Thanh Long Yển Nguyệt Đao (青 龍 偃 月 刀)
là tên gọi một loại binh khí mũi nhọn, một nửa là hình bán nguỵêt, thuộc loại Đại
đao, có cán dài, trên đao có khắc hình con rồng. Yển nguyệt, có nghĩa là cong
như nửa đường cung của mặt trăng. Yển Nguỵệt Đao 偃 月 刀 xuất
hiện vào đời Đường, Tống, được dùng trong việc luyện tập, và để hiển thị sự trang
nghiêm hùng tráng, chứ không phải để dùng trong chiến đấu. Theo chính sử thì
binh khí Quan Vũ dùng để chiến đấu ra trận mạc, là mâu 矛 và
kích 戟, và bội đao 佩 刀. Nhưng trong tiểu thuyết
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La Quan Trung, ở hồi thứ nhất thuật là " Quan Vũ
đánh một con đao năng tám chục cân, đặt tên là Thanh Long Yển Nguyệt Đao, sau lại
gọi là Lãnh Diệm Cứ, còn Trương Phi thì đúc Bát Sà Mâu (thật ra là Trượng Bát
Điểm Thương Mâu).
Người Tầu là một dân tộc
đa tôn giáo. Đa thần. Họ thờ từ hòn đá, đến cây cối, động vật như con rùa, con ếch,
con rắn và cả vật dụng nữa…Quan Công được họ tôn sùng thờ phụng, nên những vật
dụng thiết thân của ông như con ngựa Xích Thố, và cây Thanhg Long Yển Nguyệt
Đao, cũng được người Tầu thần hoá, và tôn thờ. Dẫu răng loại đao này xuất hiện
sau đời Tam Quốc.
Có câu truyện thuộc loại
truyền thuyết thuật về việc đúc cây Thanh Long Yên Nguyệt Đao như sau :
1-Quan Vũ muốn làm chi
mình một con đao thật vừa ý, nên cho mời mấy vị thuộc bậc thầy về nghề lò rèn để
thảo luận. Các bậc sư phụ về nghề rèn đều đồng ý là dùng đao là oai hơn cả. Thời
bấy giờ, đao có năm đẳng cấp gọi là :
1-Thiết Đao 鐵 刀 2-Cương
Đao 鋼 刀 3- Nhu Cương Đao 柔 鋼 刀 4-
Thanh Cương Đao 青 鋼 刀 5- Bảo Đao 寶 刀.
Vì các đẳng cấp của đao
khác nhau, nên phương pháp luyện các loại đao trên không giống nhau. Mao thiết 毛 鐵,
tức sắt thô luyện lâu ngày thành cương 鋼, tức thép, thép luyện
trong lửa lâu ngày thành nhận韌, tứcmột loại thép thuần tuý nhưng mềm
và giai, sau đó lại luyện thêm nữa cho thép trở nên màu xanh, trở nên bảo đao.
Nhưng người thường chỉ có thể luyện thành Cương Đao, hay Thuần Cương Dao. Còn
loại Thanh Cương Đao và Bảo Đao thì rất khó luyện thành.
Một tay thợ rèn giỏi, một
đời có thể luyện được mấy trăm cây đao, nhưng khó có thể đánh nổi một Thanh
Cương Đao. Còn ý Quan Vũ thì nhất định phải có một con Bảo Đao, lại còn nói:
-Dù tốn kém bao nhiêu tiền
tôi cũng trả, nhưng nhất định phải là loại Bảo Đao.
Vì thế, Quan Vũ ngày ngày
cơm rượu hầu hạ mấy vị bậc thầy rành nghề thợ rèn, nên được vác vị này đem hết
tinh thần, tâm sức ra để làm. Sau hơn một tháng, đúc được hơn một chục con Đại
Đao, nhưng chẳng con nào vừa ý, ngay như thuộc loại Nhu Cương Đao, độ cứng cũng
chưa đạt được. Do đó đành phải huỷ bỏ, đánh những con khác.
Lại sau hơn một tháng,
thì luyện được một Thanh Cương Đao. Nhưng nào ngờ, Quan Vũ vẫn chưa vừa ý, yêu
cầu luyện tiếp.
Các bậc sư phụ của nghề
rèn đều thưa với Quan Vũ :
-Thanh Cương Đao thuộc lại
trân bảo hiếm có trên đời, có thể chém sắt thép dễ dàng. Chứ Bảo Đao thì chúng
tôi chưa hề thấy ai luyện được. Còn luyện tiếp nữa, chẳng biết có thành công
không.
Các bậc sư phụ của nghề
rèn đành phải tiép tục luyện tiếp theo ý của Quan Vũ. Thế rồi sau một tháng, một
buổi sáng trăng, một thanh đại đạo vừa thành hình được rút từ lò luyện ra để
tôi vào nước, bỗng thấy một tia hào quang bay vút lên không trung, chém trúng
vào một con rồng xanh, máu tươi nhỏ xuống, rơi vào thân cây Đại Đao, khiến bật
ra những thanh âm như tiếng sấm. Mọi người đều sợ hãi. Bỏ chạy tứ xứ.
Khi Quan Vũ nghe thấy vậy, ra xem, thì thấy cây Bảo Đao dựng ở mặt đất.
Hào quang sáng lạn. Cây Bảo Đao này có hình cong bán nguyệt, lại dùng máu rồng
xanh tôi luyện, nên được đặt tên là "Thanh Long Yển Nguyệt Đao”.