Khổng
Minh là một nhân vật rất quen thuộc với độc giả Việt. Đối với nhiều người đọc,
Khổng Minh là một nhân vật đầy mưu lược, thông hiểu đạo lý, phù chính nghĩa
trong tác phẩm "Tam Quốc diễn nghĩa" lừng danh. Tuy nhiên hiện nay ở Trung Quốc,
dư luận có nhiều cách lý giải mới về Khổng Minh. Điều đó có thể do các giá trị
cũ thay đổi, hoặc vì một lý do nào đó khác… Chúng ta có thể tự cảm nhận khi đọc
bài viết này.
Tác
giả của phần trích trong hai chương sách bình về Gia Cát Lượng được trích dưới
đây là Mai Triêu Vinh, sinh năm 1970 ở Vũ Hán, Hồ Bắc, gốc là người Nam Xương,
Giang Tây. Ông hiện là Tổng Giám đốc Nhà xuất bản Đại học Vũ Hán, chi nhánh Bắc
Kinh. Vốn nổi tiếng bởi những cuốn sách gây sốc và bán chạy vào loại nhất. Mai
Triêu Vinh đã viết rất nhiều tác phẩm và hầu hết đều gây được sự chú ý của người
đọc.
Các
tác phẩm của ông bao gồm: Tiến hóa luận: câu chuyện mạnh được yếu thua; 12 quy
luật suy vong của các triều đại Trung Quốc; Lược sử nhân loại: Chúng tôi có 300
vạn năm; Siêu đế quốc: giải mã những vương triều cường thịnh Trung Quốc; Nhà đại
cải cách Ung Chính: thực lục về việc phản đối lợi ích của tập đoàn; Bình luận về
7 đại gian hùng trong lịch sử Trung Quốc;… Hầu hết những tác phẩm của ông đều
mang tính chất phản đề, "nói ngược”. Và cũng vì những cuốn sách này, người ta đã
coi Mai Triêu Vinh là nhà bình luận lịch sử xã hội sắc
sảo.
Gần
đây, cuốn sách Mai Triêu Vinh bình luận về Gia Cát Lượng đã gây xôn xao dư luận
Trung Quốc. Lần đầu tiên một học giả đã trên giấy trắng mực đen công khai tuyên
bố Gia Cát Lượng là kẻ ngụy quân tử, đầy thủ đoạn, giả nhân giả nghĩa nhằm đạt
bằng được dã tâm chính trị của mình. Cuốn sách thực sự là một cú sốc lớn bởi lẽ
lâu nay Gia Cát Lượng vẫn tồn tại như một điển hình về sự mưu trí tuyệt
đỉnh.
Ý
kiến về cuốn sách do vậy rất trái ngược. Người tung hô, cho rằng đây là kiến
giải mới mẻ, lập luận thuyết phục, là những phản đề đầy giá trị. Kẻ cho rằng đó
chỉ là cách "làm tiền” lộ liễu… Đoạn trích dưới đây thuộc phần 12 chương II và
phần thứ nhất chương III trong cuốn sách đó.
1."Giả
thần mượn quỷ”
Trong
thời kỳ Tam Quốc, Gia Cát Lượng được mọi người công nhận là kẻ "thông hiểu thần
thánh”. Trong hồi thứ 49 Tam quốc diễn nghĩa nói đến việc ông mượn gió Đông, hỏa
thiêu Xích Bích, đại phá 80 vạn quân Tào Tháo. Gia Cát Lượng tự kể: "Từng gặp
đạo nhân, được truyền thụ kỳ môn độn giáp, có thể hô phong hoán vũ”. Nhưng thật
ra đây chỉ là một mánh khóe nhằm lừa bịp Chu Du mà thôi.
Gia
Cát Lượng chẳng qua đã lợi dụng sự mê tín của mọi người đối với thần thánh để
giở trò huyễn hoặc. Công bằng mà nói, ông là người cực kỳ thông minh, giỏi nắm
bắt cơ hội. Những gì ông làm thường rất giản đơn, nhưng ông ta che che đậy đậy,
lúc ẩn lúc hiện khiến cho mọi người không biết đâu mà lần ra đầu mối. Những điều
thực ra rất giản đơn, ông biết cách làm cho nó trở nên rắc rối, khó
hiểu.
