Mao Tôn Cương
Người dịch: Phan Kế Bính
Hiệu đính: Bùi Kỷ
ĐỂ HIỂU TAM QUỐC CHÍ DIỄN NGHĨA ...
I
Tam quốc diễn nghĩa nguyên tên là Tam Quốc chí thông tục diễn nghĩa, là một bộ tiểu thuyết cổ điển dài, được nhân dân ưa thích nhất, và lưu truyền rộng rãi như truyện Thuỷ Hử, lại là bộ tiểu thuyết lịch sử thông tục độc đáo của Trung Quốc. Tác giả là La Quán Trung.
La Quán Trung tên là Bản, tên chữ là Quán Trung, lại có biệt hiệu là: "Hồ Hải tản nhân”, có thể là người Thái Nguyên (còn có những thuyết nói ông là người Lư Lăng, Tiền Đương, Đông Nguyên v.v...). Ông sinh vào cuối đời Nguyên, mất vào đầu đời Minh, ước chừng vào khoảng năm 1330 đến năm 1400 giữa thời thống trị của Nguyên Thuận Đế (Thoát Hoan Thiếp Mộc Nhĩ) và Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương).
Ông rất có tài văn chương, rất giỏi về từ khúc câu đó, lại việt cả các loại kích, nhưng tổi tiếng nhất là về tiểu thuyết.
Về tiểu thuyết thì ngoài Tam Quốc ra, tương truyền có tất cả hơn mười bộ, như nay ta biết còn có: Tuỳ đường chí, Tần Đường ngũ đại sử diễn nghĩa, Tam Toại bình yêu truyện v.v... (Hiện nay những bản còn lưu truyền đã bị người đời sau sửa đổi, viết lại, không còn là nguyên bản của ông nữa); lại có truyền thuyết rằng: La Quán Trung cũng là một người tham gia soạn và chỉnh biện truyện Thuỷ Hử. Bạn của ông nói: tính tình ông "ít hoà hợp với mọi người” vì "thời thế nhiễu nhương nhiều biến cố” nên ông đi lang bạt các nơi, về sau "không biết đời ông kết cục ra sao”.
Những truyền thuyết về sau này còn nhắc tới việc ông tham gia hoạt động trong cuộc khởi nghĩa của nông dân, từng có quan hệ với Trương Sĩ Thành, là một trong những người "có chí mưu đồ sự nghiệp bá vương”. Tiếc rằng tình hình tường tận thế nào nay không thể biết rõ được.
Tam Quốc diễn nghĩa tuy về phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, từ lâu, truyện Tam Quốc đã lưu truyền rộng rãi trong dân gian, nói cách khác, nhân dân quần chúng đã sớm sáng tạo ra những nhân vật điển hình và nhân vật lịch sử Tam Quốc. Đời nhà Đường có một nhà thơ, trong khi viết thơ tả về chuyện đùa giỡn của trẻ em đã ghi: "Hoặc giễu Trương Phi đen, hoặc cười Đặng Ngải nói lắp”, trong đó chẳng phải đã ẩn hiện hình tượng của một Trương Phi lỗ mãng đó sao? Có thể chứng minh rằng ở thời đó một số nhân vật và sự tích trong truyện Tam Quốc đã rất phổ biến tới mức độ mọi nhà đều biết, đàn bà trẻ con đều hay. Thời Bắc Tống có một nhà văn cũng ghi lại rằng ở thông quê, lúc trẻ con quấy, nghịch, người nhà thường cho tiền chúng tụ họp nhau lại ngồi nghe kể chuyện Tam Quốc. Đồng thời vì đời Tống nền kinh tế thương phẩm thành thị từ trước chưa bao giờ phát đạt như vậy, yêu cầu về sinh hoạt văn hoá của các tầng lớp của nhân dân thành thị ngày càng tăng lên, nên truyện Tam Quốc ngày càng thịnh hành. Cứ xem trong các môn, loại " chuyện kể” ở những đô thị lớn tới bấy giờ đã có riêng mục "kể chuyện Tam quốc” thì có thể biết rằng Tam Quốc cũng là một mục được quần chúng đô thị ưa thích nhất. Thời kỳ Nam Tống, lời ghi của nhà thơ, "Tào công đại chiến” (trận Xích Bích) là điển tích trang trí của đèn kéo quân trong dịp tết Nguyên Tiêu (tết rằm tháng giêng). Đến triều Nguyên đã có bản in "toàn tướng Tam Quốc chí bình thoại”, nửa tranh, nửa chữ, đây là dấu vết của "chuyện kể” bằng miệng dần dần được ghi chép lại bằng chữ, bản viết được hình thành cũng chứng tỏ rằng chuyện Tam Quốc đã rất được lưu hành và phát triển. Ngoài ra, đời Nguyên là thời kỳ kịch hát rất thịnh, cứ xem những tiết mục không được đầy đủ của người đời Nguyên còn giữ lại đến nay, chuyện Tam Quốc cũng như Thủy Hử đều được các nhà viết kịch lịch sử thường lấy làm đề tài.
