QUYỂN HẠ
GIÓ THU THỔI QUA GÒ NGŨ TRƯỢNG
THIÊN THỨ TÁM
DẤN THÂN TẬN TỤY
Chương XXX
CUỘC QUYẾT CHIẾN CUỐI CÙNG CỦA THỤC HÁN
Chung Hội tự biết không được triều đình Tào
Ngụy tín nhiệm, bèn bàn bạc với Khương Duy, muốn lợi dụng quân Thục và quân trực
thuộc của mình làm phản, kiên trì cố thủ Thục Trung, chiếm đất xưng vương.
Khương Duy ra sức khuyên Chung Hội, nhân thời
cơ giết chết các tướng phương bắc để tự bảo toàn. Lại phái người ám sát Chung Hội,
để mưu toan khôi phục nhà Hán.
1. Hình thái ba nước thời kỳ sau Gia Cát Lượng
Sau khi Gia Cát Lượng mất, nhân dân Thục
Trung nhớ ân đức, râm ran yêu cầu lập miếu thờ Gia Cát Lượng, song Lưu Thiện
cho rằng Gia Cát Lượng không phải hoàng tộc, lập miếu thờ không hợp với phép tắc,
không nghe theo. Song trăm họ vẫn nhớ ngày mất, tế cúng riêng cho Gia Cát Lượng
ở bên đường, quan lại cũng không quản lý được, chỉ mắt nhắm mắt mở mà thôi. Thế
rồi phong trào tế riêng ngày càng thịnh, lại vượt quá tế tự đối với Lưu Bị.
Bộ binh hiệu uý Tập Long dâng thư xin lập một
ngôi miếu ở gần mộ Gia Cát Lượng tại Miện Dương để chặn phong trào tế riêng,
tránh được ảnh hưởng phạm đến lễ phép quốc gia, Lưu Thiện đành phải nghe theo.
Lưu Thiện lệnh cho Tả tướng quân Ngô Ý thay
Nguỵ Diên chỉ huy phòng vệ Hán Trung, lại lệnh cho Vương Bình mang quân bảo hộ
giúp đỡ. Lại lấy Trưởng sử Tưởng Uyển làm Thượng thư lệnh, tổng quản việc quốc
sự, kiêm Thứ sử Ích Châu.
Năm sau Dương Nghi bởi tội phỉ báng nên bị
giam giữ, tự sát mà chết. Tưởng Uyển được thăng làm Đại tướng quân, Lục thượng
thư, Phí Vỹ thay Tưởng Uyển làm Thượng thư lệnh, chính thức thành lập lại chính
quyền Thục Hán sau thời kỳ Gia Cát Lượng.
Lúc đấy là năm Thanh Long thứ 3 đời Ngụy
Minh đế, tức là năm 235 sau Công Nguyên.
Viễn chinh nhiều năm, lại thêm chủ tướng từ
trần, tình hình trong nước không ổn định, Tưởng Uyển nghĩ muốn chinh phạt bên
ngoài ắt phải sớm yên được bên trong, ngoài việc phái Khương Duy tăng cường
phía bắc và phòng vệ tây bắc, vào giai đoạn này, Thục Hán không có hành động quy
mô lớn nào về chinh phạt.
Cho đến ba năm sau, vào năm 238 sau Công
Nguyên, Tưởng Uyển được thăng làm Đại Tư mã, lấy Khương Duy là Tư mã, đến đóng ở
Hán Trung, tích cực trù bị khôi phục việc bắc phạt.
Năm sau Ngụy Minh đế Tào Tuấn từ trần, dặn
lại lấy con nuôi là Tào Phương kế thừa đại quyền, và lệnh cho con Tào Chân là
Tào Sảng cùng với Tư Mã Ý làm đại thần phụ tá.
Bởi Tào Phương mới 8 tuổi, Đông Ngô và Thục
Hán đều cho rằng đây là cơ hội tốt, Đông Ngô phái chủ tướng đông chiến tướng
Toàn Tông đánh Hoài Nam, còn Khương Duy của Thục Hán thì từ Kỳ Sơn quấy nhiễu
biên giới, song không được gì mà đều phải rút quân.
Năm 241 sau Công Nguyên, năm thứ 3, Tưởng
Uyển đóng ở Hán Trung, ông ta đánh giá kỹ lưỡng đến cuộc bắc phạt của Gia Cát
Lượng từ năm Kiến Hưng thứ 6 về sau, đưa lên hậu chủ Lưu Thiện chiến thuật mới
của mình.