Mỗi
khi Gia Cát Lượng điều binh khiển tướng, đều có một chút gì đó thần bí. Không
phải chỉ đơn giản trao túi gấm cho tướng lĩnh, mà còn sẵn sàng lắng nghe những
kháng nghị của họ. Điều này làm cho các tướng lĩnh cũng như binh sĩ không hiểu
rõ ràng toàn bộ diễn biến của chiến cục. Thuộc hạ chỉ còn biết "y kế” mà hành
sự. Tác dụng của việc làm như thế là khiến cho mọi người có cảm giác thần bí về
Gia Cát Lượng, trở thành một quân cờ trong tay ông, không nắm được toàn bộ chiến
lược nên thiếu hẳn tinh thần hợp tác. Hai mặt này hiển nhiên sự nguy hại của cái
sau lớn hơn so với cái trước rất nhiều.
Vô
vị nhất là việc mượn gió Đông. Khi mọi người đồng tâm đồng sức kháng Tào, Gia
Cát Lượng lại lợi dụng một chút hiểu biết về thiên văn của mình để giở mánh khóe
lừa bịp ba quân. Đăng đàn làm phép, làm trò huyễn hoặc, thần thánh hóa bản thân
mình để đạt được mục đích chính trị. Khoa trương công lao của bản thân, cướp
đoạt công lao to lớn của Hoàng Cái và Chu Du, tựa hồ thắng lợi trong trận hỏa
thiêu Xích Bích hoàn toàn là do việc Gia Cát Lượng làm phép mà đem lại. Bao
nhiêu khó nhọc vào sinh ra tử của các tướng lĩnh và hàng vạn binh sĩ trở thành
một vở kịch trên sân khấu.
Một
tướng như Gia Cát Lượng đã khiến cho sự nghiệp của Thục Hán gặp rất nhiều gian
truân. Trận Đương Dương chính là một ví dụ. Đương nhiên nếu đọc Tam quốc diễn
nghĩa mà chỉ thấy miêu tả Triệu Vân xả thân cứu A Đẩu, Trương Phi hét lớn lui
quân Tào trước cầu Tràng Bản… Như thế chính là tác giả muốn che giấu sự bất tài
của Gia Cát Lượng. Vốn là Tào Tháo truy kích thắng lợi, nhưng trong tác phẩm
ngược lại, quân Lưu Bị ở đâu cũng chiếm được thượng phong. Thực tế trong trận
Đương Dương, Gia Cát Lượng không hề giành được thắng lợi nào về mặt chính trị.
Bởi vì lần này là đánh trực diện ông không có cách nào giở trò bịp bợm ma quỷ
được. Cuối cùng không thể không nhắc tới câu nói thẳng thắn trong Tam Quốc chí
Gia Cát Lượng truyện: "Tại Hạ Khẩu, Lượng nói: Việc rất gấp, hãy phục mệnh đi
cứu Tôn tướng quân”.
Gia
Cát Lượng giở trò quỷ thần, lừa dối chỉ là nhất thời, ông không thể lừa được cả
đời.
Gia
Cát Lượng gặp Lưu Bị khi Cửu Châu đang hỗn loạn, anh hùng khắp nơi nổi lên. Quân
thần tương ngộ, như cá gặp nước. Nhưng không thể cùng quân Tào tranh thiên hạ
đành vứt bỏ Kinh Châu, lui về Ba Thục, dụ dỗ cướp nước của Lưu Chương, giả liên
minh với quân Ngô, cùng khổ giữ đất Kỳ Sơn, tiếm quyền ở những nơi xa xôi… đó là
kế sách của những kẻ hèn mọn.
2."Nhân
giả, nghĩa cũng giả theo”
Con
người có thất tình lục dục, khóc và cười vốn đối lập. Từ khi con người oa oa
chào đời, âm thanh đầu tiên mang đến thế giới là "tiếng khóc”, tới khi con người
đi hết cõi đời, âm thanh cuối cùng lưu lại dương gian cũng là "tiếng khóc”.
"Khóc”, trên thực tế là một bản năng của con người. Khi buồn thương khóc, khi
vui sướng cũng khóc. Khóc đã trở thành cách biểu hiện tình cảm nội
tâm,
Khóc,
thuở bé không phân biệt giới tính, bé trai bé gái đều có thể khóc bất cứ lúc
nào, đến khi thành niên, khóc dường như trở thành độc quyền của nữ giới, đàn ông
thì nhất định "có nước mắt nhưng không dễ để rơi”, phụ nữ khóc lại là "cành hoa
lê mùa xuân điểm chút mưa”.
