Trong «Tam Quốc diễn nghĩa», cố sự về Quan Vân Trường có thể
nói là nhà nhà đều biết, cả phụ nữ và trẻ em cũng biết. Xin cảm tạ La Quán
Trung và các tác giả đời sau đã yêu mến, đem Quan Vân Trường ra tả oai hùng oanh
liệt như vậy, hào khí ngút trời.
"Kết nghĩa vườn đào”, "tam anh chiến Lã Bố” trong «Tam Quốc
diễn nghĩa» đều là chuyện có thật, thế nhưng tình tiết là có chỗ khác. Ở đây chỉ
xin đưa ra ví dụ "rượu ấm trảm Hoa Hùng” cho các độc giả yêu thích Tam Quốc.
Võ tướng thời cổ đại, phần lớn là có tính cách giống nhau,
chính là giảng nghĩa khí. Hai bên đấu nhau, đều là vì chủ, thắng thì cũng phải
thắng đường đường chính chính, thua thì cũng phải thua rõ ràng minh bạch, chết
thì cũng phải chết oanh oanh liệt liệt.
Trong màn "rượu ấm trảm Hoa Hùng”, tác giả vì để làm nổi bật
hình tượng chính diện của Quan Vân Trường, nên đã thêm nghĩa xấu vào cho Hoa
Hùng. Kỳ thực Hoa Hùng là một Hán tử đội trời đạp đất, một anh hùng đường đường
chính chính.
Mười tám lộ chư hầu phát binh tại Lạc Dương, trận đầu tiên
chính là gặp phải tướng trấn ải Tị Thủy — Hoa Hùng. Khi ấy Hoa Hùng trước trận
giao tranh giữa hai bên đã trảm mấy viên đại tướng, trong tâm không tránh khỏi
có một chút đắc chí. Bởi vậy khi giao chiến với Quan Vân Trường, mới biết hôm
nay đã gặp phải kình địch.
Trước trận đại chiến tại ải Tị Thủy, Hoa Hùng và Quan Vân Trường
đã đấu với nhau ba trăm hiệp, bất phân thắng bại, đồng thời hai bên cũng rất bội
phục võ công của đối phương. Như vậy vì sao Quan Vân Trường cuối cùng chiến thắng?
Vấn đề nằm ở ngựa mà hai người cưỡi.
Chiến mã của Hoa Hùng là chiến mã không có điểm gì đặc biệt,
do vậy khi hai ngựa xông vào nhau, theo quán tính, ngựa của Hoa Hùng phải chạy
một đoạn mới có thể quay đầu chiến tiếp hiệp thứ hai. Còn ngựa của Quan Vân Trường
gọi là Đăng Quải Loan Mã, loại ngựa này có một công phu, đó là ngay khi hai ngựa
vừa mới xông vào nhau, nó đã có thể rất nhanh quặt lại. Có lúc nó chỉ dùng một
móng chạm đất, còn ba móng kia dùng lực chuyển một cái, động tác càng nhanh. Đến
khi ngựa Quan Vân Trường chuyển mình rồi, thì ngựa Hoa Hùng theo quán tính vẫn
lao về phía trước. Quan Vân Trường bèn thừa cơ truy kích. Quan Vân Trường dùng
sống đao đập một cái vào mông ngựa Hoa Hùng, ngựa đau quá lao về phía trước,
Hoa Hùng bại trong một hiệp.
Hiệp thứ hai là Hoa Hùng truy Quan Vũ. Đăng Quải Loan Mã của
Quan Vũ còn có một đặc điểm, đó là chỉ cần Quan Vũ cúi lên mình ngựa, vỗ nhẹ một
cái vào cổ ngựa, thì ngựa biết chủ nhân có ý, mới cúi xuống một cái. Khi ấy Hoa
Hùng tưởng ngựa Quan Vũ đã mất móng, bèn giương đao lớn lên, hướng sau đầu Quan
Vũ mà chém. Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, Quan Vũ giương đao chém vào móng
trước ngựa của Hoa Hùng. Ngựa đã mất móng trước, chiến mã Hoa Hùng tự nhiên ngã
xuống, chèn vào một bên đùi của Hoa Hùng. Khi ấy Thanh Long Yển Nguyệt Đao của
Quan Vân Trường kề vào cổ của Hoa Hùng, trong nháy mắt đã trở thành lịch sử
thiên cổ.
