Lời dẫn truyện
Đi tìm sự thực lịch sử:
Miếu thờ thừa tướng là đây
Cấm thành rừng bách phủ đầy trước sau
Nắng xuân cỏ biếc một màu
Tiếng oanh trong lá toả vào không gian
Ba lần cầu kiến cao nhân
Hai triều đã tỏ lão thần tận tâm
Kỳ sơn giữa trận từ trần
Khách anh hùng để tần ngần lệ rơi.
(Thừa tướng đất Thục - thơ Đỗ Phủ)
Trong lịch sử hơn 5000 năm của Trung Quốc,
Gia Cát Lượng là nhân vật truyền kỳ rất nổi tiếng, là một hình tượng rất dẹp.
Những đức tính cao đẹp như trí, dũng, trung
thành đều gộp cả ở con người ấy, suốt một thời đại đều in dấu ở chính khách rất
được tán thưởng này, thậm chí đến cả những phục trang bên ngoài của ông như quạt
lông, khăn nhiễu cũng đã thành y trang độc nhất vô nhị.
Trong tác phẩm nổi tiếng Tam Quốc Diễn
Nghĩa qua ngòi bút tô điểm của nhà viết tiểu thuyết La Quán Trung đời Minh, Gia
Cát Lượng chẳng những là nhà tiên tri khả kính, nhà chiến lược đa mưu túc kế,
nhà ngoại giao ăn nói hùng hồn, nhà chính trị nhìn xa trông rộng, nhà binh pháp
xuất quỷ nhập thần, hơn nữa còn là một đạo gia thuật sĩ có tài hô phong hoán
vũ, giẫm đạp thất tinh và có một siêu năng khác người.
Mọi người ngưỡng mộ ông ở phong thái phong
lưu, trí lự siêu phàm, tài kiêm văn võ, bất luận với một đối thủ lợi hại như thế
nào, ví như những nhà quân sự thiên tài trong lịch sử Trung Quốc: Tào Tháo và
Chu Du, ông đều coi là chẳng ra gì, lại còn đùa bỡn nữa. Có thể nói hết thảy những
biến hoá trong trời đất ông đều sớm nắm chắc, song Gia Cát Lượng trong Tam Quốc
Diễn Nghĩa, dẫu rằng được La Quán Trung tô vẽ và thần thoại hoá ra sao, liên tục
sáu lần ra Kỳ Sơn, luôn đánh không thắng, cuối cùng phải nhận một kết cục bi thảm,
gió thu thổi mãi gò Ngũ Trượng.
Kỳ Sơn giữa trận từ trần
Khách anh hùng để tần ngần lệ rơi.
Vậy suy cho cùng, một đời Gia Cát Lượng là
được hay là thua? Vì sao với trí tuệ và nỗ lực siêu phàm của ông vẫn không đem
lại kết quả mong muốn? Vì sao với một chính khách không thành công như vậy, sau
hai nghìn năm, trăm họ ở Tứ Xuyên vẫn còn nhắc đến những kỳ tích trị quốc ở đất
Thục của ông. Và những văn nhân mặc khách nổi tiếng nghìn năm như Đỗ Phủ, Lý Bạch,
Lý Thương Ẩn đều sùng bái ông, đến cả viên tướng thiên tài là Nhạc Phi đã lừng
danh tận trung báo quốc, đều đã đọc kỹ bản viết Xuất Sư Biểu nổi tiếng của Gia Cát
Lượng và cùng bày tỏ sự tôn sùng vô hạn đối với ông. Đằng sau lớp sương khói của
cuốn tiểu thuyết, con người thực của Gia Cát Lượng rốt cục là như thế nào? Lý
tưởng của ông, trí tuệ của ông, mưu lược của ông, phong cách của ông, cuối cùng
đâu là cái ta có thể nắm bắt được; đấy cũng là vấn đề rất hứng thú mà cuốn sách
này sẽ đề cập đến.
1. Sức thu hút của Gia Cát Lượng là ở đâu?
Gia Cát Lượng có tên chữ là Khổng Minh, ông
sinh ra vào năm thứ 4 Đời Ninh đế nhà Hán (năm 181 sau Công Nguyên), ở huyện
Dương Đô, quận Lang Nha (nay là huyện Nghi Thủy, tỉnh Sơn Đông). Huyện Dương Đô
vẫn gọi là Gia Huyện, huyện này có rất nhiều người họ Cát, thế lực rất lớn, họ
Cát này rất nổi trội nên thường được gọi là họ "Gia Cát”. Gia Cát Lượng xuất
thân ở Phủ Quan. Tổ phụ của Gia Cát Lượng là Gia Cát Phong từng giữ chức tư lệ
hiệu úy (quan Tư lệnh cảnh bị kinh thành) nổi tiếng thanh liêm, bởi vậy cũng
hay va chạm với không ít những kẻ quyền quý. Đến thời phụ thân của ông, chẳng
còn hiển hách như xưa; phụ thân của Gia Cát Lượng thường trầm mặc ít nói, từng
làm việc với chức Quận thừa ở quận Thái Sơn, song le cụ sớm nhất, cho nên cũng
chẳng có gì đáng kể. Đáng nói là ông chú của Gia Cát Lượng là Gia Cát Huyền, là
người giỏi giao thiệp có văn tài thường hay qua lại với những kẻ có quyền thế
quanh vùng như Viên Thuật, Lưu Biểu.
Gia Cát Lượng có ba người anh em và một chị
gái, do cha mẹ sớm mất, ở quê làng lại gặp phải loan Hoàng Cân, ông chú là Gia
Cát Huyền, mang cả nhà ròi đến ở Thành Tương Dương lúc đó do Kinh Châu mục Lưu
Biểu cai quản, định cư ở mé núi Nam Dương gần đô thành. Người anh cả là Gia Cát
cẩn đã lớn, để kế nghiệp cha đã đến học ở trường Thái học trong kinh thành Lạc
Dương, về sau lại đến Đông Ngô theo lời mời của Lỗ Túc, thành ra một tân khách
của Tôn Quyền, rồi ra làm quan với Đông Ngô, rất được Tôn Quyền sủng ái. Ít lâu
sau, ông chú Gia Cát Huyền qua đời, Gia Cát Lượng và em trai Gia Cát Quân, dựa
vào cái gia sản đạm bạc mà ông chú để lại, thường ngày cày ruộng, đọc sách, đợi
có thời cơ để thi thố tài năng.
Cũng do những mối thân tình từ trước, mà
Gia Cát Lượng vẫn có quan hệ mật thiết với quý tộc ở thành Tương Dương. Gia Cát
Lượng năm hai mươi tuổi lấy con gái nhà Hoàng Thừa Ngạn vốn có quan hệ thân thiết
với Lưu Biểu đang làm quan Kinh Châu mục, và người chị gái của Gia Cát Lượng
cũng đã lấy chồng là người quyền quý họ Bàng, sau này một người nổi tiếng tên
là Phượng Sồ Bàng Thống cũng là người của họ ấy.
Dân gian thường có câu "sức trói gà không nổi”,
câu ấy dùng để chỉ cái vẻ thư sinh của Gia Cát Lượng, cũng dùng để nói cái ý rằng:
ông là con người của đầu óc, thực ra lại không đúng với vẻ ngoài đích thực của
ông.
Gia Cát Lượng là người đạt được mức tiêu
chuẩn của những chàng trai vạm vỡ đất Sơn Đông, thân cao dư 8 thước cổ xưa, chừng
1,8m bây giờ, trông thể hình rất cao lớn, thời còn trẻ thường vẫn làm các việc
cày bừa, thích tự làm lấy mà cũng làm luôn chân tay, thích sáng tạo ra các loại
công cụ. Về cuối đời ông còn chế ra "nỏ liên châu”, "trâu gỗ ngựa máy”, thiết lập
"bát trận đồ” tuyệt đối không phải là một tư tưởng gia đơn thuần chỉ động não động
khâu mà không động tay chân.
Ví như câu "sức trói gà không nổi”, cũng để
chỉ một nhà chiến lược nổi tiếng thời Tây Hán là Trương Lương: Sách "Sử ký”
miêu tả, ông ta "diện mạo giống như phụ nữ” là người thông tuệ, phong lưu và
giàu tình cảm, là một mẫu mực thư sinh.
Song Trương Lương vốn là kẻ to gan lớn mật,
thời trẻ, để rửa nỗi nhục vong quốc, ông đã phải khuynh gia bại sản để học võ
công, đâm Tần Thủy Hoàng ở Bác Lãng Sa. Tuy việc ấy không thành, song khi bị
truy bắt khẩn cấp vẫn khôn khéo thoát khỏi, rõ ràng là người thư sinh này cũng
đã sôi sục dòng máu vũ dũng trong người.
Cũng ví như nói Gia Cát Lượng là người
"sách hoạch cao thủ’'’ cũng hoàn toàn không đúng, ông thường nghiêm túc, trầm
ngâm suy nghĩ, song hành động lại cẩn thận, mực thước, bởi vậy ít giao tiếp với
bạn bè. Ở vào thời Đông Hán bấy giờ, giới thượng lưu chưa đánh giá cao đối với
chàng thanh niên Gia Cát Lượng.
Như Tam quốc chí đã ghi lại, Gia Cát Lượng
thường ví mình vối các danh tướng thời Xuân Thu như Quản Trọng, Nhạc Nghị, song
lúc bây giờ, chỉ có những danh sĩ Kinh Châu thường qua lại với ông như Tư Mã
Huy, Từ Thứ, Thôi Châu Bình, những người này không tài hoa bằng ông, xem những
tư liệu của chính sử, Gia Cát Lượng là người trí tuệ tài giỏi, bên ngoài có vẻ
trầm ngâm, bản tính là một người nghiêm túc; khi thảo luận công việc, nói năng
sôi nổi, song thường thì rất ít nói, thích suy tư làm việc cẩn thận, quan sát
thấu đáo, nắm chắc tình hình, lại có óc tổ chức và phân tích, làm việc có chuẩn
bị và sách lược đúng, có khả năng suy tưởng, thực là một chuyên gia sách lược
tiêu chuẩn.
2. Đi tìm người tổng quản.
Gia Cát Lượng lúc còn trẻ, về mặt suy tư so
với người khác có những bất đồng rất lớn. Tam quốc chí kể rằng, ông thích đọc
Lương Phụ Ngâm. Lương Phụ Ngâm là một khúc ca từng nói về tướng quốc Án Tử nước
Tề, bởi muốn ổn định chính quyền nên đã bày ra kế trừ khử ba viên võ sĩ đối địch,
khúc ca này nói về những sự kiện lịch sử có thật, qua đó cho thấy Gia Cát Lượng
không hẹp hòi trong tập tục và truyền thống, đã dám vượt qua những ràng buộc tư
tưởng của mình để thấy được chân tướng của sự kiện.