Ông ta cho rằng Gia Cát Lượng phần lớn lấy
Tần Lĩnh ở phía bắc và Kỳ Sơn ở tây bắc làm đường tiến công, đường xá hiểm trở,
vận chuyển bổ sung rất khó khăn. Chẳng bằng làm nhiều chiến thuyền, từ sông Hán
Thủy và Miện Thủy đánh sang phía đông, trực tiếp theo đường thủy tập kích các
vùng Ngụy Hưng, Thượng Dong, nếu lại phối hợp hành động với chiến tuyến ở phía
đông của Đông Ngô, ắt sẽ tạo ra áp lực rất lớn với Tào Ngụy. Tưởng Uyển có ý
giao phó mọi hành động, bèn phái Khương Duy về Thành Đô báo cáo với Lưu Thiện
cùng đánh giá tính khả thi của chiến lược này, gặp phải bệnh cũ tái phát, hành
động khó khăn, Tưởng Uyển phải tạm thời cho dừng kế hoạch lại.
Khương Duy ở Thành Đô cùng với Phí Vỹ
nghiên cứu tỉ mỉ, đều cho rằng theo đường thủy tiến sang phía đông, nếu rút lui
không dễ, hoặc không thuận lợi một chút, quân viễn chinh dễ bị đánh bại. Được
Lưu Thiện đồng ý, Thượng thư lệnh Phí Vỹ đi cùng với Khương Duy trở về Hán
Trung, để cùng Tưởng Uyển xem xét lại toàn diện kế hoạch trên.
Lúc này tình hình sức khoẻ của Tưởng Uyển
đã xấu đi, lại thêm khó khăn về phối hợp với Đông Ngô, cũng phải huỷ bỏ kế hoạch
tiến sang phía đông bằng đường thủy, bèn lấy Khương Duy làm Thứ sử Lương Châu,
đến đóng ở Phù Thành, tăng cường việc sửa sang chiến tuyến phía bắc.
Tháng 10 đã vào mùa đông, Tưởng Uyển đến
Phù Thành để thị sát, bệnh tình càng xấu đi, bèn hạ lệnh cho Thái thú Hán Trung
là Vương Bình làm Tiền giám quân, lại phong Trấn bắc Đại tướng quân thay ông ta
đôn đốc các đạo quân tiền tuyến.
Người cháu của Gia Cát Lượng, con của Gia
Cát Cẩn là Gia Cát Khác thống lĩnh quân đoàn chiến tuyến phía đông của Đông
Ngô, bắt đầu tiến hành công việc bắc phạt Tào Ngụy.
Tư Mã Ý rất chú ý đến sự uy hiếp của Đông
Ngô, tự dẫn đại quân đến quận Thư vùng Lư Giang, Tôn Quyền lệnh cho Gia Cát
Khác rút về Sài Tang, đề phòng đại quân Tào Ngụy tiến về phía nam.
Bởi Tưởng Uyển bệnh nặng, Lưu Thiện lệnh
cho Phí Vỹ làm Đại tướng quân, Lục thượng thư, tiếp quản đại quyền quân chinh
Thục Hán.
Năm 244 sau Công Nguyên, Tôn Quyền lấy Đại
tướng quân Lục Tốn làm tể tướng, vẫn giữ chức Kinh Châu mục, đôn đốc việc phòng
vệ ở chiến tuyến phía tây.
Đại tướng quân Tào Ngụy là Tào Sảng, muốn lập
uy danh với thiên hạ, đưa ra kế hoạch quân sự với qui mô lớn nam chinh thảo phạt
Thục Hán, Thái phó Tư Mã Ý khuyên mãi không nghe, khoảng tháng 3, Tào Sảng đến
Tràng An, hợp quân với đô đôc Hạ Hầu Huyền, dẫn 10 vạn binh mã, từ Lạc Côc tiến
vào Hán Trung.
Lúc này, Tưởng Uyển và Khương Duy đều ở Phù
Thành, quân giữ Hán Trung không đến 3 vạn người, các tướng lĩnh quân đoàn thảy
đều kinh hãi, đã chủ trương đóng cửa thành để đợi viện quân đến từ Phù Thành đến.
Vương Bình một mình một ý, ông ta nói: "Hán
Trung cách Phù Thành nghìn dặm đường xa, nếu như để đợi quân Tào Ngụy vào cửa ải,
sẽ tạo ra uy hiếp rất lớn. Chẳng bằng chủ động, xuất kích, hậu quân Lưu Mẫn cậy
hiểm cố thủ ở Hưng Thế Sơn, tôi tự mình bố phòng ở sau cửa ải, để biểu thị quyết
tâm chiến đấu của chúng ta trước kẻ địch, tuy binh lực rất ít, song ta có địa lợi,
trong thời gian ngắn khó đánh bại được chúng ta, như vậy, quân tiếp viện của
Phù Thành mới đến kịp được”.