Phải nói rằng khi ấy Quan Vân Trường lấy đầu Hoa Hùng dễ như
trở bàn tay. Vì sao ông lại chậm chạp không động thủ? Bởi vì Quan Vũ phải nghe
xem Hoa Hùng có lời gì để nói không. Hoa Hùng thấy Quan Vũ còn chưa động thủ, mới
biết Quan Vũ có dụng ý. Hoa Hùng nghĩ thầm: "Quan Vũ có khác, đúng là nghĩa sĩ,
chi bằng nhân cơ hội này kết nghĩa huynh đệ với hắn, rồi chết cũng không muộn”.
Bởi vậy Hoa Hùng nói: "Quan tướng quân, hai bên đấu nhau, đều là vì chủ. Tôi từ
khi tòng quân tới nay vẫn chưa gặp ai có thể đấu với tôi ba trăm hiệp, hôm nay
được chết dưới đao của Quan tướng quân, cũng là chết đúng chỗ vậy, chết như anh
hùng. Trước khi Quan tướng quân động thủ, tôi có hai điều thỉnh cầu, không biết
tướng quân có thể đáp ứng hay không”. Quan Vũ thấy Hoa Hùng đầy vẻ anh hùng khí
khái, đúng là bậc Hán tử, mới nói: "Mời Hoa tướng quân cứ nói đừng ngại”. Hoa
Hùng nói: "Tôi kiếp này chỉ hận gặp Quan tướng quân quá muộn, Quan tướng quân nếu
không ghét bỏ kẻ bại tướng này, thì tôi nguyện kết tình huynh đệ với Quan tướng
quân, không biết ý tướng quân thế nào?” Quan Vũ thấy lời nói Hoa Hùng tha thiết,
liền đáp ứng, nói: "Quan mỗ tôi chính có ý như vậy. Tướng quân chết rồi, vợ con
lớn bé nhà tướng quân, tôi sẽ chiếu cố như gia nhân nhà tôi vậy. Còn di thể tướng
quân, tôi nhất định sẽ chiếu theo quy định trong quân, dùng lễ mà an táng. Vậy
xin hỏi thỉnh cầu thứ hai của tướng quân là gì?” Hoa Hùng thấy Quan Vân Trường
thẳng thắn chính trực, nên rất cảm kích, nói: "Tạ Quan tướng quân. Việc thứ
hai, tôi bị trảm rồi, mười tám lộ chư hầu có thể thừa thắng truy sát binh sĩ của
tôi, quân tôi không biết có thêm bao nhiêu vợ trẻ con côi nữa. Tôi chết rồi thì
dù mười tám lộ chư hầu đắc thắng, thỉnh Quan tướng quân ngăn cản mười tám lộ chư
hầu, đừng để họ làm hại binh sĩ của tôi”. Quan Vũ nghe xong, mới biết Hoa Hùng
đúng là một vị nghĩa sĩ, bởi vậy lập tức đáp ứng thỉnh cầu thứ hai của Hoa Hùng.
Nếu không phải trước trận doanh hai bên, thì vì tư tình, có lẽ Quan Vũ đã sớm
thả Hoa Hùng đi rồi.
Quan Vũ giơ tay lên nói: "Đem rượu đến đây!” Quân sĩ phía sau
lập tức mang hai chén rượu nóng tới, Hoa Hùng tay phải rút bảo kiếm vạch lên
tay trái một đường, rồi lấy máu tươi nhỏ vào chén rượu. Hoa Hùng cố nén nước mắt
vui mừng, đầy cảm xúc nói: "Đại ca, kiếp này hận gặp quá muộn, nếu như có kiếp
sau, tôi nguyện cùng đại ca uống rượu nghìn chén, say ngã sa trường, tôi trước
tiên kính đại ca một chén”. Hoa Hùng nâng cao chén rượu lên, ực một hơi toàn bộ
hết sạch. Quan Vũ cũng cảm khái nói: "Hiền đệ, chúng ta tuy rằng đều vì chủ,
nhưng hiền đệ khảng khái hiên ngang, xem thường cái chết, có khí phách của bậc
anh hùng, khiến Quan mỗ rất cảm động, tướng sĩ toàn quân cũng đều rất cảm động.
