QUYỂN HẠ
GIÓ THU THỔI QUA GÒ NGŨ TRƯỢNG
Thiên phụ họa
GIA CÁT KỲ TÀI
HÌNH TƯỢNG GIA CÁT LƯỢNG VỚI QUẠT LÔNG KHĂN NHlỄU
Do sự tô vẽ của tiểu thuyết và sân khấu
hình tượng Gia Cát Lượng mà chúng ta rất quen thuộc chính là khuôn mẫu đầu quấn
"khăn nhiễu Gia Cát”, tay phải cầm quạt lông, ngồi trên cỗ xe hai bánh không có
vũ trang rất tiêu dao tự tại.
Như trên đã nói do sự tô vẽ của tiểu thuyết
và sân khấu, chúng ta đã quen thuộc với hình tượng Gia Cát Lượng mà Chu Thượng
Quan đời Thanh đã đưa ra trong cuốn "Vãn đường họa truyện”.
Cứ theo sự mô tả trong Tam quốc diễn nghĩa,
bất luận ở trường hợp nào thậm chí đang ở tiền tuyến, Gia Cát Lượng tựa hồ vĩnh
viễn là gắn liền với quạt lông khăn nhiễu, không mặc giáp trụ, đến ngay cỗ xe
cũng chẳng có vũ trang bảo vệ. Gia Cát Lượng vẫn cẩn thận, nếu phục trang như
thế trong đòi sống thực tế đương nhiên là chẳng thể được. Ví như phục trang như
vậy cũng có ý nghĩa đặc thù của nó. Ở thời kỳ cuối đối trận tại gò Ngũ Trượng với
Tư Mã Ý, Gia Cát Lượng biết mình bệnh đã nặng, để chọc giận Tư Mã Ý, hấp dẫn
quân Tào Ngụy xuất trận, mặt khác để sau này rút binh sẽ đưa ra người giả để dọa
địch, nên đã cố ý tạo ra hình tượng đó.
Cuốn "Bắc đường thư sao” do Ngu Thế Nam đời
Đường, soạn, có dẫn sách "Bùi thị ngữ lâm” của Bùi Trị đời Tấn như sau: "Ngồi
trên cỗ xe màu trắng, tay cầm quạt lông màu trắng” đã trở thành tiêu chí đặc
thù của Gia Cát Lượng, cỗ xe được nói đến là cỗ xe gỗ sắc trắng, chẳng có thiết
bị phòng ngự gì”.
Trong cuốn "Nghệ văn loại tụ” của Âu Dương
Tuân đời Tống có miêu tả tường tận: "Gia Cát Vũ Hầu và Tư Mã Tương Vương khi đối
trận ở bên sông Vị Thủy (gò Ngũ Trượng), Tư Mã Tương Vương mặc quân phục đến
trước trận xem xét, song Gia Cát Vũ Hầu chẳng hề mang võ bị, cưỡi trên cỗ xe
màu trắng, đầu đội khăn quân, tay cầm quạt lông, chỉ huy ở trước trận, Tư Mã Ý
không khỏi quay đầu lại bảo với các tướng sĩ đứng bên: "Thực là danh sĩ vậy!”.
Từ đó có thể thấy phục trang này của Gia
Cát Lượng đích xác là bởi mục đích đặc thù, hình tượng đặc thù này được tạo ra ở
gò Ngũ Trượng mà thôi, dứt khoát không phải là trang phục vẫn thường dùng ở chiến
trường.
Quạt lông là cái gì nhỉ? Đấy là một loại
thường được gọi là quạt lông hươu. Trong cuốn "Thế thuyết tân ngữ” của Lưu
Nghĩa Khánh có chép "Dữu Trĩ Cung làm Thứ sử Kinh Châu từng cầm ở tay một chiếc
quạt lông dâng cho Tấn Vũ đế” mà trong thiên "Dung chỉ” thì nói quạt lông có
chuôi ngọc gọi là loại "quạt lông chuôi ngọc”. Loại quạt này có chỗ giống như
là phất trần mà Tăng Lữ Thiền Tông vẫn cầm, từ Hậu Hán đến Ngụy Tân Nam Bắc triều,
các học giả phái Thanh Lưu rất thích cầm loại quạt này, biểu thị sự tiêu dao tự
tại của mình.
Đương nhiên chuôi của loại quạt này không
hoàn toàn làm bằng ngọc mà tùy theo thân phận người sử dụng khác nhau được làm
bằng trúc, gỗ, sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi, từ cuối đời Hán đến đời Đường
hình thái của quạt lông ít ra có bảy loại.
"Khăn quấn” cũng có đầu mối của nó, từ xưa
đến nay các sĩ đại phu thường đội mũ miện, khăn đầu chỉ có dân thường mới dùng.
Đến cuối đời Đông Hán, những nhân sĩ ẩn dật ở thảo dã bắt đầu sử dụng khăn đầu
khá phổ biến. Trong cuốn Hậu Hán thư của Phạm Diệp đầu đời Thanh có chép. Phù
Dung, Pháp Chân, Chu Đảng ở phái Danh Sĩ, thậm chí đại học giả Trịnh Huyền,
cũng thường đội khăn đầu, thành trào lưu thời thượng khá rộng rãi bấy giờ. Do ở
chiến trận thường vận khôi giáp, bởi thế lúc nghỉ ngơi, lập tức cởi bỏ mũ mạo
vướng víu, các binh sĩ hoặc quan chức thấp có thể để đầu tóc không chỉnh đốn thả
tóc xuống vai, song quan chức cao cấp cho rằng như thế không nghiêm túc, nên vẫn
có thói quen đội khăn xếp. Loại khăn của Gia Cát Lượng với loại khăn này rất giống
nhau.
Theo lý mà nói, phục trang như nói trên lẽ
ra không nên xuất hiện ở tiền tuyến, chẳng những dễ gặp phải sự tập kích của
tên bắn mà còn làm lơi lỏng tinh thần cảnh giác của binh sĩ, cho nên lúc Gia
Cát Lượng ăn vận như vậy, hẳn có mục đích riêng vậy.
CÂU ĐỐ BÁT TRẬN ĐỒ CỦA GIA CÁT LƯỢNG
Trận đá Bát trận đồ đích xác có tồn tại, chỉ
khác là dứt khoát chẳng phải thuật kỳ môn độn giáp đã miêu tả trong Tam quốc diễn
nghĩa.
Những khối đá này được xếp thành Bát trận đồ,
thực ra là vùng đất sa bàn diễn tập mà Gia Cát Lượng dùng để thao luyện binh sĩ
mà thôi.
°
Trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán
Trung, miêu tả những khả năng kỳ lạ của Gia Cát Lượng, trong đó tô vẽ khoa
trương nhất là chuyện mượn gió đông và Bát trận đồ. Mượn gió đông nảy sinh
trong đại chiến Xích Bích, đích xác là nhân tố quan trọng của thắng bại trong
chiến tranh, vấn đề là Gia Cát Lượng thực có thể hô phong hoán vũ hay không,
đáp án khoa học đương nhiên là chẳng thể được.
Đại chiến Xích Bích phát sinh vào năm Kiến
An thứ 13, theo nông lịch là sáng sớm ngày 13 tháng 11, vùng Hoa Trung đang là
mùa lạnh, phía tây bắc lạnh hơn phía nam, bởi thế ở vùng Xích Bích nhất định có
gió tây bắc, làm sao có thể xuất hiện gió đông nam nhỉ?
Song cứ theo chính sử "Tư trị thông giám”
ghi chép đích xác có gió đông nam đột nhiên lúc ấy xuất hiện, vậy khoa học phải
giải thích thế nào đây?
Trong cuốn "Tào Tháo tranh bá”, đặc biệt có
lấy 3 nhân tố địa hình, khí tượng, binh pháp, đối chiếu tình hình có thể, phân
tích có hệ thống, độc giả nếu có hứng thú có thể tham khảo những ghi chép trong
đó để phán đoán, ở đây không nhắc lại nữa.