Triều đình Thục Hán ở Thành Đô, cũng được
tin khẩn cấp từ tiển tuyến, Đại tướng quân Phí Vỹ tự mình dẫn quân đến chi viện.
Đại quân của Tào Sảng bị chặn ngoài cửa ải
Hưng Thế Sơn, lại thêm khó khăn về vận chuyển bổ sung, quân nam chinh lại rơi
vào nguy cơ.Tham mưu Dương Tuấn đề nghị lập tức rút quân, song các tướng lĩnh
quân đoàn như Đặng Dương, Lý Thắng đều cương quyết phản đối. Dương Tuấn nói lớn:
"Dương, Thắng làm hỏng việc quốc gia, khá chém đi!”. Tào Sảng ngần ngừ không
quyết.
Tư Mã Ý vội gửi thư cho Hạ Hầu Huyền, phân
tích tự mình đã từng tham dự chiến dịch Hán Trung cùng với Tào Tháo. Rất biết
rõ thời cơ chưa chín, nếu từ Quan Trung tiến vào Hán Trung rất bất lợi, huống
chi nay Thục Hán đã nắm được Hưng Thế Sơn hiểm trở, tùy lúc có thể chặt đứt đường
về của quân ta, không mau chóng hạ quyết tâm là rất nguy hiểm.
Hạ Hầu Huyền cả kinh lập tức báo cáo với
Tào Sảng, Tào Sảng mới lập tức rút quân, song Phí Vỹ đã đánh vào vùng Tam Lĩnh
(Trầm Lĩnh, Nha Lĩnh, và Phân Thủy Lĩnh), chặn đứt đường rút của Tào Sảng, nhìn
chung quân nam chinh bị tổn thất nghiêm trọng, tình hình Quan Trung bị ảnh hưởng
rất lớn, địa vị của Tào Sảng cũng xuống thấp.
Tưởng Uyển bị bệnh nặng, nhường chức quyền
cho đại tướng Phí Vỹ, Lưu Thiện lấy Phí Vỹ làm Thứ sử Ích Châu, cũng lấy Đổng
Doãn làm Thượng thư lệnh để giúp đỡ.
Tháng 11 Tưởng Uyển từ trần, Phí Vỹ đến Hán
Trung xem xét kỹ hệ thống phòng vệ.
Tháng 12, Đổng Doãn đang giữ Thành Đô ngã bệnh
từ trần, trong lúc khẩn cấp Lưu Thiện đề bạt Thượng thư Lã Nghệ làm Thượng thư
lệnh.
Đổng Doãn cá tính nghiêm nghị, hết lòng vì
việc công, đến như Lưu Thiện cũng phải nể sợ. Lưu Thiện rất ái mộ hoạn quan
Hoàng Hạo, song Đổng Doãn đang ở triều đình thì Hoàng Hạo không dám làm bừa,
trong thời gian Đổng Doãn còn sống, Hoàng Hạo về quan chức không vượt qua chức
Hoàng môn thừa.
Phí Vỹ cá tính ôn hoà, thiếu sự kiên quyết
như Tưởng Uyển và Đổng Doãn, cứ theo yêu cầu của Lưu Thiện lấy Trần Chi thay Đổng
Doãn làm Thị trung. Trần Chi bên ngoài có vẻ uy nghi, nhiều tài nghệ, có mưu
trí nên Phí Vỹ ngộ nhận là Trần Chi có tài như Đổng Doãn. Song Trần Chi chỉ tốt
mã mà thôi, ông ta với Hoàng Hạo đắp đổi trong ngoài, khiến Hoàng Hạo có cơ hội
can thiệp vào triều chính, làm đến Trung thường thị.
Kể từ Gia Cát Lượng mất đến khi Tưởng Uyển
mất là 11 năm (năm 234 đến năm 245) tình hình ba chân đỉnh Tam quốc không có biến
động lớn, Thục Hán thực lực tuy yếu, song dựa vào địa lợi Tần Xuyên, lại thêm
Gia Cát Lượng bồi dưỡng không ít nhân tài, về chính trị, quân sự, kinh tế đều
có thực lực, nếu Tào Ngụy và Đông Ngô đều nhân cơ hội Gia Cát Lượng mất và muốn
giành thắng lợi là không dễ dàng.
Tôn Quyền có danh tướng Lục Tốn phụ tá, thực
lực lại càng mạnh. Người con của Gia Cát Cẩn là Gia Cát Thuộc sau khi nắm quyền
ở đông chiến tuyến, tích cực sửa sang việc bắc phạt, khiến quan hệ hai bên mười
mấy năm bình lặng trở nên đối đầu, ngày mỗi căng thẳng, Trái lại giữa Tương
Dương - Giang Lăng do danh tướng Lục Tốn chỉ huy, lại chẳng hề có chiến sự gì.
Thực ra, biến đối lớn nhất là chính quyền
Tào Ngụy có diện tích rất lớn, thực lực lại mạnh. Ngụy Minh đế Tào Tuấn mất lúc
35 tuổi, do không có con lấy con nuôi là Tào Phương kế thừa. Tuy có người con của
Tào Chân là Tào Sảng phụ tá, song tính hợp pháp của việc Tào Phương kế thừa rất
yếu, Tào Sảng lại quá trẻ thiếu kinh nghiệm, đại quyền quân chính dần dần rơi
vào tay Tư Mã Ý cả.
Thế lực họ Tào bất mãn với sự khuếch đại lực
lượng của họ Tư Mã, đấu tranh giữa hai bên càng thêm ác liệt, cũng ảnh hương đến
sự thống nhất của Tào Ngụy không ít.
2. Chính quyền ba nước phát sinh biến hoá
Chính quyền Thục Hán sau năm 246 bắt đầu có
cải biến lớn.
Phí Vỹ có tài năng học thức, tuy được lựa
chọn đột xuất, song hiệu suất công tác còn vượt cả Gia Cát Lượng và Tưởng Uyển.
Là người có cá tính ôn hoà, ông ta có nhiều nhân nhượng trước việc quá cương kỷ,
sự nghiêm minh pháp trị và phong cách thanh liêm mà Gia Cát Lượng và Tưởng Uyển
xây dựng và duy trì đã dần dần bị phá hoại, vấn đề trong chính quyền Thục Hán
tàng thêm nhiều, sự thống nhất lực lượng yếu dần đi.
Ở triều đình Thục Hán, các đại phu lấy Đại
ti nông Mạnh Quang làm chính, đương nhiên cùng thấy rằng đây là nguy cơ, họ đề
nghị lấy Khương Duy làm Vệ tướng quân, cùng với Phí Vỹ làm Lục thượng thư, song
đê cũ lắm lỗ hổng đã thấy phá ra, muốn khôi phục phong thái chính trị ngày xưa
cũng không thể được.
Đại học giả hàng đầu của Thục Hán là Tiêu
Chu ra sức khuyên hậu chủ Lưu Thiện thi hành tiết kiệm, bỏ không khí hội hè ca
hát, lại bị Lưu Thiện cự tuyệt ngay ở triều đình.
Ở Đông Ngô, Lục Tốn bị bệnh từ trần, Bộ Chất
kế nhiệm làm Thừa tướng, Uy bắc tướng quân Gia Cát Khác làm Đại tướng quân thay
thế Lục Tốn trấn giữ Vũ Xương, phụ trách phòng vệ tây chiến tuyến của Đông Ngô.
Gia Cát Khác nóng vội muốn bắc phạt, song Tôn Quyên tuổi cao có xu hướng bảo thủ,
Đông Ngô ở giai đoạn này, chẳng có việc gì nổi trội.
Hai năm sau vào năm 248 sau Công Nguyên,
sau khi Phí Vỹ kế tục Tưởng Uyển, lại ra đóng đồn ở Hán Trung, trù bị việc bắc
phạt. Duy có một điểm khác trước là Phí Vỹ không giữ binh mã của phe mình ở
Thành Đô. chỉ lấy phương thức chỉ huy đại cục từ xa mà khống chế. Phí Vỹ vắng mặt,
không khí của triều đình Thục Hán lại càng xấu đi.
Đại tướng quân Tào Sảng của Tào Ngụy sau
khi mất chủ quyền khống chế ngày càng kiêu sa vô độ, về y phục, ăn uống đều có
chỗ vượt quyền, lại thêm tửu sắc quá mức, cuối cùng bị lão thần Tư Mã Ý cùng
các con là Hộ quân Tư Mã Sư, Tấm kỵ thường thị Tư Mã Chiêu lập kế giết đi, thực
lực của họ Tào trong chiến quyền mau chóng giảm sút.
Một phái quan trọng khác là họ Hạ Hầu cũng
bị họ Tư Mã gạt bỏ nghiêm trọng, những người con của Hạ Hầu Uyên như Chinh tây
tướng quân Hạ Hầu Huyền, Tả tướng quân Hạ Hầu Bá đều rơi vào nguy cơ lớn.
Bè phái Tư Mã Ý bao gồm cả Chinh tây tướng
quân Quách Hoài, Thứ sử Ung Châu Trần Thái, dần dần giành địa vị chính. Hơn nữa
các tướng lĩnh của phái Thiếu Tráng được Tư Mã Ý đặc biệt đề bạt, trong đó Thái
thú Nam An là Đặng Ngải có biểu hiện đột xuất nhất, đã dần dần nắm được lực lượng
chính ở Quan Trung.
3. Khương Duy bắc phạt
Năm 249 sau Công Nguyên tức là 15 năm sau
khi Gia Cát Lượng từ trần, Vệ tướng quân Khương Duy xứng đáng là đệ tử của Gia
Cát Lượng, sau 3 năm sửa sang ở Hán Trung, bắt đầu chuẩn bị tích cực việc bắc
phạt.
Tuy phụ trách ngăn cản Khương Duy là Lão tướng
Quách Hoài, song Đặng Ngải cũng mang quân Quan Trung tham gia vào chiến trường
này, triển khai cuộc đối trận ác liệt kéo dài suốt mười mấy năm giữa Khương Duy
và Đặng Ngải.
Mùa thu năm đó, Khương Duy dẫn quân tiến
vào vùng Ung Châu, ở vùng Khúc Sơn trước đó đã cho dựng hai thành lũy, do Nha
môn tướng Câu An và Lý Hân giữ. Bởi Khương Duy với Khương tộc ở Lương Châu có
quan hệ tốt, nên các thủ lĩnh bộ lạc ở vùng Ung, Lương đều phản lại Ngụy mà
giúp Thục, thanh thế rất lớn. Tư Mã Ý lệnh cho Trần Thái và Quách Hoài dẫn quân
đến chi viện.
Trần Thái cho rằng Khúc Thành tuy cậy hiểm
cố thủ, song cách đất Thục quá xa, lương thảo bổ sung khó khăn, mà quân Khương
thì ô hợp, chẳng thể phối hợp chặt chẽ, nên cần trực tiếp bao vây, lại chia
quân cắt đứt đường vận chuyển, như thế thì quân Thục ắt sẽ bị thất bại.
Quách Hoài cũng tán thành cách nhìn nhận ấy,
phái Đặng Ngải đến bao vây Khúc Thành, Trần Thái đánh vào tuyến vận chuyển của
hộ quân Từ Chất, chặt đứt hữu hiệu đường rút lui.
Câu An thấy quân Đặng Ngải đến, để tránh trở
thành cô lập, bèn chủ động dẫn quân ra ngoài thành giao chiến, song Đặng Ngải lại
dựa vào địa lợi phía ngoài thành mà xây dựng công sự phòng ngự, để cắt đứt
thành với bên ngoài. Điều đó dẫn đến tình hình khó khăn cho quân Thục khi mùa
đông đến, quân lương bổ sung không đủ sẽ tạo thành bất lợi mà lo lắng không
thôi.
Khương Duy nhận được báo cáo, dẫn quân ra
núi Ngưu Đầu, muốn chi viện cho Lý Hân và Câu An. Trần Thái bầy trận ở phía bắc
sông Thảo Thủy, ngăn chặn đại quân Khương Duy.
Giông như chiến thuật của Đặng Ngải, Trần
Thái cũng không muốn quyết chiến với Thục, ông ta nói với các tướng sĩ rằng:
"Binh pháp quý nhất ở chỗ không đánh mà khuất phục được quân của người ta,
Khương Duy tuy giầu mưu trí, song binh lực không nhiều, ắt chẳng thể tiến đánh,
chẳng bằng chia quân trực tiếp chiếm lấy núi Ngưu Đầu, cắt đứt đường rút, đánh
vào tinh thần binh sĩ, ắt sẽ bắt được Khương Duy”.
Bởi thế hạ lệnh đối mặt với quân Khương
Duy, xây dựng trận địa phòng ngự, không giao chiến với quân Thục, lại yêu cầu
Quách Hoài phái quân đánh núi Ngưu Đầu, cắt đứt đường rút của Khương Duy.
Khương Duy thấy đại thế bất lợi, hạ lệnh
rút quân, Khúc Thành lập tức bị cô lập, Câu An, Lý Hân phải đầu hàng, các bộ lạc
người Khương phụ giúp cũng bị bức rút về vùng núi. Đặng Ngải sau khi chiếm được
Khúc Sơn bèn nói với Trần Thái, quân chủ lực của Khương Duy chưa hề bị bẻ gãy, ắt
sẽ mau chóng quay trở lại, không gì bằng đóng đồn ở phía bắc Bạch Thủy, để ngăn
chặn triệt để quân Thục tiến về phía bắc.
Ba ngày sau quả nhiên Khương Duy phái Liêu
Hoá tấn công vào quân Đặng Ngải ở Bạch Thủy. Đặng Ngải tự mình đến quan sát tiền
tuyến có nói: "Quân Liêu Hoá nhiều hơn quân ta, lại không vội vượt sông hoặc
làm cầu, chắc là nghi binh vậy, Khương Duy ắt sẽ dẫn quân chủ lực đánh vào Thao
Thành, để lại tập kích vào vùng Ung Châu”.
Thao Thành cách Bạch Thủy 60 dặm, Đặng Ngải
hạ lệnh thâu đêm khẩn cấp hành quân, đến được Thao Thành sớm hơn Khương Duy, liền
tăng cường việc phòng ngự. Quả nhiên Khương Duy dẫn quân chủ lực đánh vào Thao
Thành, song không tiến triển được, đành phải rút về Hán Trung, kết thúc chiến dịch
bắc phạt lần thứ nhất với quy mô lớn.
Năm sau, Quách Hoài được thăng làm Quân kỵ
tướng quân, Đặng Ngải cũng trở thành quân chủ lực của chiến tuyến phía tây ngăn
chặn Khương Duy.
Cuối năm đó, Khương Duy lại tiến ra Tây
Bình, song Đặng Ngải đã tăng cường phòng thủ, không được gì mà phải rút lui.
Tháng 8 năm sau (năm 251 sau Công Nguyên),
Tư Mã Ý qua đời, Vệ tướng quân Tư Mã Sư làm Phủ quân đại tướng quân, Lục thượng
thư.
Tháng 12, Đại tướng quân Phí Vỹ trở vể
Thành Đô, song không khí Thành Đô đã bại hoại, Phí Vỹ không đủ sức nắm giữ,
đành trở về Hán Thọ đóng đồn, để bình tĩnh suy nghĩ cách đối phó.
Tháng sau, Thượng thư Lã Nghệ từ trần, Thị
trung Trần Chi tiếp nhiệm, Hoạn quan Hoàng Hạo nhờ vậy mà thanh thế càng lớn.
Năm 252 sau Công Nguyên, Tư Mã Sư được
thăng làm Đại tướng quân, so với người cha lại càng nghiêm chỉnh dốc toàn lực nắm
lấy quân quyền Tào Ngụy.
Tháng 2, Đại đế Tôn Quyền từ trần, Thái tử
Tôn Lương lên nối ngôi, lấy Gia Cát Khác làm Thái phó, Đằng Dận làm Vệ tướng
quân, Lã Đại làm Đại tư mã cùng phụ tá việc nước.
Gia Cát Khác tự ý tự động, lại học theo người
chú Gia Cát Lượng nổi tiếng đương thời, nóng nẩy phát động việc bắc phạt, tạo
thành tình hình chính trị trong nước Ngô sôi động không yên.
Năm 253 sau Công Nguyên đại tướng quân Phí
Vỹ và các chư tướng phòng vệ Hán Trung cùng dự tiệc ở Hán Thọ. Phí Vỹ cá tính
ôn hoà, vẫn không kể phe phái này nọ, bởi thế mà xem thường việc phòng vệ. Đang
lúc uống rượu say, bị hàng tướng của Tào Ngụy là Quách Tuần mưu sát mà chết.
Lúc đầu, Khương Duy tự cho rằng rất thân
thuộc với dân tộc thiểu số Lương Châu, muốn nhờ giúp đỡ của bộ lạc Khương Hồ, tập
kích Lũng Tây, mỗi lần mang đại quân ra Kỳ Sơn bắc phạt, chủ soái Phí Vỹ đều
không tán thành.
Phí Vỹ nói: "Ta thực kém xa Thừa tướng Gia
Cát Lượng. Thừa tướng Bắc Kinh còn không được như ý muốn, huống chi là ta? Chỉ
bằng lo dân giàu nước mạnh, giữ yên xã tắc, đợi người sau làm giỏi hơn chúng ta
mọi việc! Vội vã quyết thắng bại với kẻ địch, nếu nhỡ ra thất bại ắt sẽ dao động
phần nền móng quốc gia, có hối cũng là muộn vậy”.
Thực ra Phí Vỹ nói vậy chỉ cốt cho qua chuyện,
đại bản doanh Thành Đô triều chính bại hoại, việc chi viện hậu cần không thuận
lợi, muốn phát động đại quân viễn chinh đâu có dễ dàng. Bởi thế Phí Vỹ thường đều
cung cấp cho Khương Duy không quá một vạn quân. Khương Duy tuy oán hận song
cũng không biết làm sao.
Phí Vỹ từ trần, quân đoàn Hán Trung như rắn
không đầu, đều do Khương Duy thống lĩnh. Thiếu mất sự điều tiết của Phí Vỹ,
Khương Duy lập tức tập kết mấy vạn binh lực, từ Vũ Đô kéo ra đánh Lũng Tây, chủ
yếu là vị trí Địch Đạo.
Năm đó Gia Cát Khác từ đông chiến tuyến đến
đóng ở Hoài Nam, tháng 5 cho quân vây Tân Thành, Tư Mã Sư lệnh cho Thái uý Tư
Mã Phu dẫn 20 vạn quân đối phó với Gia Cát Khác, lại lệnh cho Quách Hoài, Trần
Thái dẫn quân Quan Trưng dốc hết lực lượng, đến giải vây cho Địch Đạo.
Trần Thái vẫn lấy chiến thuật tường chắn đối
phó với Khương Duy, quả nhiên như Phí Vỹ dự liệu, hậu cần quân Thục suy yếu dần,
chẳng bao lâu Khương Duy hết lương phải rút quân về.
Đại quân Tào Ngụy ở đông chiến tuyến cũng
dùng sách lược kiên trì phòng thủ, Gia Cát Khác đánh mạnh mấy tháng, không thấy
hiệu quả, lại bởi lương thực thiếu thốn, dịch bệnh tràn lan, trong khi rút quân
phải chịu tổn thất rất lớn, danh tiếng Gia Cát Khác xuống rất thấp, không lâu bị
Tôn Tuấn mưu sát, gia tộc đều bị liên lụy, tan nát cả.
Về chính quyền Tào Ngụy sau khi Tư Mã Ý mất,
họ Tào, họ Hạ Hầu cùng với họ Tư Mã đã đấu tranh với nhau ngày càng kịch liệt.
Tư Mã Sư sau khi đánh bại được Khương Duy và Gia Cát Khác có ưu thế rất lớn.
Quân họ Tào có kế hoạch làm phản đoạt quyền
song âm mưu bị bại lộ, chủ tướng Hạ Hầu Huyền, Trung thư lệnh Lý Phong đều bị bắt
giữ, chu di tam tộc. Người con của Hạ Hầu Uyên là Hạ Hầu Bá dẫn quân trực thuộc
đầu hàng Thục Hán, năm sau tức là 254 sau công nguyên. Tư Mã Sư phế truất Ngụy
chủ Tào Phương, lấy Hương công Tào Mao làm Ngụy chủ, chính quyền họ Tào đến đây
chỉ còn là bù nhìn mà thôi.
4. Khương Duy lại ra Kỳ Sơn.
Nhân cơ hội nội bộ quân Tào Ngụy rối loạn,
Khương Duy lại chiếm đánh Địch Đạo, rồi đánh ra vùng Hà Gian, Lâm Thao. Tướng
Ngụy là Từ Chất dẫn quân Quan Trung đến chi viện, hai bên giao chiến ở Hà Gian,
quân Thục đại bại, Đãng Khấu tướng quân Trương Nghi bị tử trận, Khương Duy lại
vứt bỏ Địch Đạo, rút về Vũ Đô ở phía nam.
Đại thống lĩnh quân Quan Trung là Quách
Hoài tử trận, Thứ sử Ung Châu là Trần Thái kế nhiệm.
Trấn đông tướng quân của Tào Ngụy là Vô
Khâu Kiệm, liên hợp với Thứ sử Dương Châu Văn Khâm nắm binh biến, muốn trả thù
cho Hạ Hầu Huyền. Tư Mã Sư dẫn quân thảo phạt. Vô Khâu Kiệm bị bắt, chu di tam
tộc. Văn Khâm dẫn quân đầu hàng Đông Ngô. Cũng tháng ấy Tư Mã Sư đột nhiên ngã
bệnh từ trần, được Thị lang Chung Hội giúp đỡ, em Tư Mã Sư là Tư Mã Chiêu nắm
được đại quyền chính, đảm nhiệm chức đại tướng quân, Lục thượng thư.
Tháng 7 đầu mùa thu, Khương Duy lại chuẩn bị
xuất chính bắc phạt, Chinh tây tướng quân Trương Dực ra sức khuyên can hãy nghĩ
đến nước nhỏ dân nghèo không nên chinh chiến mãi. Khương Duy không nghe, lại
cùng với Quân kỵ tướng quân Hạ Hầu Bá mới đầu hàng và Trương Dực dẫn mấy vạn
quân ra Kỳ Sơn. Tháng 8 đánh chiếm Phu Hãn, chuẩn bị lại đánh Địch Đạo.
Tướng quân Trần Thái tổng chỉ huy quân Quan
trung tự mình dẫn đại quân ngăn chặn. Thứ sử Ung Châu là Vương Kinh giao chiến
với Khương Duy ở Thao Tây; bị Khương Duy đánh cho đại bại, Trần Thái thấy tình
thế bất lợi, rút về giữ thành Địch Đạo, mặt khác vội xin Lạc Dương chi viện.
Trương Dực thấy lương thảo bổ sung ngày mỗi
khó khăn, ra sức đề nghị rút quân: "Hãy mau dừng lại, không nên tiến nữa, có thể
sẽ hỏng mất việc lớn, lại vẽ rắn thêm chân”. Khương Duy không nghe vẫn dẫn đạo
quân bao vây thành Địch Đạo.
Chiến bại ở Thao Tây, lại thêm lời hiệu triệu
chính trị của Hạ Hầu Bá gửi cho quân Tào Ngụy khiến tình hình Lạc Dương lay động.
Tư Mã Chiêu hạ lệnh cho Trưởng thủy Đặng Ngải làm An tây tướng quân, từ Tràng
An, xuất phát đến giúp Trần Thái ngăn chặn Khương Duy, lại lệnh cho Thái uý Tư
Mã Phu dẫn hai mươi vạn tinh binh đóng giữ Tràng An để làm hậu thuẫn. Kể từ mấy
lần Khương Duy bắc phạt đến nay, lần này đạt thành tích cao nhất.
Sau thất bại của Vương Kinh, Trần Thái lập
túc dẫn quân chủ lực chạy đến Lũng Tây này, các tướng lĩnh đều cho rằng Khương
Duy thế càng lớn, nên tạm tránh đi, đợi quân tiếp viện của Đặng Ngải và Tư Mã
Phu đến kịp sẽ lại đối đầu, song Trần Thái gạt đi. Ông ta cho rằng Khương Duy
đơn độc thâm nhập, rất muốn đánh mau thắng mau, Vương Kinh lẽ ra nếu kiên trì cố
thủ với tường cao hào sâu, lại cậy dũng mãnh tiến hành giao chiến, cuối cùng thất
bại; Khương Duy thừa thắng tiến sang Ung Châu đánh chiếm kho lương Nhạc Dương,
nếu như để ông ta giành được lương thực ở đấy, ắt sẽ liên hệ với bộ lạc Khương,
Hồ, tiến hành chiến thuật trường kỳ, thì Lũng Tây, Nam An, Thiên Thủy, Quảng Ngụy
cả bốn quận sẽ bị uy hiếp nghiêm trọng, đối với quân ta là rất không thuận lợi;
đạo lý của binh pháp là phải nắm được chỗ mong muốn và chỗ lo sợ của kẻ địch,
nay nên tận lực ngăn cản họ sang phía đông, cắt đứt đường rút, ắt sẽ bức quân
viễn chinh Khương Duy phải rút lui về.
Bởi thế tự mình dẫn binh mã, dốc hết lực lượng
đến chi viện cho thành Địch Đạo đang bị bao vây. Khương Duy thấy Trần Thái dẫn
quân đến, có ý muốn đánh ngay, song quân Tào Ngụy có ưu thế nhân hoà và địa lợi,
Khương Duy không thuận lợi bằng, lại sợ Trần Thái chia quân cắt đứt đường rút,
lại phối hợp với quân trong thành Địch Đạo ba mặt cùng giáp kích, như vậy quân
Thục sẽ rất bất lợi; lại thêm được tin đại quân Tào Ngụy sẽ đến tăng viện, bèn
hạ lệnh rút về Chung Đề ở giữa Lương Châu và Hán Trung.
Năm sau, tức là năm 256 sau Công Nguyên,
vào mùa xuân, Khương Duy chính thức đảm nhiệm chức Đại tướng quân nắm đại quyền
quân chính Thục Hán. Thực ra chính sự trong triều đình, cơ hồ đã hoàn toàn rơi
vao tay Trần Chi và Hoàng Hạo, