyền đã rút chạy,
tin rằng Gia Cát Lượng cũng đã kinh hãi, đại quân của Tư Mã Ý đủ đối phó với họ,
nói chung chẳng cần ta phải lo lắng”.
Đấy chỉ là để động viên quân đội của mình,
Tào Tuấn lo lắng vẫn là nếu mình rút quân, Tôn Quyền lại sẽ bắc chinh bởi thế
không gì bằng cứ ở phía Đông Ngô để Tư Mã Ý một mình ngăn cản Gia Cát Lượng,
ông ta tin rằng chỉ cần Tư Mã Ý giao chiến, Gia Cát Lượng sẽ chẳng có được biện
pháp gì.
Đương nhiên, kế hoạch bắc phạt của Gia Cát
Lượng, vẫn không ỷ lại vào sự giúp đỡ của Đông Ngô, Tôn Quyền rút quân, cũng
không ảnh hưởng đến ông ta nhiều lắm.
Để Gia Cát Lượng đau đầu nhất vẫn là sách
lược không đáp ứng của Tư Mã Ý. Từ tháng tư sang tháng năm ở gò Ngũ Trượng đã gần
trăm ngày, Gia Cát Lượng không ngừng hạ chiếu thư tiến hành khiêu chiến, song
Tư Mã Ý đều treo "miễn chiến bài”. Gia Cát Lượng bất đắc dĩ đành phải cho làm đồn
điền với quy mô lớn, chuẩn bị thanh toán Tư Mã Ý đến cùng.
Tháng 7, Gia Cát Lượng vẫn chưa có được biện
pháp gì, tự mình bày ra trò chơi trong lúc nhàn rỗi, ngồi lên một chiếc xe gỗ
màu trắng, lại cho các tiểu đồng hộ vệ, mặc áo trắng, đội khăn quấn, tay cầm quạt
lông trắng, chỉ huy ở trước trận, như là hoàn toàn không võ trang gì, nhìn vài
chục vạn quân Tào như chẳng có, cố ý chọc tức các tướng sĩ Tào Ngụy. Đây cũng
là hình tượng cố định trong kinh kịch và tiểu thuyết về Gia Cát Lượng. Bình thường
Gia Cát Lượng không hoàn toàn chẳng mang võ bị như vậy, chỉ là bởi dẫn dụ Tư Mã
Ý ra giao chiến, cố ý ăn mặc thường phục như thế mà thôi.
Tuy tướng sĩ Tào Ngụy rất có phản ứng, song
sau khi Trương Cáp chết, Tư Mã Ý đã có thể hoàn toàn không chế động tĩnh của
quân sĩ, bởi thế ông nghiêm cấm tất cả quân sĩ có bất cứ hành động gì.
Thời gian này, về tình hình sức khoẻ của
Gia Cát Lượng, có thể đã phát sinh biến hoá nghiêm trọng, bởi thế ông mất đi sự
bình tĩnh thường ngày trở nên vội vàng.
Tư Mã Ý mau chóng phát hiện được hiện tượng
này trước trang phục bề ngoài và hành động trêu trọc của Gia Cát Lượng, ông ta
không khỏi cảm thán rằng: "Gia Cát Lượng đích xác là danh sĩ vô địch ở đời vậy!”.
Xuất chiêu lần này không giải quyết được
gì, Gia Cát Lượng nóng nảy hơn, ông vội cho người đưa một bộ trang phục nữ cho
Tư Mã Ý, nhạo báng ông nhút nhát như là phụ nữ, chẳng có can đảm gì, Tư Mã Ý
tuy có vẻ không tức giận gì, song đích xác đã không dễ ngăn cản được áp lực của
bộ tướng muốn được giao chiến. Để vỗ yên tinh thần binh sĩ, Tư Mã Ý triệu tập hội
nghị quân sự nói: "Hoàng thượng trước lúc về Lạc Dương, từng hạ chỉ yêu cầu
chúng ta kiên trì cố thủ, nay mọi người đều cho rằng cần phải giao chiến, vậy
chúng ta phải tức thì xin hoàng thượng phê chuẩn!”.
Thế rồi ông ta kể rõ tình hình Gia Cát Lượng
khiêu khích hạ nhục, dâng tấu biểu lên Tào Tuấn, để biểu thị sự bực tức của các
tướng sĩ, phải chăng có thể cho giao chiến, để hợp với lòng mong mỏi của mọi
người.
Các tướng sĩ Tào Ngụy nóng vội cầu chiến tạm
thời đành phải chờ đợi chỉ thị của Tào Tuấn.
Tào Tuấn tự hiểu rõ ý tứ của Tư Mã Ý, ông
ta lập tức phái Vệ uý Tân Tỷ làm Tham mưu quân sự, mang lệnh đến tiền tuyến úy
lạo tướng sĩ. Tin tức Tân Tỷ đến tiền tuyến chỉ về quyết sách giao chiến cũng bị
thám mã của Thục Hán biết được.
Tham mưu Khương Duy nói với Gia Cát Lượng:
"Tân Tỷ mang lệnh đến, xem ra Tư Mã Ý phải chăng sẽ không đánh vậy”.