Sau này nhìn lại, có thể thấy, chàng tuổi
trẻ Gia Cát Lượng thời ấy là một người rất tự tin. Ông từng suy nghĩ rất nhiều,
nhận rõ vai trò người tổng quản là rất trọng yếu trong "tập đoàn”, bởi vậy ông
đã chọn "tập đoàn” Lưu -Quan - Trương, muốn được phát huy hết năng lực của
mình. Đương nhiên để phát huy được sở trường, trừ những người thích tự do, việc
đảm nhận trọng trách là rất đáng chú ý. Sau này Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị đảm
đương những công việc lớn, thực sự là người tổng quản cúc cung tận tụy, đến chết
mới thôi.
Lưu Bị lúc ấy đang bị Tào Tháo đuổi đến
cùng đường miễn cưỡng phải tìm đến Kinh Châu nhờ Lưu Biểu che chở. Lưu Biểu
danh nghĩa là đồng minh với Lưu Bị song thực tế để Lưu Bị ở Tân Dã huấn luyện
binh sĩ tạo thành một phòng tuyến bên ngoài chống trả lại Tào Tháo mà thôi. Tuy
tình hình quân sự rất khẩn cấp song Lưu Bị vẫn chưa thể yên lòng bởi chưa tạo dựng
được sự nghiệp lớn, chưa tìm ra một chuyên gia hoạch định được kế hoạch lâu
dài. Được sự tiến cử của những danh sĩ đất Kinh Tương là Tư Mã Huy và Từ Thứ,
Lưu Bị nhận định rằng người ấy không trọng công danh, con người trẻ mưu lược ấy,
chính là một nhân tài rất quan trọng trước mắt của "tập đoàn”, bởi thế ông nghe
theo ý kiến của Từ Thứ, đích danh tự mình dẫn theo hai nhân vật quan trọng khác
là Quan Vũ và Trương Phi, xông pha gió tuyết lạnh lẽo, đến cầu kiến ở lều cỏ của
Gia Cát Lượng tại Long Trung.
Để thử thành ý của Lưu Bị, Gia Cát Lượng cố
ý lánh mặt liên tục hai lần không ở nhà để Lưu Bị phải về không. Song Lưu Bị
không nản lòng, đã ba lần đến Long Trung cầu kiến. Gia Cát Lượng rất cảm động,
phải ở nhà chờ đợi để đáp lại. "Tam cố thảo lư cầu Gia Cát Lượng” là một giai
thoại dã sử nổi tiếng nghìn năm. Trong bản viết Xuất Sư Biểu của Gia Cát Lượng
sau này có viết "Tiên đế chẳng xem thần nhỏ mọn, ở nơi lẩn khuất, ba lần chiếu
cố đến thần giữa nơi lều cỏ”, có thể coi đây là một sự thực lịch sử kể về ba lần
cầu kiến Khổng Minh.
Lưu Bị lúc này đã bốn tám tuổi, dấn thân dựng
nghiệp đã hai mốt năm, có uy tín lớn với toàn quốc, từng giữ các chức: Từ châu
mục và Dự châu mục (chức quan đứng đầu về quân sự ở địa phương). Gia Cát Lượng
mới hai bảy tuổi là một "lính mới” vừa xong tu nghiệp, song Lưu Bị đã nhất nhất
nghe theo "Long Trung Sách”, kế sách quan trọng của Gia Cát Lượng.
Long Trung Sách được đưa ra khi hai người vừa
mới biết nhau, hoạch định được kế hoạch lâu dài cho Lưu Bị. Hôm ấy, Gia Cát Lượng
và Lưu Bị cùng đàm đạo rất tâm đắc, bản Long Trung Sách hiện còn lại là bản viết
giản đơn do người đời sau chỉnh lý, song qua đó ta có thể thấy được ý tứ của
nhà chiến lược trẻ tuổi là "giữ toàn tính mệnh ở đời loạn, chẳng cần nổi tiếng
với chư hầu”, để mưu sự nghiệp to lớn về sau. Ông đã phân tích sáng suốt thời cục
hiện tại với một nhãn quan thấu đáo, đề ra kế sách từng bước đi từ nhỏ đến lớn,
trách chi mà Lưu Bị mừng như cá gặp nước vậy. Xem xét những cố gắng và việc làm
của Gia Cát Lượng sau khi hạ sơn, có thể chia làm ba giai đoạn, mỗi lúc nổi trội
khác nhau, dễ thấy những phong cách và kế sách không giống nhau.
Giai đoạn thứ nhất kể về một "Quân sư” nổi
tiếng từ trụ quân ở Tân Dã, rồi đến cuộc chiến ở Tương Dương, đại chiến ở Xích
Bích, có được Kinh Châu, Hán Trung đều thấy vai trò phụ tá quan trọng của Gia
Cát Lượng bên cạnh chủ tướng Lưu Bị, cho thấy rõ tính nổi trội ở những kế sách
của ông.
Giai đoạn thứ hai kể vể nhà "Chính trị gia”
nổi tiếng: kể từ Lưu Bị tự phong là Hán Trung Vương, cho đến giai đoạn thành Bạch
Đế gửi con. Đoạn này bề ngoài là Lưu Bị nắm quyền, song bên trong Gia Cát Lượng
điều hành, tỏ rõ vai trò một người tổng quản lý tài giỏi kiến tạo cơ cấu phụ
trách, chi viện hậu cần đưa mọi việc vào qui củ, thành vai chính trên sàn diễn.
Giai đoạn thứ ba kế về một "Tổng tư lệnh”
viễn chinh nổi tiếng, kể từ bắt đầu chiến dịch nam chinh tháng 5 vượt qua Lô
Giang, đến bắc phạt Trung Nguyên, đến gò Ngũ Trượng mắc trọng bệnh từ trần ở giữa
doanh trại. Gia Cát Lượng đã trở thành người tổng quản lý khai sáng cơ nghiệp,
điều hành mọi việc trong nước.
Tác giả của Tam Quốc Diễn Nghĩa đã miêu tả
Gia Cát Lượng trong một luồng sáng rực rỡ, với nhiều tình tiết như nhờ sương mù
mượn tên, mượn gió đông hoả thiêu Xích Bích, sáu lần ra Kỳ Sơn, hoả thiêu Cơ Cốc,
bát trận đồ gây khốn Lục Tốn, Gia Cát Lượng đã chết mà đuổi được Trọng Đạt sống
v.v..., cơ hồ như Gia Cát Lượng là một thiên tài quân sự siêu năng xưa nay chưa
có, xuất quỷ nhập thần; song theo ghi chép của cuốn sử "Tam Quốc Chí” của tác
giả Trần Thọ, thì Gia Cát Lượng được thể hiện rất thực qua ba giai đoạn, nhất
là qua giai đoạn hai.
Bình phẩm vê Gia Cát Lượng, tác giả Trần Thọ
viết:
"Gia Cát Lượng giữ chức tướng quốc, vỗ yên
bách tính, tỏ rõ nghi thức, sắp xếp quan chức, điều hành chính sự, khai sáng
dân tâm cùng là ban bố pháp luật... Có thể nói ông là bậc hiền tài trị quốc,
sánh được với các năng thần như Quản Trọng, Tiêu Hà, song liên tục nhiều năm
huy động sức dân đánh mãi không thắng nói về tháo vát ứng biến, có thể đó chẳng
phải là sở trường vậy’’.
Cứ như sử liệu mà xem, xét lời bình của Trần
Thọ, đôi chiếu với sự miêu tả của La Quán Trung, nghĩ rằng cũng nên tìm hiểu
con người Gia Cát Lượng một cách chân thực.
3. Quân sư trẻ tuổi với ngoại giao con thoi
và sách lược rõ ràng.
Kể từ Tào Tháo mang đại quân xâm nhập Kinh
Châu cho đến cuộc chiến ở Xích Bích, thấy sự nghiệp của Lưu Bị ở vào vị trí rất
chông chênh. Ở giai đoạn này, Gia Cát Lượng đã phát huy mưu lược và tài cán ngoại
giao, giúp đỡ rất nhiều cho Lưu Bị. Tam Quốc Diễn Nghĩa đã miêu tả thiên tài
quân sự tuyệt vời của ông, ví như trận hoả thiêu gò Bác Vọng và đại chiến Xích
Bích thiêu hủy đoàn thuyền liên hoàn đều quy tụ ở công lao của ông, câu chuyện
mượn gió đông mang đầy màu sắc thần thoại. Kỳ thực Gia Cát Lượng lúc đó còn ít
tuổi, lại thiếu kinh nghiệm chiến đấu, được lưu ở tuyến sau, cống hiến thực sự
của ông chỉ là lo liệu việc hậu cần.
Sau chiến dịch Tương Dương, Trường Bản, đội
quân của Lưu Bị tan tác cả. Trong vạn phần nguy cấp, cũng nhờ Lỗ Túc dẫn lối
Gia Cát Lượng, phục mệnh sang Giang Đông thuyết phục Tôn Quyển, để ông ta xuất
binh cùng với Lưu Bị liên hợp chống trả Tào Tháo. Đấy chẳng những phải thuyết
phục Tôn Quyền, mà phải chinh phục được cả quần thần văn võ của Đông Ngô, có thể
nói là một nhiệm vụ rất khó khăn.
Đảm nhiệm việc sưu tầm tình báo đưa ra phán
đoán tổng hợp, Gia Cát Lượng đã thành công trong việc triển khai ngoại giao con
thoi. Nhờ được sự giúp đỡ của Lỗ Túc, Gia Cát Lượng đã có biểu hiện kiệt suất,
ông trù liệu chính xác, phân tích rõ ràng, khi cứng, khi mềm, khi thuận theo,
khi khích tướng, cuối cùng hiệp trợ Tôn Quyền thắng được phái chủ hoà trong nước,
xuất binh tiến hành một trận quyết chiến với Tào Tháo ở Xích Bích, có thể nói
đã traọ chiếc chìa khoá mở cửa cho sự nghiệp của Lưu Bị được tiến triển.
Trong cuộc chiến ở Xích Bích, thực tể là cuộc
đối đầu giữa tập đoàn quân do Tào Tháo chỉ huy với thủy lục quân Đông Ngô do
Chu Du chỉ huy. Đội quân của Tào Tháo bị chết trận và tan rã hơn mười vạn người
mà bản thân Chu Du trong chiến dịch Giang Lăng sau đó cũng bị thương nặng, dẫn
đến phải chết trong doanh trại, hai bên Tào Tháo và Tôn Quyền đều bị bại hoại,
rốt cục người thu lợi chủ yếu lại là Lưu Bị. Tuy vậy Tào Nhân vẫn còn hùng cứ ở
Tương Dương, Kinh Châu; Chu Du vẫn nắm giữ Giang Lăng, một vị trí quân sự quan
trọng bên sông Trường Giang. Xong ở phía tây nam, một nửa phần Kinh Châu là ba
quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa đã bị quân của Lưu Bị thừa cơ chiếm lấy, tạo
ra đất sáng nghiệp trọng yếu của Lưu Bị, kế hoạch trên giấy "Long Trung Sách” của
Gia Cát Lượng đã tiến được một bước có thể nói đã thành công được một nửa.
Tuy ở giai đoạn này Gia Cát Lượng chưa tác
động nhiều lắm đến sự sáng nghiệp của Lưu Bị, song việc phát triển sự nghiệp của
Lưu Bị vẫn nằm trong quy hoạch phát triển của Gia Cát Lượng. Bước thứ hai của
"Long Trung Sách” nhằm vào Ích Châu ở phía tây không lâu nữa cơ hội lại đến.
