QUYỂN TRUNG
HỔ GẦM GIÓ THỐC
THIÊN THỨ NĂM
NHÀ CHÍNH TRỊ TÀI NĂNG
Phụ chương
QUAN ĐIỂM THỰC DỤNG
KẾ SÁCH XÂY DỰNG LẠI CHẾ ĐỘ
Đánh ngoài ắt phải yên được bên trong. Nước
Thục yếu đuối muốn hoàn thành được sứ mệnh lịch sử khôi phục nhà Hán, ắt phải
mau chóng tăng cường thực lực của mình, duy trì sự phát triển chính trị lâu
dài, để đợi thời cơ chín muồi. Đấy cũng là đại sách lược lúc đầu chưa có thể thắng,
bởi đợi kẻ địch yếu đi mà thắng được của binh pháp Ngô Tử.
Song đi đôi với chấn chỉnh nội bộ trước mắt,
lại phải sớm ổn định ngoại giao. Sau khi Lưu Bị mất là thời kỳ quan hệ ngoại
giao của Thục Hán hỗn loạn không ổn định. Cuộc chiến sau cùng ở Kinh Châu vừa rồi,
bên địch bên ta không phân biệt được, Lưu Bị đông chinh, lại làm cho quan hệ
Tôn Lưu càng thêm quyết liệt. Tuy trước lúc Lưu Bị "ra đi”, cũng đã lo đến tình
thế khách quan, có ý hoà hoãn quan hệ căng thẳng với Tôn Quyền, song bởi tâm lý
không ai tin ai, nhiệm vụ nối lại hợp tác là rất khó khăn.
Thời kỳ mới nắm đại quyền, Gia Cát Lượng hết
sức cố gắng đổi mới cách nhìn sâu rộng của Thục Hán. Thục Hán đã thành một
trong ba quốc gia lớn, lập trường cơ bản nếu không rõ ràng, chính sách lớn nếu
bất định, thì rất khó tập hợp lực lượng trong nước, mất mục tiêu chung. Cho nên
công việc cấp bách là ổn định vị trí với lân bang, cũng tức là đại sách lược
ngoại giao liên Ngô chế Tào.
May mà, Gia Cát Lượng có những sứ thần ngoại
giao tài giỏi như Đặng Chi, Phí Vỹ, Trần Chấn, giữ lập trường bình đẳng, với
thái độ khá thành khẩn, bình tĩnh, nối lại được quan hệ hợp tác Tôn - Lưu từng
đứt đoạn hơn một năm.
Với lập trường được xác định ngay từ Long
Trung Sách, Gia Cát Lượng đã rất cố gắng tập hợp lực lượng nội bộ, để kiên trì
được quốc sách cơ bản này. Về phương diện này Gia Cát Lượng đã chú ý khuyến
khích nông nghiệp mọi mặt, đóng cửa bồi dưỡng sức dân, cũng tức là thủ thế hoàn
toàn, căn bản tăng cường được lực lượng của mình, làm công việc chuẩn bị rất
chu đáo. Trước nguy cơ ổn định chế độ, rất cần phải nhẫn nại và chờ đợi. Binh
pháp đã rằng cần phải bất động như núi cũng là thái độ cần thiết của người lãnh
đạo.
Gia Cát Lượng dưới trùng trùng áp lực lại rất
bình tĩnh, bắt đầu từ khôi phục nông nghiệp, ổn định dân sinh, phát triển thủy
lợi, làm các nghề muối, nghề sắt, dệt gấm, tăng cường thực lực kinh tế, lấy quốc
phú an dân, đủ lương, đủ lính làm suy nghĩ hàng đầu, biểu lộ rõ ông ta là người
quản lý tài giỏi.
Để ổn định ban bệ, người điều hành nói
chung thường đề cao phương thức đãi ngộ vật chất và hưởng thụ, để thu hút tâm lực
thuộc hạ đối với mình.
Nếu dẫn dụ bằng vật chất, đích xác là có hữu
hiệu trong thời gian rất ngắn, song dục vọng của người ta lại vô cùng. Ví như Á
Đương, Hạ Oa sau khi ăn quả ngọt, lại thoát ly với sự thuần phát vốn có. No ấm
nẩy sinh dâm dật, sinh hoạt vật chất là chốn chẳng thể thoả mãn, bổng lộc rất lớn
cũng chẳng làm cho người ta vừa ý. Nhân viên công vụ sau khi đời sống được cải
thiện, chẳng những không an tâm công tác, lại vận dụng sự tích lũy nhiều hơn
theo đuổi "cuộc chơi vàng bạc”.
Đương nhiên dùng thanh bạch để yêu cầu những
nhân viên công vụ, trong xã hội hiện đại tựa hồ là rất ngốc nghếch không thực tế.
Song lại là điều kiện tất nhiên để khôi phục ổn định quốc gia. Thái độ của các
nhân viên công vụ Thục Hán lúc ấy, đặc quyền hoành hành pháp trị không tỏ rõ,
nhiều người rất hám tiền. Bởi thế Gia Cát Lượng không thể không dùng thuốc đắng
để cải thiện không khí xã hội.
Song lại quan trọng là thái độ của người
lãnh đạo, Gia Cát Lượng làm việc rất triệt để, chẳng những bởi lấy mình làm
gương thực hiện sinh hoạt đơn giản tiết kiệm mà còn yêu cầu những cán bộ quan
trọng cũng phải chịu sống thanh bạch, làm được như vậy thực là chẳng dễ dàng
gì. Đối với mình và gia nhân tựa hồ như tàn nhẫn, lại yêu cầu thuộc hạ phải làm
được, chỉ riêng thành công này, Gia Cát Lượng đáng được xem là nhà chính trị vĩ
đại nhất trong lịch sử.
Cuốn tiểu thuyết "Đức Xuyên Gia Khang” của
Sơn Cương Trang Bát miêu tả Gia Khang bản thân khi tiếp cận với thành công,
trái lại sinh hoạt của mình rất tiết kiệm, thậm chí đến cái ăn cũng rất giản
đơn. Ông ta yêu cầu người phục vụ của mình phải xem xét sự ăn uống của mình sao
cho đạm bạc; công việc rất nhiều, hưởng thụ lại rất ít, như thế mới có tư cách
trở thành người lãnh đạo cao cấp. Gia Khang đối với ban bệ của mình rất chặt chẽ,
thu nhập của người phục vụ rất ít, bởi thế ông ta biết rõ phải có đãi ngộ tốt
thì thuộc hạ mới công tác tốt, thực là điều ông ta rất khó làm. Sơn Cương cho rằng
chính sách khắc nghiệt của Gia Khang, lại là động lực rất chủ yếu để Mạc Phủ ổn
định được.
Chính sách điều hành nước Thục của Gia Cát
Lượng, với triết học khổ hạnh của Gia Khang, có cùng sự vi diệu của nó, xây dựng
chế độ không thể dựa vào mồm mép là có thể làm được; nếu tự mình không giữ phép
tắc, lại yêu cầu người ta giữ phép tắc, tự mình tham công hiếu lợi lại yêu cầu
người ta đứng yên; tự mình thích quyền lực lại yêu cầu người ta phải hy sinh cống
hiến. Thái độ lãnh đạo như vậy, sự thành công không nói đã rõ.
Chế độ không chỉ là giấy trắng mực đen, lại
không chỉ là thông qua hình thức luận bàn, mà phải được sự tuân thủ của người bị
trị, tâm phục khẩu phục. Tôn Tử binh pháp đã chỉ rõ, đạo lý phải được nêu tỏ để
dân với cấp trên cùng một ý một lòng. Thực hiện pháp luật hà khắc, chỉ dùng điều
luật với đời loạn, sẽ làm cho quyền lực chung không được tôn trọng. Trọng điểm
của chính trị là dẫn đường chứ không phải ra oai, ví như nhân vật đại biểu cho
pháp gia là Thương Ưởng cũng là lấy nêu gương làm tin, để tranh thủ nhân dân chấp
nhận quyền lực. Chỉ một mặt hò hét nạt nộ, tưởng rằng tạo được uy tín, chẳng
qua là mộng tưởng leo cây tìm cá mà thôi.
Đánh máy: hoi_ls
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN, 2003 (Tái
bản lần II)
Nguồn: Vnthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 11 năm 2013