Gia Cát Lượng cũng than thở rằng: "Đích xác
như thế, Tư Mã Ý nói chung không muốn đánh, ông ta sở dĩ dâng biểu xin chỉ thị,
chẳng qua là đối phó với thuộc hạ nóng nảy cầu chiến mà thôi, binh pháp có câu "Tướng
ở ngoài biên, lệnh vua có chỗ không theo”. Nếu như ông ta có ý quyết một trận
thư hùng với chúng ta, đâu cần phải đi nghìn dặm xin chỉ thị của hoàng đế nhỉ,
chẳng phải là làm nhầm lẫn quân cơ ư?”
Gia Cát Lượng phái sứ giả đến thăm Tư Mã Ý,
hỏi han cảm tưởng khi nhận được bộ trang phụ phụ nữ ra sao. Lúc này Tư Mã Ý đã
hoàn toàn bình tĩnh lại, ông ta phán đoán sức khoẻ của Gia Cát Lượng đã có vấn
đề, bởi thế chính thức thản nhiên tiếp kiến sứ giả Thục Hán đến để trêu tức.
Ông ta né tránh không nói đến việc quân sự nhùng nhằng, mà chuyện trò bình thường
với sứ giả khá thân thiết.
Tư Mã Ý nói: "Thừa tướng Gia Cát Lượng gần
đây khá tốt, ông ta thực sự là người rất hiểu biết, và có chừng mực”. Do không
khí nhàn đàm khá hoà hợp, sứ giả không ngờ gì đã để lộ ra tình hình sức khoẻ của
Gia Cát Lượng:
"Phải đấy! Thừa tướng Gia Cát Lượng làm việc
rất vất vả, dậy sớm thức khuya, việc xử án phạt 20 gậy trở lên đều tự mình xét
hỏi cẩn thận, mà khẩu vị mỗi ngày mỗi kém, có khi suốt mấy ngày đều không ăn được
cơm...”
Sau khi sứ giả ra về, Tư Mã Ý lập tức triệu
tập hội nghị sự, thận trọng nói: "Thời gian đối trận sẽ không lâu nữa, Gia Cát
Khổng Minh ăn ít làm nhiều, không thể chống đỡ được lâu dài”. Ông hạ lệnh cho
các quan chỉ huy quân đội, kiên trì phòng thủ trận địa của mình, tuyệt đối
không được giao chiến, để đợi đến khi Gia Cát Lượng không thể không rút quân,
lúc đó sẽ truy kích gấp.
5. Rơi rụng sao lớn, Thừa tướng về trời
Từ mùa xuân năm Kiến Hưng thứ 12, tình hình
sức khoẻ của Gia Cát Lượng rõ ràng đã xấu đi. Mấy năm trước từ việc ông liên tục
sinh được con gái mà xem sức khoẻ không thể kém đi, mà hai năm nay chẳng có
giao tranh, Gia Cát Lượng lẽ ra cũng không đến nỗi phải cháy dạ suy nghĩ nhiều
lắm.
Song đến cuối tháng 7, khi Gia Cát Lượng với
quạt lông, khăn quấn xuất hiện ở tiền tuyến, tình hình sức khoẻ của ông đã xấu
đi nhiều. Sách lược đưa y phục phụ nữ để nhạo báng đích xác là bởi suy nghĩ
nóng nảy mà có cách làm thiếu thận trọng vậy.
Xem xét bệnh tình của Gia Cát Lượng, ông ta
quá suy nghĩ, lo lắng mà thổ huyết, sự ăn uống sút kém, song không thấy ghi
chép bị ho hắng, căn bệnh thực ra ở dạ dày. Gia Cát Lượng là người cao lớn vạm
vỡ, cá tính lại bình tĩnh cẩn thận, vẫn chú trọng đến sức khoẻ, ví như có bệnh
dạ dày cũng không mau chóng xấu đến như thế mới phải, bởi có thể ông ta mắc chứng
ung thư dạ dày chăng?
Đầu tháng 7, ông viết một lá thư gửi cho Hậu
chủ, bầy tỏ sức khoẻ của mình không tốt, hy vọng Hậu chủ Lưu Thiện lưu tâm đến
việc nước hơn nữa, tâm lý cần có sự chuẩn bị, hiển nhiên Gia Cát Lượng đã phán
đoán được bệnh tình nghiêm trọng của mình, có lo lắng đến mệnh sống. Gia Cát Lượng
rất có đầu óc khoa học, lại có nghiên cứu về sinh lý học, lại nữa sức khoẻ vẫn
khá tốt, nếu như có bệnh dạ dày nói chung, lẽ ra không đến nỗi khiến ông phải
lo lắng như thế, mà sức khoẻ cũng không đến nỗi xấu đi mau chóng như vậy. Hiển
nhiên Gia Cát Lượng và các thầy thuốc quân sự của ông, đối với bệnh tình của
ông ta đã hoàn toàn bó tay không có cách gì chữa nổi.