Lưu Chương chiếm cứ Ích Châu, do nhiều năm
bị quân Trương Lỗ ở Hán Trung phương bắc quấy nhiễu, thể theo những đề nghị của
các trung thần Trương Tùng và Pháp Chính, đã chủ động mời quân của Lưu Bị đến
giúp.
Lưu Bị để Gia Cát Lượng hiệp trợ với Quan
Vũ và Trương Phi trấn thủ Kinh Châu, tự mình dẫn theo Hoàng Trung tiến vào Ích
Châu, còn có tổng tham mưu trứ danh Phượng Sồ tiên sinh. Trong đoàn xuất quân
này, có thể thấy Lưu Bị rất xem trọng Gia Cát Lượng quân sư, tuy không xếp vào
hàng mưu lược quân sự, song lại đặt ở vị trí điều hành hậu cần, giống như Tiêu
Hà với Lưu Bang.
Không bao lâu, các cánh quân của Lưu Bị tiến
vào Ích Châu gặp phải sự cản trở của quân Lưu Chương, đội quân của Hoàng Trung
tuy dũng mãnh thiện chiến, song le thế đơn lực mỏng khó địch lại được đại quân
bên Thục. Lưu Bị vội hạ lệnh Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu, hai đội quân của
Trương Phi và Triệu Vân theo hướng sông Nghi cùng tiến vào Ích Châu, hẹn hợp với
quân Hoàng Trung cùng đánh Thành Đô.
Tổng tham mưu trưởng của Trương Phi và Triệu
Vân là Gia Cát Lượng, đây cũng là lần thứ nhất Gia Cát Lượng chủ động lãnh đạo
việc quân. Do hai hộ tướng Trương Phi, Triệu Vân dốc lực phối hợp, khiến cuộc tấn
công lần này gần như nắm chắc phần thắng.
Không lâu, trong lần tiến đánh Thành Đô,
Bàng Thống không may tử nạn, công việc tổng tham mưu chinh phạt đất Thục lại ở
cả trong tay Gia Cát Lượng.
Do thanh thế đội quân Lưu Bị rất lớn, lại
có Pháp Chính trong đất Thục làm nội ứng, Lưu Chương thấy đại thế đã vỡ, bèn
xin đầu hàng Lưu Bị. Bước thứ hai rất quan trọng mà "Long Trung Sách” đã hoạch
định cũng là công việc khuếch triển rất khó khăn đã đạt được thành công thuận lợi.
Sau khi chiếm được Ích Châu, không lâu Lưu
Bị lại dẫn đội quân của Hoàng Trung và Triệu Vân, đánh vào đội quân Hạ Hầu Uyên
được Tào Tháo phái đến Hán Trung, lấy sách lược đánh lâu dài, khiến đội quân viễn
chinh của Tào Tháo không được viện trợ phải rút lui. Lưu Bị đã dần dần từng bước
đi từ nhỏ đến lớn, sau tám năm Gia Cát Lượng hạ sơn giúp đỡ, đã tạo nên một kỳ
tích là lập nên thế chân vạc chia ba thiên hạ (từ năm 207 đến 215). Trần Thọ
trong Tam Quốc Chí viết rằng:
"Lưu Bị sau khi bình định được Thành Đô,
phong Gia Cát Lượng là Quân sư tướng quân, chức Tả tướng quân (đây là chức quan
quan trọng của Lưu Bị) để trông coi việc lớn. Lưu Bị thường dẫn quân đội đi
chinh chiến bên ngoài để Gia Cát Lượng ở Thành Đô trông coi triều chính, chẳng
bao lâu khắp vùng Ích Châu đều dư thực dư binh”.
Từ đó có thể thấy Gia Cát Lượng có tài điều
hành và lập kế sách là một trợ thủ rất lớn bên cạnh Lưu Bị.
4. Đời loạn trọng khoan dung, đời bình trọng
sách vở.
Cứ theo bình luận của Trần Thọ, Gia Cát Lượng
đã có những thành công rất lớn, đáng kể là giai đoạn thứ hai, với vai trò một
chính trị gia nổi tiếng. Khi đã có địa bàn của mình (3 quận Kinh Châu mượn của
Tôn Quyền) Gia Cát Lượng đã dốc tâm điều hành công việc quản lý. Sách Tư trị
thông giám có ghi rằng: "Gia Cát Lượng phụ tá Lưu Bị cai quản đất Thục pháp lệnh
rất nghiêm, tầng lớp thế gia quan liêu đặc quyền ở Ích Châu chịu không nổi thường
vẫn oán thán”.
Một nhân vật tiêu biểu cho giới quyền quý
cũng là một công thần của Lưu Bị khi vào Thục là Pháp Chính bèn khuyên Gia Cát
Lượng rằng: "Cứ như Lưu Bang - Hán cao tổ xưa sau khi vào được Quan Trung phế bỏ
pháp lệnh của đời Tần chỉ còn giữ lại ba chương quy định khiến cho dân Tần rất
cảm kích bởi đức độ khoan dung. Nay tướng quân được ủy thác cai quản cả Ích
Châu, trông coi quốc sự nên vỗ yên dân chúng, thi hành pháp luật nghiêm minh,
theo kế phản khách ví chủ tướng chẳng nên làm ư? Hy vọng ông sẽ khoan dung hình
phạt, nhẹ bớt lệnh cấm, để hợp với mong mỏi của dân đất Thục”.
Gia Cát Lượng đáp rằng: "Tiên sinh chỉ biết
một mà không biết hai, nước Tần thi hành chế độ hà khắc dẫn đến dân tình oán hận,
nơi nơi phản loạn, thiên hạ bởi thế đất lở ngói vỡ. Lưu Chương vốn nhu nhược lại
cố chấp nên chính trị ở đất Thục không phát huy được, chẳng nêu đức độ, hình phạt
chẳng đủ, tầng lớp quan liêu thế tộc thừa cơ giành độc quyền, đạo quân - thần
chẳng rõ ràng, nền luân lý xã hội cũng tan mất cả. Thực ra, đối với những kẻ
quan liêu có đặc quyền này, nếu được sủng ái thái quá, lại làm cho họ không
nghĩ đến trọng danh vị, lơi là trách nhiệm. Nếu ban ơn cho họ sau này ân huệ ít
đi, họ sẽ oán thán, lại làm khó cho việc thực thi pháp lệnh của chính phủ. Nay ở
đất Thục chứng bệnh lớn là ở đấy, nên ta mới nêu cao chánh pháp, để pháp lệnh
có thể phát huy hiệu quả khiến nhân dân được bảo vệ chu đáo. Nếu hạn chế quyền
thế của bọn quan liêu thế tộc, khiến họ phải gìn giữ tốt vị trí của mình. Như
thế, làm quân, làm thần, làm dân đều phải có bổn phận, trên dưới có tiếp chế mới
có thể khiến được người, cảm thụ được ân huệ của chính phủ”.
Những lời này đã phân tích thấu triệt về việc
vận dụng quyền lực trong xã hội. Vấn đề của nưóc Tần là pháp lệnh hà khắc,
không hợp với hoàn cảnh hiện tại, nếu không nhận thức đúng, vấn đề quyền lực xã
hội sẽ hỗn loạn trật tự. Vấn đề điều hành quốc gia, một điều rất quan trọng là
sự nhận thức chung, để mọi người cùng thừa nhận vai trò quyền lực, vậy nên
chính sách bao dung của Lưu Bang lại không phù hợp ở chỗ này hay chỗ khác.
Với tình hình ở Ích Châu lúc ấy, Lưu Chương
làm đổ vỡ chính sự, quyền lực không được tôn trọng, bọn quan liêu chấp pháp lười
nhác hoành hành đặc quyền, pháp lệnh rối ren. Ở đây Gia Cát Lượng tất nhiên sẽ
chú trọng sự nghiêm minh của hình pháp, đấy là nguyên nhân chủ yếu để đề cao uy
tín của quyền lực.
Nghiêm chỉnh mà nói xã hội đời Tần là loạn
lạc, còn đất Thục mà Lưu Chương cai quản là một xã hội bê trễ. Loạn lạc thì quyền
lực không được nhận thức đúng, đây dó tranh chấp liên tục không thôi, lúc này tự
nhiên rất cần một chính sách bao dung. Còn xã hội bê trễ thì quyền lực không được
coi trọng, thấy rõ mà làm trái, quan liêu lười nhác, dân chúng làm liều, như thế
ắt phải chỉnh đốn lại bằng pháp luật nghiêm minh. Bởi vậy, nguyên tắc để vận dụng
quyền lực một cách chính xác, đó là: "đời loạn trọng khoan dung, bê trễ trọng
điều luật”.
Thực ra, không thừa nhận và không tôn trọng
quyền lực là vấn đề thường tồn tại. Đối với người cầm quyền, rất nên hiểu rõ chỗ
nào thì cần khoan dung, chỗ nào thì cần dùng luật. Về phương diện này mà nói,
Gia Cát Lượng đã lý giải rõ ràng với Pháp Chính vậy.
5. Thành Bạch Đế gửi con, bày tỏ đạo quân
thần
Sau khi Tào Tháo tự phong làm Ngụy Vương,
Lưu Bị cũng tự phong là Hán Trung Vương. Đến khi Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, Lưu
Bị nghe theo lời đề nghị của Gia Cát Lượng lập ra nhà Thục Hán lên ngôi đế vị,
lấy kế tục nhà Hán làm lễ chánh thống. Năm Chương Vũ thứ 2 (Niên hiệu của Lưu Bị),
Lưu Bị lấy cớ báo thù cho Quan Vũ, cử binh đánh Đông Ngô, song bị tướng Ngô là
Lục Tốn đánh bại ở Tỉ Qui, bi phẫn mà chết (tháng 4 năm Chương Vũ thứ 3). Trước
lúc lâm chung, có cho gọi Gia Cát Lượng đến Bạch Đế thành dặn dò việc mai sau.
"Khanh mới thực gấp mười Tào Phi, tất có thể
giữ yên được nước, ổn định đại sự, nếu có thể phụ giúp cô tử thì giúp, nếu như
nó bất tài, khanh hãy tự nắm lấy cả quyền hành”.
Gia Cát Lượng nghe vậy thất kinh, dàn giụa
nước mắt quì xuống mà tâu rằng: "Thần xin dốc sức làm tay chân, theo đúng lẽ
trung trinh nguyện chết không đổi vậy”.
Lưu Bị liền cho gọi Thái tử Lưu Thiện, dậy
rằng: "Ngươi phải cùng với tể tướng (chỉ Gia Cát Lượng) điều hành công việc quốc
gia này, phải tôn trọng tể tướng cũng như cha, cha phải đạo làm con”.