Trong khi dân gian truyền miệng, các nghệ nhan kể chuyện, các nhà văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch không ngừng sáng tạo, làm cho những tình tiết câu chuyện và hình tượng nhân vật phong phú thêm.
Cuối đời Nguyên đầu đời MInh nhà tiểu thuyết La Quán Trung đã viết bộ Tam Quốc chí thông tục diễn nghĩa chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của quần chúng nhân dân. Dĩ nhiên trong khi viết, ông có tham khảo những bản ghi chép của các nhà viết sử và các nhà văn khác. nhưng quan trọng hơn, là phần thể nghiệm cuộc sống phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông. Một trong những bản Tam Quốc diễn nghĩa ra đời sớm nhất hiện nay còn giữ được bản in năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Trị đời Minh (1494), năm Nhâm ngọ Gia Tĩnh (1522) gồm 24 cuốn 240 tiết.
Từ đó về sau, đến đời Minh nhiều bản Tam Quốc (nội dung đều không có gì khác nhau lắm) đã lưu hành gần 300 năm. Đầu đời Thanh, hai cha con Mao Luận, Mao Tôn Cương (người Trần Châu, tình Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện Tam Quốc. Công việc tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18 (1679) hoặc sớm hơn một chút. Họ chỉ gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết nhỏ, và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi, lại đặt cho bộ Tam Quốc cái tên là " cuống sách đệ nhất tài tử”. Từ đó bản của Mao tôn Cương thay bản của La Quán Trung tiếp tục được lưu truyền rộng rãi.
Truyện Tam Quốc của La Quán Trung so với bản truyện kể của đời Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau:
1. Tước bớt một số phần mê tín, nhân quả báo ứng và những tình tiết "quá ư hoang đường”.
2. Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú lên rất nhiều, tô vẽ tính cách và hình tượng nhận vật cho sâu sắc, đậm nét hơn.
3. Nâng cao ngôn ngữ đến mức nghệ thuật, tăng cường thêm sức hấp dẫn của nghệ thuật.
4. Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và xu hướng tính văn học là yêu Lưu Bị, ghét Tào Tháo, hướng về Thục chống lại Ngụy trong toàn cuốn sách.
Nói tóm lại, La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện Tam Quốc mà quần chúng nhân dân và những nghệ nhân kể chuyên đã sáng tác ra, nâng cao lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng. Còn bản của Mao Tôn Cương chẳng qua có thêm bớt ít câu, ít chữ, sửa chữa một số chi tiết nhỏ trong truyện, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng hoặc những chỗ chưa thỏa đáng trong bản cũ. Mao Ton Cương đã tước bỏ rất nhiều những chương tấu, những bài bình luận, tán rộng trong phần chú thích, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần v.v... làm cho truyện càng hoàn chỉnh, văn vẻ, trong sáng, gọt giũa, trên một mức độ nào đó tcũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Vì vậy công việc tu đính đó có thể nói là có ích đối với bản cũ. Do đó, bản của Mao Tôn Cương có thể thay thế được bản cũ thịnh hành trong 300 năm và cũng vì thế ngày nay chỉnh lí ít lại trong bộ Tam Quốc, chúng tôi đã dựa vào bản của Mao Tôn Cương.