Đầu tháng 8, ông ta viết một bức thư mật
dâng lên Hậu chủ Lưu Thiện bày tỏ: "Hạ thần nếu như xảy việc chẳng may, việc
sau này có thể giao cho Tưởng Uyển”. Ông ta nói Tưởng Uyển có năng lực ổn định
được Thục Hán, phục hưng nhà Hán, tiếp tục được công việc của mình, cũng hy vọng
Lưu Thiện sớm có xếp đặt để tránh tạo thành sự hỗn loạn chính trị tạm thời, Lưu
Thiện tiếp được bức mật thư này tự nhiên rất kinh hãi.
Ông ta lập tức phái Thượng thư Lý Phúc,
ngày đêm phóng đến tiền tuyến gò Ngũ Trượng thăm hỏi bệnh tình của Gia Cát Lượng
ra sao.
Gia Cát Lượng lúc này đã hoàn toàn không ngồi
dậy được, ông ta nằm trên giường bệnh trao đổi hồi lâu nhũng điều cơ mật với Lý
Phúc, lại dặn dò Lý Phúc, tự mình chịu sự ủy thác của Tiên đế, trước mắt sự
nghiệp bắc phạt chưa thành công, là bởi thiên mệnh không thể không chia lìa, hy
vọng đại thần triều đình vẫn một lòng như cũ, tận tâm phụ tá vương nghiệp, kế tục
hoàn thành sự nghiệp mà rốt cục mình chưa hoàn thành được. Lại yêu cầu Lý Phúc
chuyền đến Hậu chủ rằng, sau khi ông ta mất không cần đưa về Thành Đô chôn cất,
cứ trực tiếp an táng ở núi Định Quân tại tiền tuyến là được, để tượng trưng chí
hướng da ngựa bọc thây chết ở sa trường. Lý Phúc thảy đều ghi nhớ lời di chúc của
Gia Cát Lượng, liền mau chóng trở về Thành Đô báo cáo lại với Hậu chủ.
Tiếp đó Gia Cát Lượng triệu tập hội nghị
tham mưu trận địa, những người tham gia Trưởng sử Dương Nghi, Tư Mã Phí Vỹ và Hậu
quân Khương Duy. Chẳng có các tướng lĩnh quân đoàn tham dự, hiển nhiên Gia Cát
Lượng vẫn không muốn để đại quân Thục Hán đang bố trí ở gò Ngũ Trượng biết được
mệnh sống của mình chỉ còn sớm tối. Từ hành động sau này của Dương Nghi, Phí Vỹ,
Khương Duy mà xem, hội nghị lần này bàn đến việc rút quân sao cho thực thuận lợi.
Mấy ngày sau, Lý Phúc lại vội vã quay lại,
ông ta khi chạy vào doanh trại thấy Gia Cát Lượng đã hôn mê không tỉnh lại được,
không khỏi đau đớn khóc rằng: "Chỉ đến chậm có một bước mà ta làm hỏng đại sự
quốc gia”.
Như là một kỳ tích ở đời, có thể Gia Cát Lượng
vẫn còn chưa đi xa chợt nghe thấy tiếng khóc của Lý Phúc lại hồi quang phản chiếu
mà chợt tỉnh lại. Ông ta nhìn thấy Lý Phúc, đã nói ngay rằng: "Ta biết việc ông
cần hỏi, người có thể lập tức kế thừa công việc của ta là Công Đàm (chỉ Tưởng
Uyển)”.
Lý Phúc: "Công Đàm sau khi trăm tuổi thì có
ai kế thừa được?
Gia Cát Lượng: "Văn Vỹ có thể làm được (chỉ
Phí Vỹ)”.
Lý Phúc: "Sau Phí Vỹ đến ai?”
Gia Cát Lượng mặc nhiên không đáp, mọi người
đều chạy đến thì đã lạnh hẳn rồi.
Cuối tháng 8 năm Kiến Hưng thứ 12, Gia Cát
Lượng người hào kiệt bậc nhất của Thục Hán đã ngã bệnh mà mất ở gò Ngũ Trượng
trong doanh trại tiền tuyến lúc 54 tuổi; kể từ khi ông ta ra khỏi lều cỏ Long
Trung đến giờ đã trải qua 27 năm; ở chức vụ Thừa tướng Thục Hán cũng đã được 14
năm.
Cuốn "Tấn Dương thu” của Tôn Thịnh đời Đông
Tấn có chép: "Truyền thuyết kể rằng vào hôm Gia Cát Khổng Minh từ trần, ở trên
khoảng trời phía bắc, có một ngôi sao đỏ rất lớn, từ phía đông bắc theo hướng
tây nam chợt loé sáng rồi tắt đi...”.
Gia Cát Lượng đột ngột mất đi, trời đất
cũng cảm thấy buồn rầu bởi chí hướng cuối cùng chưa hoàn thành vậy! Thánh thơ Đỗ
Phủ đời Đường, sau này khi đến thăm đền thờ Gia Cát Khổng Minh đã viết bài thơ
"Thừa tướng đất Thục” nổi tiếng nghìn năm.
Miếu thờ Thừa tướng là đây
Cẩm thành rừng bách phủ đầy trước sau
Nắng xuân cỏ biếc một màu
Tiếng oanh trong lá toả vào không gian
Ba lần cầu kiến cao nhân
Hai triều đã tỏ lão thần tận tâm
Kỳ Sơn giữa trận từ trần
Khách anh hùng để tần ngần lệ rơi.