Không ít sử gia cho rằng, Lưu Bị khi ở cung
Vĩnh An, Thành Bạch Đế ủy thác con cho Khổng Minh, nói về đoạn đối thoại này,
ít nhiều cho rằng đó là phép "khích tướng” của người làm chính trị, lại cũng
nói rằng, cốt để cho Gia Cát Lượng không dám lộng quyền, mà phải dốc lòng phụ
chánh Lưu Thiện. Xét ra, đoạn này nói về đạo lý, nếu xét kỹ tình thế nước Thục
lúc bấy giờ, sự đồng nhất giữa Lưu Bị và Gia Cát Lượng, thấy rõ được là, nếu có
ý ngờ, tức là lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử mà thôi.
Lưu Bị trước lúc lâm chung, với Gia Cát Lượng
đã có mười sáu năm tình nghĩa thắm thiết, con người Gia Cát Lượng ra sao ông đã
quá rõ ràng. Huống như các quan văn võ nước Thục bấy giờ, đều tôn sùng Lưu Bị,
nếu như không được Lưu Bị ủy thác, Gia Cát Lượng muốn làm tới cũng không nhận
được ủng hộ của số đông. Lưu Bị đối với việc này cũng chẳng bận tâm lắm. Hơn nữa,
lúc đó lại có cả đại thần Lý Nghiêm và Triệu Vân bên cạnh; nếu như Gia Cát Lượng
có muốn tiếm quyền chẳng phải đã có một "cây gậy pháp lý” trong tay ư?
Trái lại, Lưu Bị đã quá hiểu rõ con mình một
cách tường tận. Chúng ta có thể tin được rằng khi ông bảo Gia Cát Lượng tùy
nghi đoạt quyền, ít nhiều đã thấy trước vấn đề, muốn để Gia Cát Lượng có đủ cơ
sở pháp lý, đề có thể ứng biến tùy thời. Trần Thọ trong Tam quốc chí đoạn nói về
tiên chủ có bình rằng: "Tiên chủ là người khoan dung đại độ, trọng hiền đãi sĩ,
có phong độ như Hán cao tổ Lưu Bang”.
Người có khí chất anh hùng, khi gửi con cho
Gia Cát Lượng lòng thanh thản không ngờ vực tỏ rõ đạo quân thần xưa nay hiếm vậy!
Xét thấy, sự bận tâm của Lưu Bị chẳng phải
Gia Cát Lượng có đoạt quyền hay không, mà là Lưu Thiện có đảm đương được việc
nước hay không. Sau này Gia Cát Lượng có viết trong Xuất Sư Biểu rằng:
"Tiên đế biết thần cẩn thận, trước lúc lâm
chung có uỷ thác việc đại sự, kể từ lúc phụng mệnh đến nay, sớm tối lo lắng, sợ
không xứng được sự ủy thác, phụ lòng mong mỏi của Tiên đế vậy”.
Thật là câu nói từ gan ruột! Giữa hai vị
quân thần cách nhau hai mươi tuổi này, đã để lại một hình ảnh đẹp trong sử sách
Trung Quốc. Lưu Bị mừng như cá gặp nước, khi gặp Gia Cát Lượng, đấy không phải
là một câu sáo ngữ mà là sự tán thưởng tri âm tri kỷ.
Song, Gia Cát Lượng đơn độc một mình nắm trọn
quyền điều hành nước Thục, rất cần một tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ. Sự uỷ thác của
Lưu Bị trước lúc lâm chung là một tiếng nói như thế.
6. "Tác phẩm” của tổng tư lệnh quân viễn
chinh: Bình loạn Nam phương.
Sau khi Lưu Bị từ trần, hoàng thái tử Lưu
Thiện mười bảy tuổi lên kế vị đổi niên hiệu là Kiến Hưng. Năm Kiến Hưng nguyên
niên (là năm 223 sau Công Nguyên) phong Gia Cát Lượng là Vũ hương hầu, khai phủ
trị sự không lâu lại phong thêm chức Ích Châu mục, trở thành người nắm quyền
hành tối cao về hành chính ở nước Thục. Tam quốc chí có ghi: "mọi việc chánh sự
lớn bé đều ở tay Gia Cát Lượng”. Lưu Thiện còn trẻ tuổi thiếu năng lực và kinh
nghiệm nên mọi việc đều phó thác cho quan tể tướng. Năm đó, Gia Cát Lượng bốn
mươi ba tuổi.
Sau khi nắm được thực quyền, Gia Cát Lượng
chú trọng việc điều hành chính sự, nỗ lực đề bạt nhân tài, tạo ra những quan chức
ưu tú. Mặt khác, khuyến khích phát triển nông nghiệp cùng nuôi tằm dệt vải,
thúc đẩy kinh tế dân sinh và chuẩn bị thực lực chiến đấu.
Về ngoại giao ông vẫn thực hiện theo phương
châm quy hoạch của "Long Trung Sách”, liên kết Đông Ngô để cùng chống lại Tào
Ngụy. Lưu Bị sau khi bị bại trận ở Tỉ Quỵ, cũng hiểu ra rằng mình đã mắc một
sai lầm chiến lược quan trọng, bèn chủ động với Đông Ngô cùng hoà đàm. Sau khi
Gia Cát Lượng nắm chính sự, lại phái nhà ngoại giao kiệt suất là Đặng Chi, đến
nước Ngô ký kết hoà ước tạo ra khối đồng minh lâu dài. Suốt thời gian Gia Cát
Lượng còn hiện diện, Thục Ngô tuy khi nóng khi lạnh, song nhìn chung không phát
sinh xung đột quân sự nữa, để Gia Cát Lượng có chỗ dựa, thực hiện mục tiêu quan
trọng của "Long Trung Sách” là: Đánh bại Tào Ngụy, khôi phục nhà Hán. Song, vừa
tránh khỏi một cuộc chiến, nguy cơ lại đến từ các quận miền nam Ích Châu. Sau
khi Lưu Bị từ trần không lâu, các quận phía nam thừa cơ làm phản loạn, Gia Cát
Lượng đang khi quốc tang không tiện xuất binh đành tạm cho qua.
Năm Kiến Hưng thứ 3, quan hệ vối Đông Ngô sớm
được ổn định, Gia Cát Lượng lệnh cho các đạo quân chủ lực của Mã Siêu, Triệu
Vân, nghiêm cẩn đề phòng sự quấy rối của quân đội phía bắc, quyết định rằng: muốn
vững ngoài trước phải yên trong, tự mình thống lĩnh đại quân nam chinh để bình
định lại phía nam Ích Châu đang phản loạn.
Dẫu rằng có rất nhiều bá quan văn võ đã can
gián Gia Cát Lượng thân chinh đánh dẹp, bởi phương nam địa thế rất hiểm trở, lắm
nguy cơ, chẳng bằng phái một viên đại tướng đi trấn áp là đủ. Song, Gia Cát Lượng
kiên quyết tự mình xuất chinh, kết hợp nhân tố chính trị và quân sự nếu không
có mặt trực tiếp giải quyết sẽ ít kết quả.
Trước lúc nam chinh Gia Cát Lượng từng hỏi
viên tổng tham mưu Mã Tắc về sách lược chủ yếu trong việc bình định phương nam.
Mã Tắc thưa rằng: "Cần lấy công tâm làm đầu”. Gia Cát Lượng rất tán thưởng, do
đấy có thể thấy rằng lần này trong quan điểm quân sự của Gia Cát Lượng nổi lên
vấn đề chính trị kết hợp với quân sự, có thể không đánh mà kẻ địch cũng tan vậy.
Những quan điểm này cùng đồng nhất với chủ nghĩa hoàn mỹ và nguyên tắc giao chiến
cẩn thận mà ông sẽ vận dụng trong chiến tranh bắc phạt sau này. Tháng ba năm thứ
3 niên hiệu Kiến Hưng, Gia Cát Lượng tự mình dẫn đại quân vượt qua Trường Giang
xuống miền nam Tứ Xuyên, thâm nhập vào vùng Vân Nam. Tháng Năm, vượt qua sông
Lô Thủy đánh thẳng vào đại bản doanh của phản quân; bởi đã phát huy tốt nguyên
tắc chính trị tác chiến, Gia Cát Lượng không thực hiện sự nghiêm khắc luật pháp
như trước, trái lại vận dụng một chính sách khoan dung vô tiền khoáng hậu trong
lịch sử Trung Quốc .
Sau khi đã bắt được nhân vật chính của quân
phản loạn là Mạnh Hoạch, ông lại dẫn hắn tham quan trận địa quân Thục để thấy
thế nào là lực lượng hùng hậu, rồi lập tức trả tự do cho hắn, hẹn sẽ giao đấu nữa
để phân rõ thắng bại.
Cuộc chiến này cho thấy những hành vi chiến
tranh vốn tàn khốc có thể chuyển hoá thành một cuộc giao đấu trí tuệ chẳng những
có thể giải toả được tâm lý thù hận của đối phương, lại khiến kẻ địch qua cuộc
đấu trí ấy mà sợ hãi, dẫn đến sự đầu hàng triệt để. Có thể nói nghệ thuật chính
trị tác chiến cao độ của Gia Cát Lượng ở đây đã biểu lộ một cách hoàn hảo; dựa
vào truyền thuyết lịch sử, Gia Cát Lượng từng bẩy lần bắt được Mạnh Hoạch lại
phóng thích cả bẩy lần. Hình thái chiến tranh thuyết pháp này, khiên người ta
khó hình dung nổi, song cuối cùng Mạnh Hoạch tâm phục, khẩu phục, phải quì lậy
giữa trận, cất lời thề rằng không bao giờ dám làm phản nữa, hoàn toàn chịu thần
phục dưới sức mạnh của nước Thục.
Sau khi bình định phản loạn phương Nam, Gia
Cát Lượng lại trút toàn bộ quân đội trở về, lệnh cho Mạnh Hoạch cùng gia tộc tiếp
tục điều hành phương Nam, rồi toàn quân ca khúc khải hoàn trở về kinh thành.
Đây là thái độ khoan dung và tin cậy khiến cho các dân tộc dị chủng văn hoá
phương Nam đã triệt để phục tùng. Suốt thời thuộc Hán, các quận miền Nam chẳng
những không dám tạo phản, lại còn cung ứng nhiều vật tư lương thực giúp Gia Cát
Lượng có thêm lực lượng đầy đủ tiến hành cuộc chiến trường kỳ với phương Bắc. Mạnh
Hoạch sau này còn giúp nhà Thục Hán rất nhiều công việc khác.
Gia Cát Lượng ở đây đã thấy rất rõ quyền lực
chung không được thừa nhận và không được tôn trọng, có chính sách khoan dung hoặc
nghiêm khắc để giải quyết vấn đề rõ ràng là một người điều hành chính sự rất có
trí tuệ trong lịch sử Trung Quốc.
7. Theo đuổi đến cùng nguyên tắc quân sự cẩn
thận
Ở đoạn văn cuối cùng của bản viết "Long
Trung Sách” Gia Cát Lượng muốn bày tỏ cùng với Lưu Bị rằng: "Một khi đại thế
thiên hạ có biến nên sai một viên thượng tướng dẫn binh mã Kinh Châu tiến lên
phía Bắc trực tiếp đánh vào Lạc Dương, tướng quân lại dẫn đạo quân Ích Châu
theo đường Tần Xuyên tiến đánh Quan Trung, thì còn sợ gì trăm họ chẳng mang giỏ
cơm bầu nước ra nghênh đón tướng quân? Nếu như cứ theo kế hoạch nàv mà làm, tướng
quân sẽ tạo dựng được nghiệp bá, nhà Hán nhất định sẽ trung hưng được”.