Khi
đã thành gia thất, đàn ông có chuyện bực bội, cùng lắm chỉ có thể đạp cửa mà đi,
uống say xỉn rồi về. Nhưng tuyệt đối không thể để rơi nước mắt đau khổ. Phụ nữ
thì lặng lẽ rớt nước mắt, âm thầm sầu não. Thảo nào có người nói: trẻ con dùng
nước mắt để đối phó với người lớn, phụ nữ lấy nước mắt để đối phó với đàn ông,
còn đàn ông thì sao? Chỉ có thể dùng nước mắt để đối phó với thế giới! Trong
tiếng khóc, họ giải toả áp lực, thách thức số phận.
Khóc
và cười là một cặp biểu tượng tình cảm đối lập. Con người có thể khóc khi vui
sướng, cũng có thể cười khi đau đớn. Tào Tháo gặp khó khăn cũng có khóc và cười.
Chiến bại Xích Bích là giao lộ của tính mệnh. Nhưng tác giả không tập trung miêu
tả vào mưu kế để thoát thân mà lại tập trung miêu tả ba lần họ Tào cười lớn trên
đường tháo chạy.
Lần
thứ nhất, ở "phía tây Ô Lâm”, Tào Tháo ngồi trên ngựa "ngửa mặt cười không dứt”,
Tào nói; "Ta không cười người khác, chỉ cười Chu Du vô mưu, Gia Cát Lượng thiểu
trí. Nếu là lúc ta dụng binh, ta sẽ cho một đội quân mai phục ở đây, như thế
chẳng hơn ư?” Nói chưa dứt, Triệu Tử Long đột nhiên xông ra, khiến cho sự đắc
chí của Tào Tháo phải nhanh chóng "hạ mã uy”.
Lần
thứ hai, ở "Hồ Lô khẩu”, Tào Tháo ngồi dưới một khu rừng thưa, ngửa mặt cười
lớn, lại chê Gia Cát Lượng, Chu Du trí mưu chưa đủ, kết quả là Trương Dực Đức
xuất hiện làm cho ông ta hồn xiêu phách tán. Không chỉ tổn thất nghiêm trọng,
đến cả ngựa xe, quân lương cũng bị cướp.
Lần
thứ ba, trên "đường nhỏ Hoa Dung”, Tào Tháo lại cười Gia Cát Lượng, Chu Du là
"loại vô năng”. Đang cười thì Vân Trường cầm đao đứng sừng sững trước mặt, ông
ta cười không thành tiếng, chỉ còn biết cúi đầu cầu xin tha
mạng.
"Ba
lần cười” này trong tiểu thuyết có thể nói là tuyệt bút. Tuy có thể thấy Gia Cát
Lượng dụng binh vô cùng kỳ diệu, nhưng Tào Tháo so với những người khác cũng rất
đáng nể vì. Thân lâm cảnh hiểm, vẫn có thể cười, chế giễu đối thủ của mình thiếu
trí tuệ cơ mưu. Nếu là người khác, chỉ e chạy thoát thân còn chẳng kịp, huống hồ
trong những trường hợp như vậy. Đặc biệt là ba lần cười của ông ta, càng khiến
cho người ta vỗ bàn mà khen là tuyệt bút. Quân ít ngựa thiếu, bản thân không còn
lực để tiếp tục chiến đấu mà Quan Vũ thần dũng vô song, chém Nhan Lương, giết
Văn Sú nếu như dùng biện pháp cứng rắn thì hung nhiều hơn
cát.
Tục
ngữ nói, kẻ thức thời mới là tuấn kiệt. Đến bước đường cùng, Tào Tháo đã dùng
tình nghĩa để làm mềm lòng Quan Vũ, cầu xin được mở cho một con đường sống. Bởi
vì ông ta trong quá khứ đã từng có ân với Quan Vũ mà Quan Vũ lại là con người
lấy "nghĩa” làm đầu. Cuối cùng Tào Tháo đã tự mình hóa giải nguy nan. Có thể
khuất phục được nhân tài ấy chính là đại trượng phu, cách xử sự với mọi người
của Tào Tháo thể hiện điều đó.