Đền thờ Thừa tướng Gia Cát Lượng ở đâu nhỉ?
Ở ngoài Thành Đô có Cẩm Quan Thành là nơi rừng bách rậm rạp, cỏ non xanh rờn mọc
đầy những bệ thềm trước nhà, tràn đầy một sức sống mãnh liệt. Trong tán rợp của
những cây bách thường toả ra những tiếng hót thánh thót của chim hoàng oanh.
Lại nghĩ đến năm xưa Tiên chủ Lưu Bị ba lần
tìm đến thăm lều cỏ Long Trung, gắng hỏi han kế sách lớn thu lấy thiên hạ, cảm
kích trước ân nghĩa, Gia Cát Lượng đã dấn thân tận tụy, suốt đời bầy tỏ lòng
trung thành với hai triều đại họ Lưu, dốc hết tấm lòng của kẻ lão thần. Chinh
phạt Tào Ngụy, sớm phục hưng nhà Hán, hành động quân sự đó tuy chưa hoàn thành,
Gia Cát Lượng thân làm chủ tướng lại ngã bệnh mất ở giữa doanh trại, nghe đến sự
tích như vậy, mãi khiến những khách anh hùng hậu thế phải cảm động mà rơi lệ vậy.
6. Gia Cát Lượng đã về trời, còn nạt được
Tư Mã Ý sống.
Hồi thứ 104 trong Tam quốc diễn nghĩa "thấy
tượng gỗ Ngụy đô đốc mất mật” có chép Gia Cát Lượng dặn làm một pho tượng gỗ
trang sức giống như mình để nạt Tư Mã Ý đuổi theo, đến hồi sau lại chép việc dặn
dò danh tướng Tây Lương là Mã Đại giết Ngụy Diên, rất thần bí sinh động lại có
những phần không hợp với sự thực, tuy làm người ta vui thích thực ra có nhiều
chỗ khuếch đại tô vẽ và hư cấu.
Lịch sử có chép: phụ trách chỉ huy rút quân
là Dương Nghi, lúc đó đang giữ chức Trưởng sử ở trong bộ tham mưu. Sau khi đại
quân Thục Hán rời khỏi gò Ngũ Trượng tiến vào đường Bao Tà, dân ở đây lập tức
báo cáo lại với Tư Mã Ý. Tư Mã Ý tự mình dẫn một số quân đến xem xét, Khương
Duy đề nghị Dương Nghi vẫy cờ gióng trống, đánh lại quân Tư Mã Ý đuổi theo, việc
này sử có ghi chép rõ. Tư Mã Ý thấy thế, lập tức thu quân rút về doanh trại,
không dám tiếp cận, Dương Nghi rút quân về Tà Cốc mới cho quân phát tang.
Dân ở đây bèn căn cứ vào chuyện ấy mà có
câu ngạn ngữ "Gia Cát Lượng đã về trời, còn nạt được Tư Mã Ý sống”, nghe nói Tư
Mã Ý biết được những lời ấy lại chẳng bực tức, chỉ tự mình trào phúng rằng: "Ta
có thể dự liệu được việc sống, chẳng dự liệu việc chết ấy”.
Giai thoại này cho thấy đích xác Tư Mã Ý dẫn
quân đuổi theo, mà quân Thục Hán rút lui cũng theo đề nghị của Khương Duy chỉnh
đốn lại quân ngũ để phản kích, song Tư Mã Ý chưa giao chiến đã rút quân về.
Khương Duy vẫn có can đảm lại giầu mưu lược,
song ông ta có dẫn quân phản kích, tuyệt đối không bắt nạt được Tư Mã Ý cho nên
để thấy rằng, Tư Mã Ý vội vã rút quân đích xác là đã nhìn thấy Gia Cát Lượng vậy.
Tác giả Tam quốc diễn nghĩa, đối với chuyện
này lại càng tô vẽ, nói rằng nhìn thấy tượng gỗ Gia Cát Lượng làm sẵn, Tư Mã Ý
đã bay hồn lạc vía, như vậy hoàn toàn không có khả năng. Bởi Tư Mã Ý vốn bình
tĩnh, không thể không phân biệt được người thật và tượng gỗ, mà Gia Cát Lượng vốn
cẩn thận, cũng không đến nỗi bầy ra một trò diễn như thế, vậy Tư Mã Ý vì sao lại
vội vã rút quân nhỉ?
Chúng tôi nghĩ rằng, thời kỳ cuối đối trận ở
gò Ngũ Trượng, Gia Cát Lượng cố ý hoá trang với khăn vàng, quạt lông và xe gỗ
màu trắng, xuất hiện ở trước mặt các tướng sĩ của Tư Mã Ý ở tiền tuyến, hiển
nhiên ngoài việc chọc giận kẻ địch, còn có ý nghĩa khác, ở chiến trường có những
đại tướng đã bày ra hoá trang đặc biệt, giống như người anh hùng Napôlêông của
nước Pháp, chiến tướng bậc nhất Nhật Bản Vũ Điền Tín Huyền, thực tế làm như vậy
có thể dẫn dụ được sự tấn công của kẻ địch, lại là hành động rất nguy hiểm, như
vậy tại sao lại có sách lược như thế nhỉ?