Trong "Xuất Sư Biểu” Gia Cát Lượng lại
trình bày rõ ý kiến của mình với Lưu Thiện:
"Nay phương Nam đã bình định, binh giáp đã
đầy đủ đáng khích lệ ba quân; bắc định Trung Nguyên xin đem hết lòng khuyến mã
trừ sạch gian ác phục hưng triều Hán về lại cố đô, như vậy là thần báo đáp được
tiên đế, mà trúng với chức phận dưới bệ rồng vậy”.
Từ đó thấy rằng Bắc phạt Trung Nguyên phục
hưng triều Hán là một chí hướng đeo đẳng Gia Cát Lượng suốt một đời. Khéo thu
thập chỉnh lý tin tức tình báo; Gia Cát Lượng đã dầy công chuẩn bị, mải mê với
khôi phục "khí độ vương triều”, đây cũng là vấn đề quan tâm của nhiều người có
tâm huyết. Đến cả những nhân vật thường gần gũi vói Tào Tháo như Tuân Úc, Thôi
Diễm, Mao Giới cũng đều bởi muốn gìn giữ nhà Hán, cùng với Tào Tháo đối đầu mà
dẫn đến bỏ mình hoặc chịu một số mệnh không sáng sủa. (Hai bên ở hai đầu trận
tuyến mà đều vì nhà Hán vậy).
Trong cuốn Tư Mạc, Chuyên Chương cho chúng
ta thấy nguồn gốc loại tư tưởng này, bao quát Gia Cát Lượng và những người cùng
thời. Gia Cát Lượng kiên trì chiến lược liên Ngô chống Tào mà không lượng sức
mình Bắc phạt Trung Nguyên, cuối cùng phải lâm bệnh bỏ mình giữa quân doanh ở
gò Ngũ Trượng, đấy cũng là lý tương thời đại của những phần tử trí thức lúc đó.
Song Gia Cát Lượng vốn là người theo đuổi
chủ nghĩa thực tế, trong cuộc chiến có thể nói lấy trứng trọi với đá này, ông
giữ một thái độ luôn luôn thận trọng.
Năm Kiến Hưng thứ 5, Gia Cát Lượng nhân khi
Ngụy chủ Tào Phi vừa từ trần, Tào Duệ vừa mới lên ngôi, tình hình chính trị nước
Ngụy đang rối ren quyết định tiến hành Bắc phạt để mở rộng địa bàn nước Thục,
giúp cuộc chiến tranh trường kỳ có thêm uy thế. Sau khi đề xuất tờ sớ "Xuất Sư
Biểu” với hậu chủ Lưu Thiện, Gia Cát Lượng dẫn đại quân tiến hành cuộc Bắc phạt
lần thứ nhất.
Từ năm thứ 5 Kiến Hưng đến năm thứ 12, suốt
thời gian bảy năm chính sử còn ghi lại, Gia Cát Lượng trước sau tiến hành bốn
cuộc chiến Bắc phạt. Tuy trong thời gian này có thu được một số thành công đáng
kể, song cuối cùng đành phải rút về, ở đây có sự chênh lệch thực lực rất lớn,
song Gia Cát Lượng lại là người quá thận trọng không dám mạo hiểm, mà trong
binh pháp đôi khi mạo hiểm lại là cần thiết. Trần Thọ khi bình phẩm phần Gia
Cát Lượng truyện có viết: "Nhiều năm huy động sức dân luôn đánh không thắng,
nói về sự tháo vát ứng biến, đó chẳng phải là sở trường của ông vậy”. Điều đó
có thể có lý.
Trong cuộc Bắc phạt lần thứ nhất, tại hội
nghị quân sự trước trận đánh, hổ tướng Ngụy Diên có đề xuất một chiến thuật đột
kích táo bạo, dẫn đại quân ra Tà Cốc, trực tiếp đánh thẳng vào Trường An tranh
thủ khi Ngụy quốc còn chưa kịp phản ứng, nhanh chóng chiếm lấy Quan Trung.
Lúc đó quan trấn thủ Trường An là Hạ Hầu Mậu,
con rể của Tào Tháo, thuộc loại con ông cháu cha thiếu kinh nghiệm tác chiến, nếu
đột nhiên tiến đánh, có thể y sẽ kinh hoàng tháo chạy, bởi vậy kế hoạch này rất
có khả năng thực hiện.
Song, chiến cuộc này cũng không khác gì người
dùng sức để thi vụt bóng gậy vào đích, tuy có khả năng song cũng chỉ là phỏng
chừng. Đội quân đơn lẻ thâm nhập vào Quan Trung, nếu gặp phải đại quân Ngụy quốc
triệt lộ ở tuyến sau sẽ bị khốn đốn. Bởi vậy với Gia Cát Lượng là một người
theo nguyên tắc cẩn trọng, chẳng thể chấp thuận chiến thuật bạo phổi này.
Chiến thuật mà Gia Cát Lượng tâm đắc, là vận
dụng sách lược đánh ngắn ngày giành thắng lợi nhanh, hy vọng đánh dần dần để thắng
lợi, tuy phải trả giá đắt và tốn thời gian song có thể tránh được mạo hiểm cùng
thất bại.
Mùa xuân năm thứ 6 Kiến Hưng, Gia Cát Lượng
lại dẫn đại quân từ đưòng Tam Cốc đánh chiếm Mi Quận, ông phái lão tướng Triệu
Vân có nhiều kinh nghiệm đánh nghi binh ở Cơ Cốc để dụ đạo quân của Tào Chân.
Tào Chân quả nhiên trúng kế mang toàn lực bao vây quân Triệu Vân. Gia Cát Lượng
bèn dẫn quân chủ lực vượt qua Kỳ Sơn, tập kích bất ngờ, một mạch đánh phá liền
ba quận Nam An, Thiên Thủy, An Định, làm chấn động cả Quan Trung, khiến hạ Hầu
Mậu hoảng hốt có ý vứt bỏ Tràng An mà chạy. Ngụy chủ Tào Duệ tuy còn trẻ tuổi,
song cá tính rất ôn hoà khoan dung, rất có tinh thần trách nhiệm lại có tinh thần
dũng cảm của tổ tiên Tào Tháo. Ông ta được tin cấp báo, lập tức ngự giá thân
chinh, rất nhanh chóng đốc chiến ở Trường An, lại giao lão tướng trí dũng song
toàn là Trương Cáp giữ cửa thành chuẩn bị quyết một trận sống mái với đội quân
Bắc chinh của Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng cũng phái một tướng tài là Mã
Tắc làm tiên phong, tại Nhai Đình đã cùng với Trương Cáp tiến hành hỗn chiến.
Chẳng may Mã Tắc cậy tài mà kiêu ngạo, thiếu kinh nghiệm thực tế chiến đấu lại
không nghe lời dặn dò trước đó của Gia Cát Lượng, phạm sai lầm nghiêm trọng về
đóng quân, bị Trương Cáp khoét sâu nhược điểm, khiến đội tiên phong của Mã Tắc
bị tan vỡ cả, sau đó bất đắc dĩ Gia Cát Lượng phải rút về Hán Trung.
Đến mùa đông, Gia Cát Lượng lại dẫn quân ra
ngoài quan ải bao vây Trần Thương, Tào Chân cũng dẫn quân chủ lực ra kháng cự,
hai bên cùng đối trận với nhau. Gia Cát Lượng bởi thời tiết quá giá rét, lương
thảo cung cấp lại không đủ phải đành rút quân. Mãnh tướng Ngụy quốc là Vương
Song dẫn kỵ binh đuổi theo, lại vấp ngay phải mai phục của Gia Cát Lượng, binh
tan, tướng chết, may mà Tào Chân doanh trại giữ nghiêm. Gia Cát Lượng vô kế khả
thi đành dẫn quân rút về đất Thục chỉnh đốn lại đội ngũ, kết thúc cuộc Bắc phạt
lần thứ nhất.
8. Hiến thân báo quốc, tổng tư lệnh liều
mình
Năm thứ 7 Kiến Hưng, Gia Cát Lượng tiến
hành cuộc Bắc phạt lần thứ hai. Lần này ông dẫn quân từ Vũ Đô, Âm Bình đánh vào
Ung Châu, thứ sử Quách Hoài anh dũng kháng cự, song chẳng thể ngăn chặn được thế
công của quân Thục. Chiến sự kéo dài mãi, Ngụy chủ Tào Duệ chỉ biết hạ lệnh cố
thủ, rồi phái Tào Chân từ phía Tà Cốc, Trương Cáp từ phía hang Tý Ngọ, Tư Mã Ý
từ phía tây thành đồng thời đánh giáp công. Gia Cát Lượng phái Lý Nghiêm ở Hán
Trung phòng ngự quân Ngụy song Lý Nghiêm lấy cớ lương thực không đủ đã kháng lệnh,
Gia Cát Lượng chỉ còn biết rút quân về phòng giữ. Song tướng Thục Ngụy Diên vẫn
ở lại Dương hê hội chiến, đánh phá quân Hác Chiêu tan tác mà lão tướng Tào Chân
cũng không may ngã bệnh từ trần, hai bên đều cùng lui quân.
Năm thứ 9 Kiến Hưng, Gia Cát Lượng lại ra Kỳ
Sơn. Để khắc phục khó khăn vận chuyển lương thực, Gia Cát Lượng phát minh ra
trâu gỗ để vận chuyển. Do công năng của khí cụ mới còn hạn chế khiến vấn đề vận
chuyển chưa tháo gỡ được, Gia Cát Lượng trong tình hình lương thực vận chuyển
không đủ lại phải lui quân. Song trong cuộc rút binh lần này, Gia Cát Lượng
dùng kỳ binh mai phục tại Kiếm Các giết được danh tướng Ngụy quốc là Trương Cáp
rửa được mối nhục Nhai Đình, có thể kể là thu hoạch rất lớn trong cuộc Bắc phạt
lần này.
Năm thứ 12 Kiến Hưng, đang mùa xuân Gia Cát
Lượng lại dẫn đại quân từ Tà Cốc đánh vào nước Ngụy. Ông lấy khí cụ mối phát
minh là ngựa máy để đảm nhiệm việc vận chuyển, hiệụ quả cũng khá tốt. Không lâu
quân Bắc phạt đánh chiếm quận Vũ Công của Ung Châu, để quân lính đóng ở vùng
Ngũ Trượng, chuẩn bị một trận quyết chiến với quân Ngụy. Thống soái của quân Ngụy
lần này là đại danh tướng Tư Mã Ý, ông ta cũng theo phương thức tác chiến thận
trọng đóng trại ở Vị Nam với quân Thục đối trận. Quan Thục là đội quân viễn
chinh, vấn đề lương thực rất khó giải quyết, thường là nguyên nhân chủ yếu của
những cuộc rút lui. Để triệt để giải quyết vấn đề này, Gia Cát Lượng chia quân
làm đồn điền, lệnh cho quân sĩ khai khẩn bên sông Vị Thủy, hợp tác chặt chẽ với
dân địa phương, hiệu quả cũng khá tốt, song do việc trong doanh trại rất nhiều
lại thêm Gia Cát Lượng dốc sức lo lắng đảm đang, không lâu, lao lực mà thành bệnh.