II
Trong lịch sử, việc chính thức dựng nước của ba nước (Tam Quốc) Ngụy, Thục, Ngô bắt đầu từ năm 220 công lịch. Tào Phi phế Hiến đế (Lưu Hiệp) nhà Đông Hán lên ngôi vua đổi tên nước là Ngụy. Năm 221 Lưu Bị lên ngôi vua đổi tên nước là Thục Hán. Năm 222 Tôn Quyền cũng đổi niên hiệu là Hoàng Vũ, bắt đấu chống Ngụy, đến năm 229 xứng đế ở Giang Đông( Ngô đại đế)\, lấy tên nước là Ngô.
Năm 263 công lịch, Ngụy diệt Thục Hán trước. Năm 265 Tư Mã Viêm phế Ngụy Tràn Lưu vương (Tào Hoán), tự xưng là nhà Tấn. Năm 280 Tấn lại diệt Ngô. Đến đó Tam Quốc đều bị Tấn tiêu diệt, trở lại thống nhất. Cho nên toàn bộ lịch trình của tam Quốc phải là lịch trình 60 năm, từ năm 220 đến 280. Chẳng qua từ năm 212 Tôn Quyền sang đóng đô ở Kiến Nghiệp, năm sau Tào Tháo tự xưng Ngụy Công. Lai đến năm sau Lưu Bị vào Thành Đô kẻ từ khi lĩnh chức Mục ở Ích Châu, cái thế chân vạc của Tam Quốc thực tế đã hình thành.
Dĩ nhiên muốn tìm rõ căn nguyên cội rễ của Tam Quốc, thì phải tìm ngược trở lên, phải nói từ cuộc khởi nghĩa lớn của quân Khăn Vàng cuối đời Hán, vì ba cái tập đoàn quân phiệt Ngụy, Thục, Nô đã hoài thai và trưởng thành trong suốt quá trình giai cấp thống trị phong kiến trấn áp quân khởi nghĩa. Quan Khăn Vàng khởi sự năm 184 công lịch (năm đầu niên hiệu Trung Bình đời Đông Hán Linh đế), vì vậy người ta quan niệm thời gian lịch sử Tam Quốc kể từ năm 184 đến gần 280 gần suốt cả thời gian một thế kỷ.
Bộ truyện hoàn toàn đúng như vậy viết thẳng một mạch từ khởi nghĩa Khăn Vàng đến Tư Mã Viêm thống nhất toàn Quốc. Cứ nhìn vào lịch sử đó là thời đại rất hỗn loạn, nhân dân chịu nhiêu tai nạn nặng nề.
Cuối đời Đông Hán, đến thời kỳ Hoàn Đế Lưu Chí, Linh đế Lưu Hoằng, tình hình đen tối thối nát đến cực điểm. Nhà vua cầm đầu công khai bán quan tước, tước tam công giá 10 triệu tiền. Ngoại tộc, hoạn quan tham tàn ngang ngược, bạc ác trăm bề, đánh lộn lẫn nhau, thành ra những "quan kẻ cướp”, ví dụ: người ngoại tộc Lương Kí trong nhà có tới 3 tỉ tiền. Hoạn quan Hầu Lãm cướp của người khác 100 khoảnh ruộng, hơn 280 ngôi nhà. Họ hàng thân thích của chúng rải rác khắp châu quận, chuyên môn vơ vét hút máu mủ của nhân dân. Đại đại chủ quan liêu thời ấy càng sẵn có thế lực hùng hậu, bọn tay chân dồ đệ kết thành những tập đoàn ra sức thôn tính đất đai, bóc lột nông dân thảm khốc, thường biến thành những bọn quân phiệt võ trang trực tiếp chém giết nhân dân.