Chúng ta đều biết Vũ Điền Tín Huyền dùng
"người giả làm Vũ Điền”, Napôlêông cũng dùng "người đóng thay mình”. Kẻ địch thấy
phục sức đặc thù như vậy, lại thêm người giả ăn mặc rất giống, khi xuất hiện ở
chiến trường thì không dễ phân biệt được thật giả.
Từ đấy có thể thấy Gia Cát Lượng sau khi sức
khoẻ xấu đi, cố ý thay đổi phục trang, có thể là có ý muốn tạo ra hình tượng
như vậy.
Tư Mã Ý vẫn kiên trì sách lược phòng thủ,
không muốn trực diện giao chiến với Gia Cát Lượng, nhìn thấy người giả ngồi
trên xe gỗ với khăn quấn quạt lông, trong phút chốc chưa quan sát kỹ, có thể đã
phán đoán nhầm tưởng là bị mắc phải mưu kế Gia Cát Lượng dẫn dụ đuổi theo, bởi
thế mà đã vội vã rút quân về.
Ông ta tự hào rằng, có thể liệu được việc sống,
chẳng có thế liệu được việc chết, lại chẳng phải là bị bắt nạt mà đến nỗi ấy,
thực ra là đối với sự khéo léo sách lược dùng người giả của Gia Cát Lượng, đã cảm
thán mà thốt ra lời vậy!
Tư Mã Ý sau này tự mình đến doanh trại bỏ
trống của Thuc Hán ở gò Ngũ Trương, xem xét bố cục, không khỏi tán tụng rằng:
"Gia Cát Lượng thực là người kỳ tài trong thiên hạ”. Doanh trại bố trí khiến Tư
Mã Ý phải kính phục như thế, tin rằng chính là "bát trận đồ” nổi tiếng nghìn
năm, chúng tôi sẽ giải thích rõ ở chương sau, ở đây không nói đến.
Một việc khác khiến người ta khó hiểu là
chuyện túi cẩm nang đựng mưu kế giết Ngụy Diên. Lịch sử có chép, Ngụy Diên đích
xác chết trong cuộc rút quân ở gò Ngũ Trượng, hơn nữa đúng là vị danh tướng Tây
Lương Mã Đại giết chết.
Mã Đại là em trai Mã Siêu, kế thừa người
anh thống lĩnh quân đoàn Tây Lương của Thục Hán, cũng là một võ tướng quan trọng
của Gia Cát Lượng phụ thuộc vào đội hậu quân của Vương Bình.
Tam quốc diễn nghĩa đã có ý miêu tả sự đối
lập giữa Gia Cát Lượng và Ngụy Diên, lại nói Ngụy Diên có tướng làm phản, đấy
là bản tính trời sinh, cũng khiến cho viên đại tướng tiên phong dũng mãnh nhất
cuối đời Thục Hán phải chịu nỗi oan khuất nghìn năm không biện bạch được. Lịch
sử có chép, Ngụy Diên là người Nghĩa Dương, tên chữ là Văn Trường, kể từ Kinh
Châu đã theo Lưu Bị, rồi vào Thục, nhiều lần lập được chiến công rất được Lưu Bị
và Gia Cát Lượng trọng dụng, từng được đề bạt đặc biệt làm Thái thú ở Hán
Trung.
Ngụy Diên khéo nuôi binh sĩ dũng hổ hơn người,
là một tướng đặc biệt ưu tú, được công nhận là mãnh tướng hàng đầu thay thế
Quan Vũ sau này, có năng lực tác chiến độc lập rất lớn, bởi thế trong một thời
gian dài được bổ nhiệm làm thống soái quân tiên phong, song ông ta bản tính cao
ngạo, người thường đều né tránh, không muốn tranh hơn thua với ông ta, tựa hồ
chỉ có Gia Cát Lượng mới quản được mà thôi.
Trái lại trong bộ Tham mưu của Gia Cát Lượng
lại có một quái kiệt là Dương Nghi, là một cao thủ về kinh tế và tải lương, đối
với quân viễn chinh Thục Hán vẫn thiếu thốn lương thực, thực là ngọc báu trong
quân, rất được Gia Cát Lượng xem trọng, trở thành tham mưu hàng đầu, một cánh
tay không thể thiếu được.
Lịch sử chép rằng Dương Nghi bụng dạ nhỏ hẹp,
cậy tài ngạo mạn, trong quân Thục chỉ có ông ta xem thường Ngụy Diên, cho rằng
chẳng qua chỉ là thô lỗ mà thôi, dẫn đến hai người như nước với lửa, chỉ cần mới
gặp nhau, ắt đã đỏ mặt tía tai, nghe nói có một hôm va chạm đến nỗi Ngụy Diên
phải rút dao mà Dương Nghi cũng tức phát khóc.
Gia Cát Lượng thấy sự tranh chấp của hai
người, tự nhiên rất bực tức, song không biết làm thế nào mới phải. Về việc dùng
người, để họ phát huy tài năng triệt để, cũng không tiện can thiệp quá nhiều, lịch
sử có chép Gia Cát Lượng thường hận hai người bất hòa với nhau, không nỡ bỏ đi
một người nào.