Tôi đã đáp ứng việc thì nhất định sẽ làm theo, nếu như có gì trái ý hiền đệ,
thì trời tru đất diệt! Tôi cũng kính hiền đệ một chén”. Nói xong Quan Vũ nâng
cao chén rượu lên, ực một hơi cũng hết sạch.
Khi ấy mặt trời dần khuất theo bóng chiều tà, những đám mây
xanh tỏa ánh hoàng hôn, một trận gió thổi khiến cát vàng bay mù mịt, cờ quân
bay phần phật, chiến mã hí vang. Tướng sĩ hai bên tận mắt chứng kiến màn ly biệt
sinh tử, khảng khái bi thương của hai vị anh hùng cái thế.
Hoa Hùng ứa nước mắt vì mừng rỡ, quỳ gối dưới đất, hét lớn một
tiếng: "Đại ca, xin nhận của tiểu đệ một lạy!” Hoa Hùng khấu đầu ba cái trước
Quan Vũ. Quan Vũ cũng nước mắt lưng tròng, gối quỳ trên đất, bái Hoa Hùng ba
bái: "Hiền đệ, đi đường bảo trọng!” Hoa Hùng vẫn quỳ gối, nói với Quan Vũ: "Đệ
và đại ca tuy không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, nhưng nguyện chết cùng
ngày cùng tháng cùng năm. Đại ca, xin hãy động thủ”.
Khi ấy quả thực rất nghĩa khí, trước trận doanh hai bên, Quan
Vũ không hề trói Hoa Hùng, mà Hoa Hùng hoàn toàn có thể thừa cơ chạy thoát về
trận địa, tìm đường thoát thân, hoặc Hoa Hùng có thể rút kiếm đâm trộm Quan Vũ,
thậm chí có thể chuyển bại thành thắng, nhưng hai người đều vô cùng thành thật
nghĩa khí.
Quan Vũ đứng dậy, cởi chiếc chiến bào màu xanh lá ra, trải
trước mặt Hoa Hùng, tay giương cây Thanh Long Yển Nguyệt Đao, chỉ thấy một luồng
sáng sượt qua, thủ cấp của Hoa Hùng đã rơi vào chiến bào. Quan Vũ lại lạy ba lạy
trước di thể của Hoa Hùng, rồi khoác lại chiến bào và nhảy lên chiến mã.
Khi ấy minh chủ Viên Thiệu của mười tám lộ chư hầu phát xuất
mệnh lệnh, toàn quân xuất kích. Chẳng ngờ Quan Vũ lập tức giương đao lên, thét
lên một tiếng: "Ai dám tiến thêm một bước, thì đừng trách đao của Quan mỗ vô
tình!” Tướng sĩ hai bên đã sớm bị khí khái của hai vị anh hùng cảm động đến phục
sát đất, giờ không còn tâm tư nào đánh trận nữa. Viên Thiệu thấy lòng quân đã bị
Quan Vũ chiếm mất, chẳng bằng thu lại cái tình cá nhân, liền hạ lệnh thu binh.
Thực ra Quan Vũ trảm Hoa Hùng, nhưng không hề diệt mất uy
phong của Hoa Hùng, mà khiến cái chết của Hoa Hùng tỏa ánh sáng chói lọi, hùng
vĩ oanh liệt, hào khí ngút trời. Sự hy sinh của Hoa Hùng cũng tôn lên tấm lòng
cao cả, đức độ chói sáng, nghĩa tới mây xanh của Quan Vũ. Tôi nghĩ đây chính là
nội hàm chữ "nghĩa” trong «Tam Quốc diễn nghĩa».
Năm tháng trôi qua như bể dâu, lịch sử tựa như
chuyển luân, sự việc năm xưa đã trải qua cả nghìn năm. Cố sự "rượu ấm trảm Hoa
Hùng” lưu truyền đến nay, mà ký ức vẫn như còn mới mẻ, sáng chói như mới ngày
hôm qua vậy.