Vì chính trị thối nát như vậy, để điều không sửa chữa, xảy ra lụt to, hạn hán lớn hết năm này qua năm khác, thường thường có đến mấy chụ vàn nhà đói khát lầm thân, thậm chí "có nhà chết đến 4,5 người, có nhà chết hết”. Thời kì chính trị thối nát ấy cũng là thời kì mâu thuẫn giai cấp sâu sắc nhất của xã hội phong kiên Đông Hán. Kết cục nông dân do Trương Giác lãnh đạo đã nổi lên chống cự với một quy mô rất lớn, các nơi hưởng ứng rầm rầm, tổng số quan khởi nghĩa lên rất nhanh tới mấy chục vạn người, thanh thế lừng lẫy, xưa nay chưa từng có. vì điều kiện lịch sử hạn chế, vì những cuộc đàn áp đẫm máu của giai cấp đại địa chủ và tập đoàn thống trị, nên quân khởi nghĩa Khăn Vàng anh dũng và những nghĩa quân nổi dậy sau đó đều liên tiếp bị thất bại. Nhan dân bị chém giết gần 20 vạn, nhưng chính quyền của nước Đông Hán cũng bị lung lay suy yếu nhiều, cuối cùng đi đến sụp đổ. Giai đoạn đầu là tình thế trung ương tập quyền bị tan vỡ, thế lực đại phương được hình thành, cũng chính là bắt đầu tình thế bọn quân phiệt đánh lẫn nhau, mỗi kẻ xưng hùng xưng bá chiếm cứ một phương.
Trước tiên là quân phiệt Lương Châu Đổng Trác, lợi dụng mâu thuẫn của các bộ tộc phía Tây và mâu thuẫn nội bộ của giai cấp thống trị, tổ chức ra quân hỗn hợp: Khương, Hồ, Hán, do những tên trùm thổ hảo người Khương, Hồ và những tên địa chủ người Hán cầm đầu, cực kì tàn nhẫn, quen thói phá hoại, chuyên nghề cướp bóc chém giết, đã hại dân Tây Khương và nghĩa quân Khăn Vàng. Đến năm 189 công lịch, cuộc đấu tranh giữa người ngoại tộc Hà Tiến và hoạn quan Kiển Thạc tạo cơ hội cho Đổng Trác vào Lạc Dương bèn phế Thiết Đế Lưu Biện, lập Hiến đế Lưu Hiệp, cướp lấy quyền lớn, mưu đồ khống chế các thế lực khác, và tiếp tục các hành vi cướp bóc chém giết của hắn. Vì vậy đã gây nên lòng căm thù tột độ trong nhân dân. bon quan liêu địa chủ quân phiệt vì lợi ích của bản thân cũng nhao nhao nổi dậy chống lại hắn. Rồi đến năm 190 công lịch mười mấy đạo quân địa phương lập thành " quân Quan Đông” do Viên Thiệu cầm đầu tiến đánh Đổng Trác. Từ đó chính thức bắt đầu cuộc giao tranh giữa bọn quân phiệt.
Từ năm 190 đến 196 cuộc đại hỗn loạn do Đổng Trác và bon dư đảng Tay sai: Lý Thôi, Quách Dĩ, v.v... gây ra mới kết thúc. Vì những việc cướp bóc, vơ vét, chém giết phá hoại cực kì hung ác của chúng là cho vùng đất đai rộng lớn giữa hai đô thành Lạc Dương và Tràng An hoàn toàn thành nơi vắng vẻ tiêu điều, gạch ngói tan tành, "trong thành không có dấu chân người”, ngay các quan từ thượng thư trở xuống đều "hoặc bị chết đói trong bốn bức tường”. Đổng Trác thì tích trữ được đủ lượng cho quan sĩ ăn trong 30 năm, mấy chục vạn cân vàng bạc và vô số vật quý giá, biến xương máu của nhân dân thành cái vốn cho hắn khiên tiến có thể tấn công, khi lùi có thể giữ được. Hắn lại phá hoại chế độ tiền cũ, huỷ khí cụ bằng đồng đúc tiền nhỏ cho hàng hoá lưu thông bành trướng; giá mười đấu gạo lên tới mấy chục vạn tiền. Rất dễ hiểu nhân dân khổ cực biết chừng nào. Đồng thời những di sản văn hoá quý báu đã được sáng tạo và tích luỹ lâu đời cũng bị phá huỷ hết sạch.