Ghi chép về Bát trận đồ lại càng thần kỳ
hơn. Hồi thứ 84 trong Tam quốc diễn nghĩa chép về Lục Tốn thiêu trại 700 dặm,
Khổng Minh khéo bầy Bát trận đồ, có ghi chép như sau:
Lục Tốn đã giành được đại thắng, dẫn quân
đang thắng đuổi đến phía tây. Cách Quì Quan không xa, Lục Tốn chợt nhìn thấy ở
bãi sông phía trước, một trận địa sát khí đùng đùng bốc lên, giật cương ngựa
quay lại bảo các chúng tướng rằng "trước mặt ắt có mai phục, ba quân không được
tiến bừa”, lại cho lùi lại mười dặm, ở vùng đất trống bầy trận thế để phòng ngự
quân địch. Lại sai thám mã đi xem xét, báo lại rằng không có quân đóng ở đấy, Lục
Tốn không tin, xuống ngựa lên núi nhìn ra xa vẫn thấy sát khí bốc lên.
Lục Tốn lại cho người xem xét thực cẩn thận,
thám mã lại quay về báo, trước mặt không có một người nào. Lục Tốn thấy mặt trời
sắp lặn, sát khí càng nhiều, trong lòng do dự, lệnh cho người tâm phúc lại đến
đó xem xét, báo về rằng bên sông chỉ có những đống đá bầy xếp lung tung, tuyệt
không có bóng người, Lục Tốn rất đỗi nghi ngờ, lại cho tìm thổ dân để hỏi. Bỗng
chốc có mấy người đi đến, Lục Tốn hỏi ai đã xếp những đống đá này, song trong
những đống đá lung tung ấy lại có sát khí bốc lên? Thổ dân đáp: "Vùng này gọi
là bến Ngư Phúc, khi Gia Cát Lượng vào Thục, dẫn quân đến đó lấy đá bầy trận thế
ở trên bãi cát ven sông, từ đó khí đùn như mây từ trong bốc lên”.
Lục Tốn nghe rồi, lập tức dẫn mấy chục kỵ
binh đến xem trận đá, dừng ngựa ở trên dốc núi, song thấy bốn mặt tám hướng đều
có cửa vào. Lục Tốn nói rằng: "Đấy là thuật mê hoặc người, có lợi hại gì!” rồi
dẫn mấy kỵ binh xuống núi, xông vào trận đá xem xét, bộ tướng nói: "Trời sắp tối,
xin đô đốc sớm quay về”.
Lục Tốn muốn ra khỏi trận đá ấy, đột nhiên
cuồng phong nổi lên ầm ầm. Trong phút chốc, cát bay đá chạy trùm lợp cả trời đất,
lại thấy quái thạch cao chót vót, tua tủa như kiến, bãi cát dưới chân dựng
thành lũy như núi, nghe trong tiếng sóng trên sông như có tiếng gươm khua trống
nổi. Lục Tốn cả kinh nói: "Ta trúng phải mưu kế của Gia Cát Lượng rồi!”. Muốn vội
vã trở về mà không tìm được lối ra. Đang lúc kinh hãi chợt thấy một lão trượng
đứng ở trước ngựa cười mà rằng: "Tướng quân muốn ra khỏi trận này ư?”.
Lục Tốn nói: "Xin trưởng lão dẫn đường
cho!”
Lão trượng chống gậy từ từ mà đi quanh co,
ra được khỏi trận đá không gặp trở ngại gì, đưa chân đến tận dốc núi.
Lục Tốn nói: "Trưởng lão là ai?”
Lão trượng trả lời: "Lão phu là Hoàng Thừa
Ngạn, bố vợ của Gia Cát Khổng Minh, khi xưa con rể lão vào Thục có bầy trận đá ở
đấy gọi là Bát trận đồ, muốn vào được tám cửa, phải tuần tự theo phép độn giáp:
Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai. Mỗi ngày mỗi giờ lại biến hóa
không ngừng, có thể so với 10 vạn tinh binh. Lúc chia tay, Khổng Minh có dặn
lão phụ rằng, sau này có đại tướng Đông Ngô lạc ở trong trận ấy chớ có dẫn họ
ra. Lão phu đứng ở trên núi thấy ngài từ cửa Tử mà vào, ngờ rằng không biết trận
ấy, ắt bị mê hoặc. Lão bình sinh thích làm việc thiện, chẳng nhẫn tâm để tướng
quân bị chìm đắm như thế, nên đặc biệt theo cửa Sinh mà dẫn ra”.
Lục Tốn nói: "Cụ có học được trận pháp này
không?”
Hoàng Thừa Ngạn nói: "Biến hóa vô cùng chẳng
thể nào học được vậy!”.
Lục Tốn hoang mang xuống ngựa bái tạ cụ già
rồi quay về. Sau này Đỗ Phủ có thơ rằng:
Công trùm cả ba nước,
Danh nên Bát trận đồ,
Sông trôi đá chẳng chuyển,
Hận chẳng nuốt xong Ngô.
Lục Tốn về trại than rằng: "Khổng Minh thực
là con rồng nằm vậy, ta chẳng thể nào theo kịp được”.
Nhà viết tiểu thuyết miêu tả tình tiết này
thực thần kỳ huyền diệu, lấp lánh vô cùng. Song lấy quan điểm lịch sử mà xem,
có thể nói là hoang đường không kể xiết, chẳng thể như thế được.
Bài thơ của Đỗ Phủ, là căn cứ vào truyền
thuyết ở đấy mà viết ra, chủ yếu nhớ đến sự trung nghĩa tiết tháo của Gia Cát
Lượng "Kỳ Sơn giữa trận từ trần, khách anh hùng để tần ngần lệ rơi”, La Quán
Trung lại khéo léo vận dụng, mà làm thành bằng chứng để hư cấu, Đỗ Phủ ở dưới đất
nếu có biết ắt cảm khái muôn vàn, trăm miệng không nói hết được.
Song trong cuốn Tam quốc chí do Trần Thọ
biên soạn nói Gia Cát Lượng có sở trường về kỹ xảo, nỏ liên châu lợi hại, trâu
gỗ, ngựa máy đều do ông nghĩ ra, lại suy diễn binh pháp làm ra Bát trận đồ hàm
chứa nhiều điều cốt yếu.
Nói cách khác, đích xác đã có Bát trận đồ
chẳng phải là điều hư cấu, vấn đề là rốt cục Bát trận đồ là gì.
"Trận” là khi hai bên quân đội ngày xưa
giao chiến có bầy ra hình thái bố trí quân đội theo một hàng lối nhất định. Trận
có tác dụng giao chiến, cũng có khi dùng để đóng đồn trại. Trận ắt phải dựa
theo sự biến hóa địch tình, địa hình, thời tiết để thiết kế, cũng là trận pháp
thường nói đến trong binh thư, "đồ” là nói đến quy mô, trận đồ là hình thái bầy
trận cơ bản có tính chất đặc thù, "Bát trận đồ” là một loại trận thế chú ý đến
danh nghĩa, tổng hợp tám loại trận pháp mà thành.
Danh nho Trịnh Huyền đời Hán ghi chép trong
sách Tôn Vũ, có thiết kế ra tám trận Binh pháp của Tôn Tẫn mới khai quật được,
có các mục sách "Bát trận” "Thập trận”, lại viết: "Biết cơ mưu của Bát trận mới
là một tướng vương giả”.
Cứ theo tư liệu ghi chép hiện có, bát trận
của Tôn Tử trong truyền thuyết có phân biệt làm các trận Phương, Viên, Đỗ, Tẫn,
Hành, Phù Chí, Luân, Nhạn Hành, tựa hồ là trận hình tám loại không giống nhau về
hình thái, có một số có thể dùng khi tác chiến, có một số loại được dung khi
đóng đồn hoặc phòng ngự.
Thời đại chiến quốc của Nhật Bản, võ tướng
Vũ Điền Tín Huyền có dùng quân kỳ vẽ "gió rừng lửa núi”, đối với binh pháp Tôn
Tử đã nghiên cứu sâu xa, trận thế mà ông ta sử dụng cũng có tám loại, phân biệt
là "Ngư lâm, hạc dực, nhạn hành, loan nguyệt, phong thỉ, hách ách, trường sà,
phương viên”.
Tựa hồ tám trận của Tôn Tử được cụ thể hóa,
chính là từ Bát trận của Tôn Vũ chuyển hóa ra. Từ đó có thể thấy, Bát trận là
tám phương pháp bố cục khi tiến công hoặc phòng ngự thường vẫn sử dụng.
Lý Hưng thời Tây Tấn khi chú giải Bát trận
đồ của Gia Cát Lượng cũng chỉ rõ: "Suy diễn tám trận không giống hệt Tôn Ngô.
Cũng tức là nói thiết kế Bát trận đồ của Gia Cát Lượng có không ít chỗ là do
ông ta sáng tạo, mà không hạn chế ở Bát trận đồ của Tôn Vũ và Ngô Khởi xây dựng.
Gia Cát Lượng cũng tự nói rằng: "Bát trận
đã thành, từ nay việc quân không lo thất bại nữa!” khá thấy Bát trận đồ đích
xác là sáng tác mà Gia Cát Lượng lấy làm đắc ý, dựa theo đầu óc khoa học nhiều
kỹ xảo, mà thiết kế ra cho phù hợp với đặc thù khi hành quân, tác chiến hoặc
đóng doanh trại.
Mục đích của Bát trận đồ, chính là đề cao
năng lực tiến công và phòng ngự, do thiết kế khá thực dụng, đối với đời sau có ảnh
hưởng rất lớn. Tư Mã Chiêu sau khi diệt được Thục Hán có lệnh cho Trần Hiệp học
tập ở Gia Cát Lượng phép bầy trận, dùng quân mai phục, cũng nói có thể dùng
phép tắc của Vũ Hầu đế bảo ban cho ba quân. Tập Ưng thời Bắc Ngụy có dâng thư
lên Ngụy Văn đế để bày tỏ: "Nên dùng phép Bát trận của Gia Cát Lượng để tấn
công và phòng ngự”. Thời Đường Thái Tông, một nhà binh pháp trứ danh là Lý
Tĩnh, lại căn cứ vào phép Bát trận của Gia Cát Lượng, sáng tạo ra Lục hoa trận
pháp.
Vậy phải chăng thực có trận đá Bát trận đồ
mà Lục Tốn đã gặp phải? Đấy là cái gì vậy?
Trận đá Bát trận đồ đích xác có tồn tại, chỉ
khác là dứt khoát chẳng phải thuật kỳ môn độn giáp được miêu tả trong Tam quốc
diễn nghĩa.
Những khối đá này được xếp thành Bát trận đồ,
thực ra là vùng đất sa bàn diễn tập mà Gia Cát Lượng dùng để thao luyện binh sĩ
mà thôi.
Cứ theo ghi chép, trận đá nổi tiếng nhất,
là di tích Bát trận đồ ở trong cuốn "Thái bình hoàn vũ ký”, trận đá này ở thượng
lưu Trường Giang thuộc huyện Phụng Tiết tỉnh Tứ Xuyên. "Chu vi có đến 480 trượng
do các khối đá xếp lẫn mà thành, có khối cao 5 trượng, chu vi khoảng 3 sải tay
bầy như bàn cờ... Mùa hè nước ngập cả, mùa đông nước rút mới có thể thấy được...
Cứ theo nghiên cứu Bát trận đồ này được phân làm tám trận là Động Đương, Trung
Hoàng, Long Đằng, Điểu Phi, Hổ Dực, Chiêt Xung, Liên Hành, Ác Cơ, ngoài trận đá
ở đây, di tích trận đá Bát trận đồ, còn thấy ở hai địa phương khác, một nơi ở
huyện Miễn tỉnh Thiểm Tây gần với phần mộ Gia Cát Lượng, một nơi thuộc huyện
Tân Quận tỉnh Tứ Xuyên.
Đỗ Mục trong cuốn "Tôn Tử tập chú” có viết:
Gia Cát Vũ Hầu lấy đá xếp ngang dọc theo tám cửa làm trận đồ, những điều kỳ lạ
đều thấy ở đấy.
Cứ theo tư liệu cho thấy Bát trận đồ của
Gia Cát Lượng, về biến hoá mà nói, lấy thiên, địa, phong, vân, phi long, tường
điểu, hổ dực, sà bàn làm trận hình cơ bản, trong đó đại trận ôm tiểu trận,
doanh trại lớn ôm doanh trại nhỏ, trong di tích ở Phụng tiết có thể phát hiện ở
đó có 64 trận, là số sa bàn ở nơi đóng quân thao diễn trận pháp.
Trận đá ở Tân Quận có số trận pháp đứng đầu
là 128 trận, đấy nói chung đều là những trận thế dùng trong tấn công hoặc dã
chiến.
Theo truyền thuyết, quy mô lớn nhất là ở
Thành Đô, là một trận pháp doanh trại có 256 trận, là phương thức bầy trận dùng
trong đóng trại lâu ngày, khiến cho công năng vận động ở các doanh trại riêng đều
hoàn toàn được phát huy, chẳng những động viên được lực lượng cơ động rất lớn
mà khả năng phòng ngự cũng rất mạnh. Sử liệu có chép: "Gia Cát Lượng đên đóng
quân, từ lũy trại, bếp, bờ rào, nhà xí, chướng ngại vật, đều có qui cách và vị
trí nhất định, một chút cũng không vội vã”. Gia Cát Lượng bị bệnh mất ở gò Ngũ
Trượng, Tư Mã Ý sau khi Thục Hán rút quân, xem xét kỹ lưỡng công sự và bố trí ở
doanh trại, không khỏi cảm thán rằng: "Thực là thiên hạ kỳ tài vậy!”.
Có thể tin rằng đấy là một loại Bát trận đồ
mà Gia Cát Lượng đã sáng tạo ra.
BINH PHÁP VÀ TÁC PHẨM CỦA GIA CÁT LƯỢNG
Trương Chú khi biên tập cuốn Gia Cát Vũ Hầu
văn tập, trừ những sáng tác rõ ràng của người khác, cơ hồ bao quát cả những tác
phẩm của Gia Cát Lượng mà sau này được nhắc đến theo truyền thuyết, ông ta lấy
thái độ bao dung rộng lớn mà tận lực thu thập.
Gia Cát Lượng mất đã nhiều năm, vào năm
Thái Thủy thứ 10 đời Tấn Vũ đế (năm 274 sau Công Nguyên), Trần Thọ lại biên tập
cuốn "Gia Cát thị tập”, toàn bộ gồm 24 thiên, mục lục và lá thư dâng sách của
Trần Thọ thấy ghi ở cuốn "Thục chí”.
Trần Thọ là cựu thần Thục Hán, cũng là tác
giả "Tam quốc chí”, cách thời đại Gia Cát Lượng không xa, bởi thế cuốn "Gia Cát
thị tập” do ông biên tập lại, tuy có nhiều người cho rằng không phải nguyên
tác, song chí ít cũng đã được lưu lại những trước tác đích xác là của Gia Cát
Lượng.
Trong cuốn "Tùy thư” và "Đường thư”, đều có
ghi chép những tác phẩm của Gia Cát Lượng, như "Binh pháp”, "Luận tiền hán sự”,
"Hán thư âm”... Trong đó một số đã thất lạc, song những cuốn còn lại cũng khó
phán đoán là do Gia Cát Lượng viết. Trong những thư viện công hoặc riêng đời Tống,
Nguyên những ghi chép có liên quan đến Gia Cát Lượng rất nhiều, song phần lớn
do người đời sau mượn cớ viết ra.
Trong số đó nổi tiếng nhất là cuốn "Gia Cát
Vũ Hầu văn tập” do Trương Chú đời Thanh biên soạn.
Mục lục cuốn "Gia Cát thị tập” của Trần Thọ
có nhắc đến 24 thiên sách: Khai phủ tác mục, Quyền chế, Nam chinh, Bắc xuất, Kế
toán, Huấn lệ, Tổng yêu 1, Tổng yêu 2, Tạp ngôn 1, Tạp ngôn 2, Quí hoà, Binh yến,
Truyền vận, Thư gửi Tôn Quyền, Thư gửi Gia Cát Cẩn, Thư gửi Mạnh Đạt, Chuyện Lý
Bình, Pháp kiểm 1, Pháp kiểm 2, Khoa lệnh 1, Khoa lệnh 2, Quân lệnh 1, Quân lệnh
2, Quân lệnh 3.
Cộng tất cả là 24 thiên sách, gồm 10 vạn 4
nghìn 1 trăm 12 chữ. Cứ theo khảo xét mà Trương Chú đưa ra, trong thư dâng sách
của Trần Thọ, 24 thiên ghi ở tổng mục, trong đó có chiếu, biểu, sớ, nghị, thư,
lời chỉ bảo, lời răn, sắc lệnh, luận văn ghi chép, văn bia, ấn triện, các loại
này đều được ghi lại theo một thời điểm, mà không lấy văn thể để biên soạn, cho
nên cuốn Gia Cát Vũ Hầu tập hiện còn, về phần xếp sắp đề mục có những bất đồng
rất lớn.
Cuốn "Hoa Dương quốc chí” có chép: Ở thiên
sách "Khai phủ tác mục”, nói nhiều đến việc dùng người, cho nên bao gồm "Thư gửi
Tưởng Uyển”, "Thư gửi Đỗ Vỹ”, "Nói với Ngô Tế”...
Thiên "Quyền chế” bao gồm các bài "Chính
nghị”, "Thư gửi Pháp Chính”, "Thư gửi Tích Xá”..., nói nhiều đến triết học quản
lý chính trị của mình, có tính chất chính luận.
Thiên "Nam chinh” bao gồm "Chiến lệnh Nam
chinh”, "Nói về Nam chinh”, "can gián”..., là những bài viết có liên quan đến
cuộc chinh phạt Nam Trung.
Thiên "Bắc xuất” bao gồm "Chiếu thư phạt Ngụy”,
"Xuất Sư Biểu”, "Kỳ Sơn Biểu”, "Nhận lỗi ở Nhai Đình”.
Thiên "Kế toán” bao gồm "Ở Thảo Lư” "Thư
dâng lên Tiên đế”, "Biểu tấu”, "Thư gửi Bộ Chất”...
Thiên "Huấn lệ” gồm "Bát vụ”, "Thất giới”,
"Lục dục”, "Giới tử”...
Thiên "Tổng yên” gồm "Thư gửi Lý Nghiêm”,
"Thư gửi Trương Duệ”, "Nói về Khương Duy”...
Thiên "Tạp ngôn” gồm "Lương phụ Ngâm”, "Luận
tiền hán sự”, "Luận chư tử”...
Thiên "Quí hoà”, gồm "Luận về Cam Thích”,
"Khuyên tướng sĩ nhắc nhở cho mình”...
Thiên "Truyền vận” gồm "Trâu gỗ ngựa
máy”...
Thiên "Binh yếu” nay chỉ còn có 10 điều lệnh.
"Thư gửi Tôn Quyền” chỉ có 2 thiên sách.
"Thư gửi Gia Cát Cẩn” chỉ còn có 9 thiên
sách.
"Thư gửi Mạnh Đạt” hiện còn 2 thiên sách.
"Chuyện Lý Bình” gồm "Thư gửi Tưởng Uyển và
Đổng Doãn về chuyện Lý Nghiêm”, "Đàn hặc Lý Bình”...
Thiên "Pháp kiểu” gồm "Truy tôn Cam phu nhân
làm Chiêu liệt hoàng hậu”, "Phép làm bùa”, "Phép làm kiếm”... phần lớn bàn về
phương diện phát minh chế tạo vũ khí.
Thiên "Khoa lệnh” nói về "Bộ binh”, nói về
"Kỵ binh”...
Thiên "Quân lệnh” hiện còn 15 điều lệnh.
Ngoài ra còn có một số bài tản văn, đã được
Trần Thọ đưa vào, nếu không ở 24 thiên trên thực khó xác nhận.
Từ những ghi chép trên có thể thấy cuốn "Tiện
ghi” và "Tưởng Uyển” vẫn được coi là tác phẩm hoàn chỉnh về binh pháp của Gia
Cát Lượng có những phần không phải do ông viết ra.
Trương Chú khi biên tập cuốn "Gia Cát Vũ Hầu
văn tập”, ngoài những cuốn rõ ràng không phải do Gia Cát Lượng viết, cơ hồ bao
quát những tác phẩm của Gia Cát Lượng là sau này được nhắc đến theo truyền thuyết,
ông ta lấy thái độ bao dung rộng lớn mà tận lực thu thập, trong đó rất không được
các nhà sử học xem là tác phẩm thực sự của Gia Cát Lượng, các cuốn "Hậu Xuất Sư
Biểu”, "Tiện ghi” và "Tưởng Uyển”.
Văn tập này gồm 4 quyển, phần phụ lục có 2
quyển, phần ghi chép có 5 quyển.
Quyển thứ nhất ghi chép các chiếu thư và
công hàm.
Quyển thứ hai gồm thư từ và các ghi chép,
có không ít bất đồng với mục lục cuốn "Gia Cát thị tập” của Trần Thọ.
Quyển thứ ba là "Tiện ghi”, Trương Chú soạn
từ 16 cuốn sách của Gia Cát Lượng được ghi chép trong "Tùy thư”, tuy có một phần
nội dung tương tự với mục lục "Gia Cát thị tập”, song đại bộ phận không thấy ở
đấy, bởi thế có nhà sử học phán đoán người sau mượn danh Gia Cát Lượng viết ra.
Nội dung cuốn "Tiện ghi’’ tuy được nhập vào
phần binh pháp Gia Cát, thực ra phần lớn nói về chính trị, như thiên "Thủy kế”
của binh pháp Tôn Tử và thiên Đồ quốc của binh pháp Ngô Tử. Có thể là Gia Cát
Lượng nhiều năm trị quốc trị quân, những lời nói được ghi lại, rồi người sau chỉnh
lý mà thành, song nhìn chung mà nói, tin rằng đích xác là bút pháp của người
sau. Mười sáu cuốn sách đó là:
Trị quốc, Quân thần, Thị thính, Nạp ngôn,
Sát nghi, Trị nhân, Cử thố, Khảo truất, Trị quân, Thưởng phạt, Hỷ nộ, Trị loạn,
Giáo lệnh, Phán đoán, Tư lự, Âm sát.
"Tưởng Uyển” được ghi chép ở quyển bốn, thực
ra xét về tính chân thực so với "Tiện ghi” thì không phù hợp, chẳng những nội
dung phức tạp, kết cấu tản mạn, mà văn chương dại ý đều không thoát khỏi cách
nhìn của Tôn Tử, Ngô Tử, Lục Thao, Tam Lược, Úy Lạo Tử, không giông với bút
pháp của Gia Cát Lượng vốn giàu có sáng tạo.
Tuy trong "Tưởng Uyển” có không ít nội
dung, cũng tương tự với mục lục "Gia Cát thị tập” của Trần Thọ, song tuyệt đại
bộ phận là do những văn nhân đời sau thêm mắm muối chỉnh lý ra.
"Tưởng Uyển” và "Tiện ghi” có chỗ giống
nhau là đều soạn từ "Tùy thư”, bàn luận về đạo làm tướng, người đời sau gọi là
"Tân thư”, cuốn "Tứ khố đề yếu” ở đời Thanh có viết:
"Xem xét nội dung 50 thiên "Tưởng Uyển” phần
lớn được rút từ sách Tôn Tử, mà thêm vào những lời thô kệch bất cập, hẳn do người
nào đó viết ra”.
Năm mươi thiên "Tưởng Uyển” là:
Binh quyền, Trục ác, Nhân tính, Tướng vật,
Tướng khí, Tướng tệ, Tướng chí, Tướng thiện, Tướng kiêu ngạo, Tướng cường, Dẫn
quân, Chọn vật, Trí dụng, Bất trận, Tướng giới, Giới bị, Tập luyện, Quân đố,
Phúc tâm, Cẩn hận, Cơ hình, Trọng hình, Thiện tướng, Thẩm nhân, Binh thế, Thắng
bại, Giả quyền, Ai tử, Tam tân, Khinh chiến, Địa thế, Tình thế, Kích thế, Chỉnh
quân, Lệ sĩ, Hậu ứng, Tiện lợi, Ứng cơ, Suy năng, Tự gắng, Chiến đạo, Hoà nhân,
Xét tình, Tướng tình, Uy lệnh, Đông Di, Nam Man, Tây Nhung, Bắc Địch. Cuốn phụ
lục 1 và 2 đều nói đến những người đương thời bao gồm những chiếu thư hoặc thư
từ, bài tản văn, bình luận mà Lưu Bị, Pháp Chính, Lã Khởi gửi cho Gia Cát Lượng.
Phần ghi chép những câu chuyện cũ gồm 5 quyển
bao gồm những thiên "Gia Cát”, "Di Lưu”, "Dung người”, "Chế tác”, "Di tích”, là
những ghi chép lưu truyền ở các địa phương có tính dã sử cũng là những tư liệu
nghiên cứu về Gia Cát Lượng rất quan trọng.
Đánh máy: hoi_ls
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN, 2003 (Tái
bản lần II)
Nguồn: Vnthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 11 năm 2013