Tư Mã Ý dò thám thấy tình hình, đề phòng
Gia Cát Lượng lắm mưu mẹo bèn hạ lệnh phòng thủ nghiêm ngặt, lấy cầm giữ lâu
dài mà tiêu hao lực lượng. Hơn nữa, ông ta được biết Gia Cát Lượng ăn ít, việc
nhiều, đoán rằng chẳng thể ở lâu, bèn hạ lệnh mặc quân Thục khiêu chiến ra sao
cũng làm ngơ, đợi Gia Cát Lượng bệnh tình xấu đi, quân Thục sẽ bị khó khăn. Quả
nhiên, sau hơn một trăm ngày, Gia Cát Lượng bị thổ máu do bệnh dạ dày biến hoá,
trung tuần tháng tám vì bệnh nặng mất ở doanh trại hưởng thọ năm tư tuổi. Quân
Thục đành phải rút quân, Tư Mã Ý thấy doanh trại trống trải của quân Thục đã
rút, quan sát cách sắp xếp doanh trại, phải cảm thán rằng: "Thực thiên hạ kỳ
tài vậy”.
Khi quân Thục rút lui, Tư Mã Ý nghe mang
máng rằng Gia Cát Lượng đã mất bèn thân tự xuất binh truy kích, không ngò Gia
Cát Lượng đã sớm lệnh cho Khương Duy, tạo ra một hình người gỗ, ăn vận quần áo
giả làm Khổng Minh, đánh trống thúc quân phản kích lại. Bởi Gia Cát Lượng khéo
dùng kỳ binh, Tư Mã Ý không dám cả quyết, bèn hạ lệnh rút quân về, quân Thục an
toàn trở về nước, sau khi qua cửa Tà Cốc mới chính thức phát tang. Người đương
thời vẫn nói rằng: "Gia Cát Lượng chết còn đuổi được Trọng Đạt sống”. Tư Mã Ý
cũng chỉ tự mình bào chữa rằng: "Ta chỉ lo việc sống, chẳng lo việc chết vậy”.
Sau khi Gia Cát Lượng từ trần, Khương Duy kế
tục làm chủ soái quân Thục, cũng đã nhiều lần dẫn quân Thục Bắc phạt, song do
thực lực trong nước không đủ mạnh, quy mô chiến dịch vẫn không khác gì với thời
Gia Cát Lượng còn sống. Nước Thục bởi nhiều năm chinh chiến, quốc lực suy vong,
cuối cùng bị nước Ngụy tiêu diệt.
9. Chủ nghĩa hoàn mỹ tích thắng lợi nhỏ chẳng
thành đại sự.
Tuy Gia Cát Lượng cao lớn khác người, song
ông chẳng hề biết một chút võ nghệ. Văn nhân cầm quân, lại thường dấn thân ở
tuyến đầu, thực đáng để kính phục. Thời đại Tam quốc nhiều danh tướng, song
cùng dạng với Gia Cát Lượng, tại chiến trường chỉ "động khẩu bất động thủ”, có
lẽ chỉ có Lục Tốn danh tướng Đông Ngô từng đánh bại Lưu Bị trong cuộc đông
chinh ở Tỉ Qui.
Vốn không xuất thân từ binh nghiệp, Gia Cát
Lượng chẳng có kinh nghiệm tác chiến phong phú, đây cũng là nguyên nhân chủ yếu
khiến ông không có năng lực ứng biến linh hoạt ở chiến trường. Bởi vậy, những
hành động quân sự của Gia Cát Lượng nặng về sự sắp đặt cẩn thận từ trước, có thể
thấy rõ ở mấy lần đánh bại những danh tướng nước Ngụy như Tư Mã Ý, Tào Chân và
Trương Cáp, thể hiện tài năng quân sự lỗi lạc của Gia Cát Lượng. Trần Bình lấy
"kết quả luận”, phê bình ông không khéo tháo vát, để đến nỗí chinh chiến mãi
không thành công, thật cũng không công bằng cho lắm!
Chiến lược định ra sáng suốt, song trong vận
dụng chiến thuật, Gia Cát Lượng lại quá đỗi cẩn thận. Ông tư lự chu tất, có nhiều
điểm sáng tạo, hành động thường nặng về chủ nghĩa hoàn mỹ, điều đó đã có lần Ngụy
Diên góp ý với ông, thiếu tinh thần quyết đoán để nắm những thời khắc then chốt,
bởi vậy tuy thường tích thắng lợi nhỏ lại không thể tạo thành đại sự mỹ mãn.
Tương phản với Gia Cát Lượng, Tào Tháo hành
động lại quá liều lĩnh, lấy tùy cơ ứng biến để thực hiện chiến thuật, song lại
thường bị đánh cho đại bại. Có thể nói, sự hăng hái kiên cường của Tào Tháo, những
hành động mạnh mẽ, có thể tạo ra sự phát huy thực lực, đè bẹp được kẻ địch dữ tợn,
cuối cùng tạo thành đại sự.
Thiên tài quân sự ở hai con người đối chọi
này trong lịch sử Trung Quốc. "Binh pháp Tôn Tử” đã có nghiên cứu và kiến giải
độc đáo, song trong thực tế ứng dụng lại có những khác biệt tương đối lớn, vấn
đề này thật vi diệu vô cùng, triết học quân sự có nhận xét khác nhau đáng để
cho chúng ta nghiên cứu. Cuốn sách này cũng sẽ bàn sâu về vấn đề đó.
Gia Cát Lượng rất nghiêm túc, tính tình kín
đáo, chẳng giống như sự khoát đạt biến hoá của Tào Tháo. Song Gia Cát Lượng tâm
tư tư lự, có nhiều tính sáng tạo, thích tự mình nghiên cứu phát minh. Ví như những
lần Bắc phạt thứ ba thứ tư đã vận dụng những xe vận chuyển nhẹ gọi là trâu gỗ,
ngựa máy, trong trận Kiếm Các, lại dùng nỏ liên châu bắn hai mươi mũi tên tự động
cùng lúc giết được danh tướng Trương Cáp, đều xuất phát từ những thiết kế của
ông.
Cũng bởi luôn trực tiếp dấn mình vào mọi việc
như thế, một áp lực lớn đè nặng lên thân thể và tinh thần Gia Cát Lượng dẫn đến
những tổn hao nghiêm trọng cho sức khoẻ. Sử liệu chép rằng, phàm xét tội phạt từ
hai mươi roi trở lên đều do ông trực tiếp phê duyệt. Ông vốn yêu mến tướng sĩ
như thế, xử phạt tuy hơi nghiêm khắc song rất được chúng yêu quý. Lấy cá tính
như thế xử lý mọi việc quân sự thường ngày thiên biến vạn hoá, trách chi tì vị
của ông chịu không nổi. Khi đối trận ở Ngũ Trượng Nguyên, Tư Mã Ý biết rõ Gia
Cát Lượng ăn uống ngày mỗi suy giảm lại nhiều phiền nhiễu, rõ ràng là trường kỳ
tư lự dẫn đến bệnh tì vị nghiêm trọng, bèn phán đoán Gia Cát Lượng sẽ không lâu
tạ thế, bởi vậy lợi dụng đánh cầm giữ lâu dài để làm chứng bệnh kia thêm trầm
trọng, mới hay một đại sự binh pháp cũng không khắc phục nổi những nhược điểm
tâm lý của mình!
10. Giữ mình thanh liêm, cách tân chánh sự ở
đất Thục
Giáo sư Lâm Điền, một chuyên gia Trung Quốc
học của Nhật Bản trong cuốn "Một đời thăng hoa” đã có miêu tả về đời sống của
Gia Cát Lượng, ví như đời sống một loài hoa là hoa anh đào, sự rực rỡ gắn với
tàn tạ, bỗng khiến người đọc không khỏi xúc động. Ông chỉ ra rằng Gia Cát Lượng
sinh phải thời loạn lạc, vất vả lam lũ, nếm trải nhiều cay đắng như mọi người bấy
giờ chỉ bởi ôm ấp một hoài bão lớn, dấn thân vào con đường hành động, tạo dựng
nên cái đẹp trong suốt. Có thể nói bởi một tấm lòng chân thành nhiệt tình như
thế, ông đã trở thành một nhân vật chính trị thiên thu vạn đại vẫn khiến người
ta hâm mộ và thương nhớ.
Trần Thọ cũng cho rằng Gia Cát Lượng có một
đời cống hiến rất lớn, thể hiện ở cách tân phong khí chính trị. Ông vốn thanh
liêm cao khiết lại nghiêm túc có tác dụng lãnh đạo to lớn. Xã hội nước Thục lúc
bấy giờ nhiễu loạn trì trệ, cần những tác động mạnh của điều lệ pháp luật, có
thể di phong dịch tục, ông đã phát huy được vai trò tể tướng điều hành.
Tầng lớp quan liêu thế gia ở Thành Đô lúc ấy,
thích hưởng thụ lối sống kim tiền phù hoa, khiến xã hội băng hoại đến cực điểm
- Gia Cát Lượng quyết tâm ngăn chặn, ông lấy mình làm gương, đặt ra điều luật để
trói buộc. Trong "Giới tử thư”, quan niệm của ông rất rõ ràng khi nhắc nhở con
cái trong nhà:
"Ta làm theo đạo của kẻ quân tử, tu thân
thanh tịnh, cần kiệm dưỡng đức, đạm bạc để nuôi chí, tĩnh lặng để nghĩ xa. Ta học
lấy sự thanh tịnh, tài do học mà có, chẳng học chẳng rộng tài, chẳng có chí thì
chẳng thành công, buông thả hại cho tinh thần, mạo hiểm khó thuần được tính”.
Trong "Giới ngoại sanh thư”, ông lại nói rõ
trí ở nơi cao viễn dứt bỏ những dục vọng tầm thường, nhẫn nại khi co duỗi.
Trong tờ biểu gửi cho Lưu Thiện, Gia Cát Lượng
công bố tài sản của mình:
"Thần sớm theo tiên đế, một đời chỉ biết
theo quan gia, tuyệt không vun vén gì cho bản thân, nay ở Thành Đô bãi dâu có
800 gốc, ruộng bãi có năm mươi khoảnh, con cái quần áo cũng tạm đủ dùng, đời sống
của thần thường ở ngoài cõi xa ăn mặc hoàn toàn do quốc gia cung cấp; bởi vậy
mà cũng chẳng có thu nhập riêng hoặc tích góp tài sản gì. Sở dĩ kiên trì như thế,
chủ yếu là nghĩ đến ngày mà thần không còn nữa, không để trong nhà thì có lắm
tiền, ngoài ấp có lắm trang trại, phụ lại sự trông gửi của bệ hạ”.
Sau ngày Gia Cát Lượng từ trần, Lưu Thiện
cho người đến xem xét phủ thừa tướng, quả đúng như vậy. Trong thư ông viết trả
lời Lý Nghiêm:
"Nay tôi tài sản tư dinh chẳng có nhiều, vợ
con còn chưa đủ áo mặc”.