Trong quá trình quân Quan Đông dánh dẹp Đổng Trác, rất nhiều tập đoàn đại chủ phong kiến nhân cơ hội này, tăng cường thế lực của mình, mỗi kẻ hùng cứ một phương, lớn mạnh nhất có Viên Thiệu, Viên Thuật và Tào Tháo. Viện Thiệu là nhân vật đại biểu cho đại địa chủ đại quan liêu thời đó " bốn đời làm đến chức tam công, đồ đệ tay chân khắp thiên hạ”. Viện Thiệu chiếm cứ Kí Châu, lại thôn tính ba châu Thanh, Tinh, U, ...Viên Thiệu thì phát triển từ nam Dương đến vùng Hoài Nam. Sự tàn bạo xa xỉ của chúng và những chiến dịch hết năm này qua năm khác, cũng gây cho quần chúng bao nhiêu nỗi thống khổ; quân sĩ thậm chí phải ăn ốc và quả dâu mà sống. Năm 200, Viện Thiệu quyết chiến ở Quan Độ với Tào Tháo, tuy thế lực Tào Tháo còn yếu nhưng Viên Thiệu đã bị đánh bại. Trong khoảng 10 năm từ 197 đến 207, có thể nói lực lượng chủ yếu của Tào Tháo dùng vào việc tiêu diệt thế lực anh em cha con họ viên, cuối cùng thống nhất được phương Bác, chấm dựt được thế lực chiếm cứ thối nát của bọn quan liêu địa chủ thời đó, chuyển vào một tình thế mới, tức là cái thế chân vạc, xâu xé lẫn nhau giữa ba cái tập đoàn quân phiệt Tào, Lưu, tôn, địa vị xã hội còn thấp mới nổi lên.
Năm 207 Tào Tháo đánh tan Ô Hoàn ở phương bắc, tiêu diệt thế lực còn rớt lại của Viên Thiệu. Đồng thời Lưu bị gặp Gia Cát Lượng ở Long Trung. Năm sau Tào Tháo ỷ vào thực lực dần dà lớn mạnh của mình, cầm đầu hơn 10 vạn quân nam tiến đánh Lưu Biểu ở Kinh Châu, nuốt chửng binh lực của Kinh châu, định vượt qua sông Trường Giáng đánh Tôn Quyền, thực hiện cái chí lớn thốngnhất nam bắc. Kết quả, lực lượng của Tôn Quyền, Lưu Bị liên hiệp lại, đốt hết chiến thuyền, quân của Tào Tháo thua to. Đó là trận Xích Bích nổi tiếng trong lịch sử.
Trận này phá vỡ tan tành cái kế hoạc thống nhất toàn quốc của Tào Tháo, ổn định địa vị của Tôn quyền ở Giang Nam, đồng thời cũng lào cho Lưu Bị có khả năng từ Kinh Châu tiến vào Ích Châu, từ chỗ lâu nay vẫn đi nương nhờ người khác, đến chỗ có một thế độc lập rất lớn. Trận Xích bích thực là cái then chốt cho sự hình thành của cái thế "chia ba” chân vạc.
Sau trận Xích Bích, Tào Tháo lui về Trung Nguyên mở đồn điền, luyện quân lính, chuẩn bị các cuộc chiến tranh sau. Từ năm 211, đầu tiên chuẩn bị tấn công Trương Lỗ ở Hán Trung, đến năm 214, 215 lần lượt đánh bại Mã Siêu, Hàn Toại, hàng phục Trương Lỗ, lấy được Hán Trung. Nhưng đến năm 219 Hán Trung rút cuộc lại về tay Lưu Bị. Đánh nhau trong 8, 9 năm chỉ lấy được có vùng Quan Lũng. Năm 220 Tào Tháo ốm chết, Tào Phi phế Hán lập nước Nguỵ, nhưng từ đầu chí cuối không có đủ lực lượng thống nhất nổi toàn quốc.
Sau khi thắng trận Xích bích, năm 209 Lưu Bị lĩnh chức mục ở Kinh Châu, năm 214 lên ngôi hoàng đế lập nên Thục Hán. Sau khi lấy đựơc Hán Trung, Quan Vũ từ Giang Nam bắc tiến đánh Phàn Thành, Kinh Tương, nhân dân khởi nghĩa dần dần chống lại Tào Nguỵ, hưởng ứng Quan Vũ, Tào Tháo đang túng đường ứng phó. Nếu bấy giờ Tôn Quyền thừa có liên hiệp với Thục đánh Nguỵ, cục diện lịch sử có thể sẽ đổi khác, nhưng quân Ngô không những không ra quân giúp đỡ, lại đánh thọc vào hậu phương Thục, cướp Giang Lăn, giết chết Quan Vũ. Hành động nghiêm trong ấy không những cứu vãn được tình thế bất lợi cho Tào Nguỵ, mà còn làm cho mâu thuẫn giứa Ngô, Thục càng sâu sắc hơn. Năm 222, để trả thù cho Quan Vũ và việc mất Kinh Châu, Lưu Bị cử đại binh đi đánh Ngo, vì sai lầm trên chiến thuật và chiến lược, bị thua thảm hại trong trậnh Hào Đình, hơn 40 dinh, mấy trăm dặm vô số đồ quân dụng mất hết trong chốc lát. Lưu Bị chạy về Vĩnh An, năm sau ốm chết ở đấy. Con là Lưu thiền nối ngôi do thừa tướng Gia Cát Lượng phụ chính, hồi phục lại được chính sách liên hiệp Ngô, Thục chống Nguỵ.
Thua trần Hào Đình, Thục Hán tổn thất nặng nề, uy thế lớn của Lưu Bị sụt hẳn đi, mâu thuẫn nội bộ giai cấp đã đến mức bộc lộ ra ngoài, thậm chí nổi dây làm phản, đặc biệt là của tù trưởng các quận Ích Châu, Việt Tuấn, Tường Khi , lực lượng "rợ nam” rất mạnh. Trước tình thế khó khăn đó, Gia Cát Lượng chỉ có dùng cách vỗ về mà không đánh, chuyên môn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng để cho nội bộ được yên. Đến năm 224 lòng người ổn định dần, chuẩn bị đã xong, bèn khởi binh đánh "rợ nam”. Về sau, "bảy lần bắt, bảy lần tha” làm cho Mạnh Hoạch hàng phục, đạt được mục đích chính trị " dùng rợ trị rợ: thông qua bọn cường hào đại phương mà thống trị dân tộc thiểu số vùng Tây Nam.
Từ năm 227 trở đi, để chống lại nước Nguỵ lớn mạnh, mưu đồ sự sống còn, Gia Cát Lượng lại bắt đầu chiến dịch Bắc phát "dùng thế công để làm thế thủ” Trước sau tất cả sáu lần, năm lần chủ động tấn công, một lần bị động phải phòng thủ. Đó là sáu lần ra Kì Sơn” mà mọi người thương quen biết ( thực ra chỉ có ba lần đi qua Kì Sơn). Lực lượng bản thân Thục Hán lúc đó chưa được hoàn toàn khôi phục như Gia Cát Lượng thấy rõ nếu không chủ động để Nguỵ đánh tất lâm vào thế bí, bèn miễn cưỡng gắng sức tiến hành công cuộc Bắc phát vô cùng gian khổ. Lần cuối cùng năm 234 ra Tà Cốc, chiếm đất Võ Công, định kế hoạch đóng lâu dài ở Vị Nam, nhưng bị ốm chết trong doanh trại Ngũ Trượng Nguyên.