Bởi Gia Cát Lượng bệnh tình mau chóng xấu
đi, sự việc đột nhiên đành phải sắp xếp khẩn cấp rút quân. Cứ theo luân lý
trong quân, Ngụy Diên tự cậy dũng mãnh có thể sẽ đối kháng trựe diện với Tư Mã
Ý, lại thêm khi quân Thục rút quân, tinh thần binh sĩ đã mất, ắt sẽ tạo thành bất
lợi nghiêm trọng, bởi thế không dám để Ngụy Diên thuộc phái Diều hâu được nắm đại
quyền chỉ huy.
Luận về tài năng và kinh nghiệm mà nói,
Khương Duy thực là người thích hợp, song ông ta vốn thuộc tướng lĩnh ở phía Tào
Ngụy, nửa đường mới đến không dễ thu được tín nhiệm của các tướng lĩnh. Phí Vỹ
lại quá trẻ, việc quân chưa đủ từng trải; Dương Nghi trong thời gian dài đã
theo Gia Cát Lượng nam chinh bắc phạt, lại là người có tài, điều hành việc hành
chính, công việc qui hoạch và xử lý rút quân, tự nhiên là rất thích hợp.
Chẳng qua khiến Gia Cát Lượng không yên tâm
là sự tranh giành giữa Ngụy Diên và Dương Nghi. Để giảm đến mức thấp nhất những
tai hại bất ngờ nảy sinh, Gia Cát Lượng không để Ngụy Diên tham dự vào kế hoạch
rút quân, để tránh ảnh hưởng đến sự chỉ huy của Dương Nghi. Trong hội nghị bí mật
trước lúc lâm chung Gia Cát Lượng yêu cầu Khương Duy, Phí Vỹ giúp đỡ Dương
Nghi, đem toàn lực hiệp trợ cho việc rút quân, lại bảo với ba người rằng: "Nếu
như Ngụy Diên không phục tùng lệnh rút quân, không cần đợi ông ta, các ông có
thể chỉ huy những đoàn quân khác sớm rút đi”.
Khá thấy, Gia Cát Lượng đích xác đã dự đoán
trước, sau khi ông ta mất, Ngụy Diên có thế náo động, song ông ta tin rằng Ngụy
Diên sẽ không làm phản, tối đa chỉ là "thả trâu ăn lúa”, ông ta sẽ tự mình đối
đầu với Tư Mã Ý mà thôi.
Bởi Gia Cát Lượng vẫn trọng dụng Ngụy Diên,
tin rằng không có khả năng như trong tiểu thuyêt, cố ý tạo ra "cẩm nang diệu kế”
để giết ông ta. Bi kịch của Ngụy Diên có thể nói là ngẫu nhiên mà tạo ra vậy.
Sau khi Gia Cát Lượng mất, Dương Nghi lập tức
phái sứ giả thông báo cho các tướng lĩnh quân đoàn, cùng công bố chỉ thị của
Gia Cát Lượng để lại. Các quân đoàn khác tự nhiên không có vấn đề gì lớn, song
Ngụy Diên có thể sẽ phản ứng đặc biệt, bởi thế phái Phí Vỹ đến để điều tiết, muốn
cho Ngụy Diên vẫn có mặt mũi, giảm bớt sự phản ứng của ông ta.
Quả nhiên vừa nghe đến phải rút quân khẩn cấp,
Ngụy Diên đã không vui vẻ, lại nghe nói tổng chỉ huy rút quân là Dương Nghi,
ông càng đùng đùng nổi giận.
"Thừa tướng tuy đã mất, vẫn còn có ta ỏ
đây! Huống chi quân ta trước mắt đang có ưu thế, các ông là người của ban tham
mưu, nói chung cứ chuẩn bị việc phát tang, để ta phụ trách chỉ huy đại quân, tiếp
tục đối kháng với kẻ địch! Làm sao có thể bởi một người mất đi mà bỏ đại sự quốc
gia nhỉ?”.
Ngụy Diên lập tức phái người thông báo với
tướng lĩnh lãnh đạo các quân đoàn, song Vương Bình, Cao Tường, Ngô Ban, Mã Đại đều
biểu thị Thừa tướng đã có lệnh rút quân không được làm khác, đến lúc này Ngụy
Diên lại càng bực tức, ông ta hô lớn rằng: "Ngụy Diên ta sao có thể giống như
người ta, sao có thể tiếp thu sự chỉ huy của lão Dương Nghi, để ông ta đi vào
chặn hậu!”.
Ngụy Diên lúc này đã loạn cả phân tấc, hạ lệnh
cho quân đoàn của mình, sớm rút về phía nam Tà Cốc, không muốn làm việc chặn hậu
cho toàn quân. Bởi thế lấy tượng gỗ để đối kháng với Tư Mã Ý khi rút quân, là
do Khương Duy phụ trách.
Các tướng lĩnh quân đoàn tiên phong, đối với
hành vi đối địch không nghe chỉ huy của Ngụy Diên, nói chung đều bất bình, song
bởi sự việc vội vàng, bèn rút theo về phía nam.
Nếu như Ngụy Diên trực tiếp rút về Hán
Trung, có thể vẫn không xảy ra việc gì, trái lại ông ta mỗi lúc thêm bực tức,
cuối cùng hạ lệnh cho quân đoàn bầy trận ở cửa Nam Cốc trên đường Tà Cốc, chuẩn
bị đánh lại Dương Nghi đang rút quân. Dương Nghi sau khi biết được Tư Mã Ý đã
thu quân về, bèn hạ lệnh cho toàn quân sớm tối lên đường hoả tốc rút về Hán
Trung, khi đến trước cửa Nam Cốc, được thám mã đi trước báo cáo lại rằng, quân
đoàn Ngụy Diên đang ngăn cản đường về.
Dương Nghi lập tức hạ lệnh cho Vương Bình
đang chỉ huy hậu quân đến đánh Ngụy Diên. Vương Bình người chính trực, có danh
vọng rất cao trong quân Thục. Ông ta chọn sách lược "tiên lễ hậu binh”, phân
người ước hẹn với Ngụy Diên đối trận ở cửa Nam Cốc, đầu tiên chỉ tiến hành đàm
phán.
Hôm đó Vương Bình trên người không mang vũ
trang, mạo hiểm một mình đến trước trận nói chuyện; ông ta nói với Ngụy Diên và
quân lính rằng: "Thừa tướng vừa mới mất, thi thể còn chưa lạnh, các ông cuối
cùng không nghĩ đến ân nghĩa lại muốn tạo phản ư?”.
Các tướng lĩnh quân đoàn Ngụy Diên, vốn đã
bất mãn với việc rút quân một mình của Ngụy Diên, nghe những lời binh vận có lý
có tình của Vương Bình, tinh thần binh sĩ lập tức tan rã, đại đa số quân sĩ
không đánh mà rút khỏi cửa Nam Cốc.
Vương Bình bởi thế mà dễ dàng đánh bại được
số ít quân lính trực thuộc của Ngụy Diên.
Ngụy Diên sau khi đại bại dẫn vợ con và một
số người thân tín chạy trốn vào vùng núi Hán Trung để lánh nạn, Dương Nghi hạ lệnh
cho Mã Đại dẫn quân tìm bắt, không lâu đã bắt được Ngụy Diên cùng gia nhân,
Dương Nghi hạ lệnh cùng đem đi xử trảm. Ngụy Diên một đời dũng mãnh can đảm bởi
tranh chấp với Dương Nghi, dẫn đến không giữ được mình, thành ra bi kịch ở cuối
đời, khiến cho người ta phải tiếc nuối. Chẳng qua, bi kịch này của Ngụy Diên,
so với tô vẽ kiểu võ đài của Tam quốc diễn nghĩa là hoàn toàn khác hẳn. Sau khi
Ngụy Diên bị đánh bại, đại quân Thục Hán an toàn rút về Hán Trung, hành động bắc
phạt cuối cùng của Gia Cát Lượng, bởi ông ta mất ở trong quân mà kết thúc.
Hậu chủ Lưu Thiện kinh hãi lúc nghe tin Gia
Cát Lượng đã mất, đau đớn khóc lóc không thôi, lại xuống chiếu cứ theo đề nghị
của Trưởng sử Tưởng Uyển, trước phái sứ giả đến phủ Thừa tướng truy tặng ấn thụ
Vũ Hương hầu, cùng dựa vào phẩm đức và công tích của Gia Cát Lượng lúc sống, đặt
tên Thụy là Trung Vũ Hầu. Nhà vua xuống lệnh đại xá thiên hạ, làm theo di mệnh
của Gia Cát Lượng an táng ông ta ở núi Định Quân thuộc Hán Trung.
Từ quy mô và táng vật ở phần mộ mà xem ra,
nghi lễ an táng một Tể tướng đứng đầu các quan, thực là rất giản đơn vậy. Trong
di mệnh của Gia Cát Lượng có nói, lấy núi làm mộ, nấm đất làm áo quan, thời tiết
bốn mùa là quần áo, chẳng cần mang theo gì. Đích xác đấy là khí chất và phong
cách của một danh tướng! Ông ta lúc còn sống từng dâng thư lên Hậu chủ Lưu Thiện
công bố tình hình tài sản của mình:
"Thần phụng mệnh Tiên đế nương nhờ ở cửa
quan, không tự lo liệu đến đời sống. Nay ở Thành Đô có 800 gốc dâu, 15 khoảnh
ruộng, cái ăn mặc của con cái xem ra cũng đầy đủ. Đến như thần xuất chinh tại
ngoại. Không có gì khác người, cái ăn mặc của mình đều dựa vào cửa quan, không
lo cho riêng mình, là để lâu dài thước tấc. Nếu như ngày thần mất, chẳng để
trong có thừa gấm vóc, ngoài có điền sản thừa thãi, ấy là để khỏi phụ lại Bệ hạ
vẫn tin tưởng”.
Sau này Lưu Thiện cho xem xét, quả nhiên
như lời nói ở trên.
Lời bình của Trần Văn
Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý trước sau đối trận
như vậy, xem như mới bắt đầu vào cuộc, lại càng băng giá, từ chiến sự mà xem, một
điểm nào cũng không rõ rệt, song từ mặt bằng chiến thuật mà nói, đấy là quyết
sách của hai đại cao thủ về binh pháp nghìn năm khó thấy; trong thiên "mưu
công” của binh pháp Tôn Tử nguyên tắc chỉ huy tối cao đề cập đã được triệt để
phát huy ở đây.
Chiến tranh là thủ đoạn, thắng lợi chính là
mục đích, bởi thế không cần đánh mà khuất phục người ta mới là nguyên tắc cao
nhất của tác chiến, đấy tức là "mưu công”. Mưu công không ở sự xảo trá, mà là vận
dụng sách lược, có thể không dẫn kẻ địch vào chiến đấu mà đánh bại được kẻ địch,
đây tức là đạo lý trăm trận đánh trăm thắng, chưa là chỗ khéo của khéo vậy,
không đánh mà khuất phục được người ta, mới là chỗ khéo của khéo vậy.
Kẻ khéo dùng binh, khiến kẻ địch phải khuất
phục, không cần dùng vũ lực, tiêu diệt nước địch cũng không cần dựa vào chiến
tranh, rất nên lấy "toàn thắng” để tranh thủ thiên hạ, không nhất thiết phải tổn
thất binh lực, mà có thể giành được thắng lợi, mới là nguyên tắc chiến tranh
cao nhất của kẻ làm đại tướng có mưu trí!
Nguyên tắc tác chiến tuy cầu "toàn thắng”,
là khi có binh lực gấp 10, có thể dùng chiến thuật bao vây; khi có binh lực gấp
5; có thể chủ động tấn công; khi có binh lực gấp 2, cũng cần phải chia quân tấn
công, để bức kẻ địch không thể không phân chia binh lực nhỏ ra.
Khi thế lực bằng với địch thì cần đề cao ý
chí chiến đấu, dốc toàn lực thực hiện; còn khi ở thế yếu hơn thì nên lập tức
rút lui; khi chẳng có cơ thắng lợi, dứt khoát không phát động chiến tranh.
Cho nên "biết người biết mình, trăm trận
không gặp nguy hiểm”; không biết người mà biết mình, thì một thắng một thua
(cũng là nói phải dựa vào thời cơ) không biết người cũng biết mình, mỗi trận
đánh đều gặp nguy hiểm.
Binh pháp Tôn Tử dứt khoát là nguyên tắc
chiến đấu cẩn thận, chuẩn bị không chu đáo, hoặc chưa có cơ hội thắng lợi, là
không dễ chiến đấu.
Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý đều là những đại
tướng xuất thân từ văn nhân, bởi thế họ rất tuân thủ nguyên tắc của binh pháp,
dựa vào suy nghĩ chuẩn bị mà không dựa vào trực giác và ứng biến. Hai đối thủ
như vậy, giao đấu với nhau tự nhiên là rất để tâm, từng bước đều thận trọng.
Gia Cát Lượng về quân sự học, chẳng có
thiên bẩm, ông ta là người khổ học mà có. Ngoài đọc thuộc binh pháp, ông ta trải
qua khảo nghiệm gian khổ của chiến trường, tích lũy kinh nghiệm những lần chiến
bại mà trưởng thành. Từ chiến dịch Đương Dương đến trận Xích Bích, có thể nói
là giai đoạn ông ta đã trưởng thành rất nhiều.
Chinh phạt Nam Trung là sự đảm đang, một
mình lần thứ nhất chỉ huy tác chiến, công tâm là đầu đã là nguyên tắc chiến
tranh cao nhất của ông ta. Chiến sự ở đấy, có thể nói là "thực nghiệm lâm sàng”
về binh pháp Tôn Tử.
Cuộc bắc phạt thứ nhất là thành công về chiến
lược, mà chiến thuật thì thất bại, Gia Cát Lượng từ trong học tập giành được
nhiều kinh nghiệm quý báu. Lần thứ hai, ba đều lấy dao mổ trâu giết gà, cũng là
kinh nghiệm thành công thu được ờ thực tế. Đúng như ở trên đã nói, Gia Cát Lượng
về kinh nghiệm thực tế vượt xa Tư Mã Ý cẩn thận tác chiến, không muốn giao đấu
trực diện với Gia Cát Lượng.
Hai vị đại tướng này đều dựa vào đầu óc
không dựa vào thế lực, có tính chất rất giống nhau, thực đáng được gọi là kỳ
phùng địch thủ đối trận lão luyện vậy.
Cuộc bắc phạt lần thứ tư thứ năm, từ bề mặt
mà xem sấm to mà mưa nhỏ, song từ "binh pháp học” mà xem, lại là cuộc giao chiến
trí tuệ mẫu mực. Đấy là điều vì sao Trần Thọ phê bình Gia Cát Lượng không giỏi ứng
biến ở chiến trường, cũng là nguyên nhân chủ yếu nhất mà Tư Mã Ý khen Gia Cát
Lượng kỳ tài vậy.
Đánh máy: hoi_ls
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN, 2003 (Tái
bản lần II)
Nguồn: Vnthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 11 năm 2013