Qua đó cho thấy gia cảnh thanh đạm của ông.
Là một vị tể tướng chỉ dưới một người, trên cả vạn người, thanh liêm như thế
trách chi chẳng để lại bao nhiêu hoài niệm.
Gia Cát Lượng một đời chí công vô tư vì nước,
tuyệt không có một chút riêng tư, thực đã khiến không ít những đại thần nước Thục
chịu ảnh hưởng. Ví như Tưởng Uyển với con cái cũng rất nghiêm: "Thường nhắc nhở
trong nhà nên ăn chay, mặc áo vải thô, ra ngoài không dùng xe ngựa”. Ấy là chịu
ảnh hưởng của phong cách Gia Cát Lượng. Khương Duy là tổng chỉ huy quân đội, là
người ở ngôi cao thượng tướng, có vị trí đáng kể với các quần thần, nhà cửa
cũng rất giản đơn, thậm chí có chỗ xiêu đổ, trong nhà không có thiếp hầu, sau
sân chẳng hề nghe thấy tiếng đàn hát”. Còn Đặng Chi là nhà ngoại giao xuất sắc
cũng chịu ảnh hưởng phong cách của Gia Cát Lượng, sử sách có ghi ông ấy làm
quan hơn 20 năm thưởng phạt nghiêm minh, gần gũi chu cấp cho binh sĩ có khó
khăn, sinh hoạt thường cần kiệm không lo riêng tư, đến cả vợ con cũng không
thoát cơ hàn, khi ông ta mất gia cảnh quá đỗi thanh bần.
Qua đấy có thể thấy tấm gương thanh liêm của
Gia Cát Lượng rất có ảnh hưởng đối với đương thời.
11. Khai sáng dân tâm, ban bố điều luật, đề
cao uy tín của quyền lực.
Ví như kể về tài hoa cá nhân với năng lực
dùng binh của Gia Cát Lượng, ít nhiều có sự bình giá khác nhau, song về tấm trung
trinh và tài trị quốc của ông thì chưa hề có sự hoài nghi nào. Trần Thọ trong
Tam quốc chí có bình phẩm như sau:
"Gia Cát Lượng làm tướng quốc rất đỗi quan
tâm đến đời sống trăm họ, lấy mình làm gương về luân lý, điều hành chánh sự.
Ông thanh trừ quan lại tham nhũng, giảm bớt các khoản chi quốc gia không cần
thiết, tăng thêm hiệu suất bộ máy hành chính khai sáng dân tâm, ban bố điều luật,
xây dựng được niềm tin của dân chúng toàn quốc với quyền lực của vương triều”.
"Người tận trung với nước hoặc tận trung với
xã hội, tuy là ở phía đối địch với mình cũng đều đáng khen, kẻ phạm pháp lười
nhác dẫu là chiến hữu của mình cũng phải xử phạt, tuyệt đối không thể bao che.
Kẻ phạm lỗi mà biết hối cải tuy mắc trọng tội cũng có thể chiếu cố một chút, kẻ
quanh co che giấu, tuy tội nhẹ cũng nên phạt thêm....
Cuối cùng, khắp trong lãnh thổ đều kính trạng
mà nể sợ, hình phạt tuy nghiêm khắc song dân gian không oán thán, lấy chánh tâm
công bằng mà khuyên thiện trừ ác vậy; thực là người hiền tài đại độ trong điều
hành chánh sự, có thể nói ví như Quản Trọng và Tiêu Hà cũng chẳng thể hơn”.
Có một số sử học gia lấy việc Gia Cát Lượng
ném mình vào công việc, lao lực quá độ, dẫn đến tổn hại sức khoẻ, phê bình Gia
Cát Lượng chẳng khéo dùng người lại không tích cực bồi dưỡng nhân tài kế cận, kỳ
thực đấy là những lời rất không công bằng vậy.
Trái lại, Gia Cát Lượng với việc đề bạt
nhân tài rất đỗi quan trọng trong "Cử thố thiên” có viết: "Xét về đạo trị quốc,
cần chú trọng ở việc đề cử hiền tài”. Lại nói: "Đề cử hiền tài có thể đem lại sự
yên định”. Bởi đề cử hiền tài gắn liền với trị quốc, Gia Cát Lượng đã cho xây một
cái đài cao ở phía Nam Thành Đô, để tiếp đón kẻ sĩ bốn phương, thường xuyên lại
thiết lập một cơ cấu gọi là "Tham thự” để thu thập đóng góp ý kiến xây dựng của
dân chúng.
Trong "Thị thính thiên” ông lại nêu rõ: "Đã
là người cầm quyền phải biết lắng nghe, thu nạp tiếng nói phải của dân chúng,
cùng những mưu kế của kẻ trí giả, mắt thấy đủ vạn vật, tai nghe khắp xa gần”.
Trong "Xuất Sư Biểu” ông đã tiến cử với Lưu Thiện những người như Tưởng Uyển,
Phí Vỹ, Đổng Doãn, Hứa Sưng đó đều là những nhân tài ưu tú. Ông cũng rất chú ý
đến Khương Duy, Đặng Chi đều là những người chọn từ thực tế mà ra.
Trong lời chú giải Tam quốc chí có dẫn lời
Quách Ban trong "Thế ngữ” bàn về nhân tài trong thiên hạ, họ muốn đến nước Thục
hơn là Ngụy, Ngô, vậy nên quan lại đất Thục phần đông là những người tài giỏi
trong thiên hạ. Ví như Ngụy tướng Chung Hội sau khi đánh chiếm được nước Thục đối
với tình cảnh nước Thục đã mất, dân tâm sĩ khí vẫn kiên quyết chống Ngụy cũng
phải thực sự cảm động cho rằng Gia Cát Lượng rất giỏi giáo hoá dân chúng. Triệu
Dực trong cuốn "Sử trát ký” có một đoạn luận thuật như sau: "Tào Tháo dùng người
lấy quyền lực mà chế ngự, Lưu Bị thì lấy tính tình làm trọng còn Tôn Quyền thì
lấy ý khí làm đầu. Lấy quyền thuật chế ngự thì trọng ở cái cốt yếu, lấy tính
tình đê mà tụ họp thì trọng ở chữ chân thành, Gia Cát Lượng thì dùng người,
trên tình thần vận dụng sở trường của cả ba nhà đó”.
Đường Thái Tông cũng rất tôn sùng Gia Cát Lượng,
như khi ông nói chuyện với Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, công nhiên tán thưởng
Gia Cát Lượng làm "đệ nhất thừa tướng” rất đỗi tán dương tinh thần "chí công vô
tư” của ông ta. Ông cũng chỉ ra rằng, Gia Cát Lượng đã từng rất nghiêm khắc trừng
phạt những quyền thần nước Thục như Lý Nghiêm và Liêu Lập song hai người này
nghe tin Gia Cát Lượng mất đều khóc lóc thống thiết, Lý Nghiêm vì thế mà âu sầu
đến chết. Đường Thái Tông cảm khái mà nói: "Nếu chẳng phải là bậc chí công thì
sao có thể như vậy được”. Ông đã có những lời đánh giá cao nhất dành cho Gia
Cát Lượng.
Gia Cát Lượng quả là con người đúng với những
lời tán thưởng của Đường Thái Tông như "đại công vô tư”, "cao vời và sáng rực”,
điều này qua thư tín mà Gia Cát Lượng trả lời Lý Nghiêm cũng thấy rõ. Sau khi
bình định được phương Nam, danh tiếng của Gia Cát Lượng ở nước Thục đạt đến đỉnh
tối cao. Lý Nghiêm bèn viết thư khuyến khích ông: "Nên nhận lễ phong cửu Tích đổi
tước hiệu và xưng vương”. Gia Cát Lượng chẳng những không nghe theo mà trả lời
rất thẳng thắn rằng:
"Tôi với túc hạ tương tri đã lâu há chẳng
hiểu nhau ư... Tôi vốn là kẻ sĩ quê mùa ở phương Đông tiên đế lầm dùng được đặt
ở vị trí cao sang hưởng lộc trọng, nay trừ giặc chưa mấy hiệu quả, biết rằng
chưa đền đáp được bao nhiêu, mà được tôn sùng thái quá, cho ngồi ở những vị trí
quan trọng hơn thực hổ thẹn vậy!”.
Nếu so với Tào Tháo tự phong lễ cửu Tích
xưng làm Ngụy Vương, Gia Cát Lượng quả thật khả ái và đáng kính hơn nhiều lắm!
12. Bát trận đồ - mê cung thiên cổ
Trần Thọ trong Tam quốc chí có viết: "Gia
Cát Lượng thường hay tư lự hao tổn bởi nỏ liên châu, trâu gỗ, ngựa máy đều là
những ý nghĩ kỳ lạ; suy diễn binh pháp làm ra bát trận đồ thật là huyền bí vậy”.
Có thể là những năm tuổi trẻ còn cầy bừa gặt
hái, Gia Cát Lượng đã thích tự tay mình làm lụng, có năng lực sáng tạo phát
minh, dẫn đến những phát minh mới sau này như việc cải tiến nỏ liên châu lợi hại,
và chế ra trâu gỗ, ngựa máy để vận chuyển lương thực.
Sách "Ngụy thị Xuân Thu” có ghi: "Gia Cát
Lượng dùng nỏ liên châu để tập kích giết được danh tướng Trương Cáp, gọi nỏ ấy
là "nguyên nhung”, lấy sắt làm tên, mỗi mũi tên dài 8 tấc, mỗi nỏ bắn ra 10
tên, thực là một vũ khí sát thương mãnh liệt”.
Trâu gỗ, ngựa máy là công cụ vận chuyển ứng
dụng phát minh mới bởi nước Thục không đủ ngựa thồ, đường núi lại rất hiểm trở,
ngựa không dễ qua lại, bởi vậy Gia Cát Lượng dùng nhân lực vận chuyển để khắc
phục khó khăn này. Trâu gỗ là loại xe bốn bánh, còn ngựa máy là loại xe hai
bánh. Cứ như sử kiện ghi chép, ngựa máy là loại trâu gỗ cải tiến, dùng trong cuộc
Bắc phạt thứ 4, hiệu quả khá tốt đẹp. Trâu gỗ, ngựa máy đều là những loại xe
thích hợp với việc vận chuyển. Cuốn truyện "Vũ Hầu" của Trương Chú viết:
Trong Thục có xe nhỏ một người đẩy tải được 8 thạch phía trước như đầu trâu, lại
có xe lớn dùng bốn người đẩy tải được hàng chục thạch gọi là ngựa máy.
Cũng có không ít người cho rằng xe một bánh
đã có ỏ Thục trước thời Gia Cát Lượng, vậy nên trâu gỗ chỉ là công cụ cải tiến
còn ngựa máy thì cải tiến từ trâu gỗ.
Trong rất nhiều phát minh, "Bát trận đồ”
khiến người đời sau còn cảm thấy rất chi thần kỳ. Cũng bởi sự tô vẽ của La Quán
Trung, "Bát trận đồ” cũng như việc mượn gió đông, đều thuộc về pháp thuật siêu
năng kỳ môn độn giáp.