Gia Cát Lượng chết, về mặt quan văn trước sau do Tưởng Uyển, Phí vĩ tiếp tục chủ chính; đại tướng do Khương Duy cầm đầu. Tưởng, Phí đều không chủ trương miễn cưỡng đánh Nguỵ, Khương Duy thì cố sức chủ trương Bắc phạt, từ năm 249 đến 262 ra quân cả thảy chín lần. Vì vậy sức dân mệt mỏi, lòng người chán ghét chiến tranh: Bắc phát lần thức sáu ở Đoạn Cốc, bị Đặng Ngải đánh thua, quân lính chết và bị thượng rất nhiều, phái Tây Cam Túc không quy phục Thục Hán nữa, người Ích Châu cũng nhao nhao phản đối chiến tranh. Lại thêm hậu chủ Lưu Thiện ngu muội, hoạn quan Hoàng Hạo chuyên quyền, chính trị cực kì thối nát. Như vậy làm cho Tào Nguỵ thành ra có khả năng diệt Thục.
Mùa xuân năm 263, Tư Mã Chiêu phái 18 vạn quân do Đặng Ngải, Gia Cát Tự, Chung Hội ba đường cùng tiến đại binh đánh Thục, Khương Duy bị bức lui về giữ Kiếm Các. Đầu mùa đông, Đặng Ngải vượt ải Âm Bình, tiến binh vào vùng hiểm trở núi non hoang vu phía đông Tùng Phan 700 dặm, đột nhiên hạ được Giang Du, hậu phương của Kiếm Các, giết Gia Cát Chiêm ở Miên Trúc, vào thẳng Thành Đô. Lưu Thiện nghe theo ý kiến phe đầu hàng của Tiền Chu, đón hàng Đặng Ngải, và ra lệnh cho Khương Duy đầu hàng Chung Hội. Thục Hán diệt vong từ đó.
Năm 265 Tư Mã Chiêu ốm chết, con là Tư Mã Viêm bức Tào Hoán nhường ngôi cho mình, xưng là vua nhà Tấn. Nhà Nguỵ diệt vong từ đó.
Về mặt Đông Ngô, từ sau khi Tôn Quyền chết, nội bộ cứ lục đục mãi không yên. Gia Cát Khác đem 20 vạn quân đánh nguỵ, thất bại trở về, bị Tôn Tuấn giết chết. Sau khi Tôn Tuấn chết, êm là Tôn Lâm chuyên quyền, phế Tôn Lượng, lập Tôn Hựu, Tôn Hạo tiếp tục làm vua nước Ngô, vốn hay gây sự, cướp bóc chém giết, nền chính trị bóc lột tàn khốc của Đông Ngô lúc ấy ngày càng bạo ngược thối nát, nhân dân khởi nghĩa chống lại ầm ầm. Năm 279 Tư Mã Viêm đưa 20 vạn quân chia làm sáu đường đánh Ngô, hầu như không gặp phải sức chống đỡ mạnh mẽ nào, năm sau tiến đánh đến Kiến Nghiệp, Tôn Hạo đón hàng. Nước Ngô cũng mất nốt. "Thiên hạ chia ba” đến bấy giờ toàn bộ do nhà Tấn thống nhất.
Chỉ căn cứ vào phần tóm tắt rất sơ lược trên đây, chúng ta dế thấy ngay lịch trình lịch sẻ của thời kỳ này rối ren biết chừng nào. Bộ truyện của chúng ta chính là viết đúng vào cái lịch trình lịch sử với một thời gian dài dằng dặc, là tình thế phúc tạp như đã kể trên. Đối chiếu với sự thực lịch sử trên đây, cuốn sách lớn gồm 120 hồi, đại khía nội dung chia ra như sau:
Hồi 1 và hồi 2 là mào đầu cho cả cuốn sách, dựa vào nền chính trị thối nát của nhà hán và cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng mà dẫn tới việc lên sân khấu đấu tranh của "các tay anh hùng”.
Từ hồi ba đến hồi mười bốn viết về quân lính và các dư đảng của Đổng Trác vào Lạc Dương cho đến lúc bị tiêu diệt.
Hồi mười bốn đến hồi ba mươi ba viết về tình hình các mặt trong giai đoạn Tào Tháo đánh họ Viên,thống nhất phương Bắc.
Hồi ba mươi tư đến hồi bốn mươi viết về tình tiết Lưu Bị sang Kinh Châu,gặp Gia Cát Lượng. Từ hồi bốn muơi mốt đến hồi năm mươi cuốn sách toàn ra sức viết về Tào Tháo xuống miền Nam và cảnh tượng hung tráng của trận Xích Bích.
Hồi 51 đến hổi 57 chủ yếu viết về sự diễn biến và phát triển của mối quan hệ phức tạp tinh tế giữa hai bên Lưu Bị và Tôn Quyền, tuy liên kết mà vẫn mâu thuẫn với nhau.
Từ hồi 57 trở xuống thẳng một mạch đến hồi 74 viết Tào Tháo tiến quân đánh lấy Hán Trung. Lưu Bị lấy Ích chấu cướp Hán Trung.
Từ hồi bảy mươi nhăm đến hồi tám mươi nhăm viết thành một đoạn trong đó tình tiết chủ yếu là Quan Vũ bị giết chết. Ngô Thục giao tranh, Lưu bị ốm chết, kèm them chuyện dựng nước của Ngụy và Thục.
Hồi tám mươi nhăm đến hồi một trăm linh bốn toàn bộ viết về sự tích đánh nam dẹp bắc "bảy lần bắt” sáu lần ra” của Gia Cát Lượng cho tới khi "cúc cung tận tụy” ốm chết trong hàng quân.
Từ đấy trở xuống hồi 115 viết về cuộc Bắc phạt của Khương Duy. Ba hồi sau, hồi 116 viết về quân của Tấn đánh Thục cho đến khi Thục diệt vong.
Hai hồi cuối cùng lấy chuyện quân Tấn diệt Ngô, ba nước thống nhất làm đoạn kết thục cho toàn bộ cuốn sách.
Độc giả đại khái cứ theo những đoạn chia như vậy mà đọc có thể thấy rõ ràng cuốn truyện không phải dàn ra theo đường thẳng cứng nhắc, mỗi đoạn chỉ chuyên viết về một chuyện. ví như chúng tôi nói từ hồi 14 đến hồi 33 hầu như là giai đoạn tiêu diệt họ Viên, thống nhất phương Bắc, nhưng trong đó còn rất nhiều tình tiết lí thú như Lã Bố bắn kích ở cửa Viên Môn, Hạ Hầu Đôn rút tên nuốt mắt, Tào Tháo đi săn ở Hứa Điền, Tào Tháo và Lưu Bị cùng nhau uống rượu luận anh hùng, Nễ Hành đánh trống mắng Tào Tháo, Quan Vũ treo ấn gói vàng, qua năm cửa quan chém sáu tướng, Quan Vũ, Trương Phi gặp nhau ở Cổ Thành v.v… qua những tình tiết đó, đạt được mấy mục đích như sau: mô tả sự tiến triển của lịch sử, làm nổi bật tính cách của nhân vật và diễn tả thái độ yêu ghét. Những phần khác cũng thế.
Ngày trước có nhà bình luận nói bộ Tam Quốc "Kể truyện trăm năm, bao quát được muôn việc” quả là không ngoa.