Đỗ Phủ, thánh thơ đời Đường đứng trước di
chỉ bát trận đồ, có những câu thơ dâng tràn cảm xúc:
Công vạch thế chân vạc
Danh bầy bát trận đồ
Sống trôi đá thì đứng
Hận không bình được Ngô.
Năm ấy, đánh nhau lớn ở Tỉ Qui, Lục Tốn đuổi
theo Lưu Bị vào trong đất Thục, bị khốn bởi "trận Thạch Đầu” do Gia Cát Lượng dự
liệu trước, lấy các khối đá xếp lẫn lộn thành từng đông dựa theo sự sắp xếp kỳ
môn độn giáp, y theo 8 cửa Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tư, Kinh, Khai, vào mỗi
giờ mỗi ngày biến hoá khôn lường, khá so với mươi vạn tinh binh. Đại quân Lục Tốn
bị khốn ở trong trận, loanh quanh mãi sau nhờ có nhạc phụ của Gia Cát Lượng là
Hoàng Thừa Ngạn giúp mới qua được. Đây đương nhiên là một tiểu thuyết gia không
hiểu quân sự, nẩy sinh từ trí tưởng tượng ra những hư cấu nghệ thuật.
Song, trong sự tích lịch sử "Bát trận đồ” tồn
tại như một thực tế, vậy tác dụng của trận Thạch Đầu là như thế nào? "Bát trận
đồ” là một di tích lịch sử ở huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên, nơi giao lưu sông
Cù đường và sông Trường Giang, trước mắt thấy không còn nguyên trạng song "Thái
bình hoàn vũ ký” có ghi rằng:
Bát trận đồ chu vi 480 trượng do các khối
đá bị vận chuyển tụ tập mà thành, cao 5 thước, như được xếp đặt xúm xít bốn
phía giống như một bàn cờ, mùa hạ thì nước dâng cao phủ lấp cả, mùa đông lại lộ
ra.
Kỳ thực "Bát trận đồ’' không chỉ thiết lập
xếp đặt ở đấy, có thể thấy ở Thiểm Tây, Hán Trung, dọc đường Gia Cát Lượng Bắc
phạt đều có những di tích ấy, tác dụng của nó ở chỗ nào? Có phải như trong tiểu
thuyết đã nói là lũy thành phòng ngự ư?
Theo như "Gia Cát Lượng tập” ghi chép, bát
trận đồ ứng tới 89 trận là Đông Dương, Trung Hoàn, Long Đằng, Điểu Phi, Hổ Dực,
Triết Hàn, Liên Hoành, Ác Cơ, cứ theo tên gọi mà thấy bố cục trận doanh, mỗi
bát trận đồ là một doanh trại nhỏ mà không phải là đầu não quân đoàn tác chiến,
bởi vậy nó không giông với các trận như Trường Xà trận, Ngư Lân trận, Điểu Hành
trận có tác dụng tác chiến, nó chỉ là nơi trận địa đóng quân mà thôi, là một hành
doanh tiện cho việc tổ chức chỉ huy, mà không nặng ở tính công kích và phòng thủ.
Một học giả đời Hán là Trịnh Huyền có viết:
có bát trận thập trận của Tôn Vũ, Tôn Tẫn, Đậu Hiến khi chinh phạt Hung Nô cũng
có lợi dụng bát trận.
Có thể thấy bát trận đã được Gia Cát Lượng
sử dụng chỉ là sự bổ sung thêm, làm thành phương pháp cơ bản trong hành quân và
đóng trại.
Lịch sử có khen ngợi việc đóng quân của Gia
Cát Lượng, có doanh lũy, bếp giếng, nhà xí, rào tre, chòi canh gắn liền với
nhau, rất thuận lợi. Ở gò Ngũ Trượng, Tư Mã Ý đã nhìn thấy doanh lũy và công sự
của quân Thục còn lưu lại, phải thốt lên rằng: "Thật thiên hạ kỳ tài vậy".
Có thể đây là quân danh "bát trận đồ” mà Gia Cát Lượng cải biến ra.
Xem xét di tích Thạch Đầu của bát trận đồ,
thấy đó là sa bàn mà Gia Cát Lượng luyện binh mà thôi, chẳng phải là Thạch Đầu
trận có siêu năng kỳ môn độn giáp. Để có thể hiểu được tường tận "Bát trận đồ”
chúng tôi sẽ xin trình bày trong phần sau, để bạn đọc có thể hiểu sự thực đầy đủ
hơn.
13. Đi tìm sự thực của lịch sử
Người Trung Quốc là những người thích tô điểm,
phần nhiều đam mê với tiểu thuyết chương hồi dạng võ đài tình tứ mà rất ít người
thích tìm sự thực lịch sử.
Tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc tuy
có không ít giá trị nghệ thuật song đa số lại là những sáng tác của văn nhân thất
ý, đề tài câu chuyện thường lấy nội dung giảng tích cũ của các thầy đồ giảng
sách.
Thực không may, những sách ấy chỉ là những
ghi chép cửa miệng, lời lẽ dung dị, câu cú khoa trương để cảm động người ta, chỉ
muốn bày tỏ những tình cảm chủ quan, không để ý đến thời gian, không gian, nhân
tích và tính chất hợp lý.
Đã có không ít văn nhân cổ đại một đời chưa
đến chiến trường, lại nữa thuở đó chưa có các máy ghi hình ghi lại thực cảnh của
chiến tranh. Do hạn chế không nắm chắc được thực tế chiến trường, những tác giả
ấy vung bút vô vẽ, cũng miêu tả chiến tranh nên cho thấy nhiều nét ấu trĩ. Bởi
sự tương tượng của họ, sự kiện lịch sử trở thành ba phần là thực, bốn phần khoa
trương, ba phần suy diễn thêm.
Những văn nhân ấy luôn theo quan điểm chính
nghĩa biến nhân vật lịch sử thành ra người tốt và xấu kiểu võ đài. Song họ thiếu
độc lập suy nghĩ thấu đáo nên những hình tượng nghệ thuật đưa ra không ít chỗ bất
cập. Nhiều người đã quen hình dung theo những hình tượng nghệ thuật cũ, có rất
ít người đi tìm sự thực để đính chính lại. Trong khi đó, những nhà viết lịch sử
Âu, Mỹ, Nhật Bản đang cố gắng theo các góc độ tìm hiểu, chỉnh lý lại lịch sử của
họ, bới tìm những tư liệu mới, xây dựng quan niệm mới, nhằm mục đích giảm cổ
tri kim.
Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, có sắc
thái truyền kỳ lịch sử dân gian, nó xây dựng nhân vật lịch sử theo chủ quan tô
vẽ làm mất đi tính khách quan, làm méo mó sự thực lịch sử, bôi đen tô hồng hoặc
thần hoá nhân vật.
Có một câu chuyện vui, một ông kia mê Tam quốc
diễn nghĩa, ngày nọ uống rượu đã có phần lơ mơ cố cãi rằng trận Xích Bích, Tào
quân có 100 vạn, bạn ông bảo chỉ có 60 vạn, hai bên cãi vã đang hăng, vì mê tam
quốc trong lúc hứng bèn chạy ngay về nhà lấy cuốn Tam quốc diễn nghĩa yêu quý
kia để chứng minh. Đang lúc rượu say lại thêm vội vàng không chú ý đạp chết thẳng
cẳng đứa bé mới sinh cạnh giá sách, vợ ông ta vội la lớn rằng: "Thế là ông giết
mất bé gái rồi”. Ông ta nghĩ đến đoạn Tam quốc kia gắt lên rằng: "Bốn mươi vạn
đại quân của người ta còn bị nó xoá bỏ, một đứa bé gái thì đáng kể gì”.
Tuy chỉ là một câu chuyện vui bịa đặt, song
cũng được miêu tả khá chân thực; dưới chính sách ngu dân trường kỳ, người Trung
Quốc chẳng có cách gì biện giải đâu là thật, đâu là giả.
"Tam quổc diễn nghĩa”, "Thủy hử truyện”,
"Kim bình mai”, "Tây du ký” được gọi là tứ đại kỳ thư của Trung Quôc song xét về
giá trị nghệ thuật "Tam quốc diễn nghĩa” cũng có ba bản khá khác nhau. Thủy hử,
Kim bình, Tây du, tuy cũng đề cập được một số nhân vật chân thực, song ở góc độ
chủ quan cơ hồ đều từ sáng tạo mà ra khiến Tam Tạng Pháp Sư với Huyền Trang của
thế giới thực hoàn toàn bất tương đồng, bởi thế không nói được nhân tính chân
thực của họ Tam quốc diễn nghĩa có nhiều chỗ tương phản, tác giả cơ hồ đã vũ
đài hoá nhân vật, giá trị nghệ thuật thấp, song đối với người Trung Quốc, nó lại
càng có sức hấp dẫn hơn bởi phù hợp với tâm lý của họ.
Lịch sử Trung Quốc tuy có phong phú song
tương đối đơn điệu cơ hồ chỉ có chính sử "Quan phương thuyết Pháp”, tiểu thuyết
của văn nhân thất ý, thiếu đi những giác độ đi tìm sự thực lịch sử. Thời Xuân
Thu chiến quốc bách gia chinh binh với sự gianh đua của các môn phái, từng biểu
hiện những góc nhìn khác nhau về thời đại, lịch sử sau đó được ghi chép cơ hồ
chỉ có "Hắc Bạch” hai bên rõ ràng.
Đành rằng sự thực của lịch sử cũng không phải
là chân tướng dễ thấy, song nó có phần đúng vối nhân vật và hợp lý đôi chút. Có
nhiều góc độ khác nhau, phương pháp khác nhau làm lộ ra sự thực lịch sử, để
chúng ta có cơ hội tiếp cận với chân tướng của lịch sử, cũng nhờ đó chúng ta có
thể hiểu quá khứ của Trung Quốc, để quan sát được rõ ràng hiện trạng Trung Quốc
hiện tại, có thể từ những phát hiện ở đấy, giúp chúng ta tiến đến tương lai một
cách hợp lý.
Với quan điểm như vậy, bút giả không nghĩ
mình tài sơ học thiển, dám bạo gan đổi mới giác độ để xem xét các nhân vật lịch
sử quen biết, hy vọng rằng việc ném gạch này có thể dẫn lại được ngọc quý ngày
mỗi nhiều, để các sử học gia dân gian mở rộng tầm nhìn, khiến sự thực lịch sử của
nước ta được chỉnh lý tốt hơn, làm sự thực lịch sử năm nghìn năm xa vời có thể
sống lại, cũng để cuộc đời của bút giả còn lưu một nét khắc bé nhỏ. Đây cũng là
tấm lòng của bút giả, chẳng ngại tận tâm tư lự lầm lũi trải qua những đêm dài,
nỗ lực tìm tòi bởi muốn sáng tác một chút gì đó để lưu cùng bút mực trăm năm.
Đánh máy: hoi_ls
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN, 2003 (Tái
bản lần II)
Nguồn: Vnthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 11 năm 2013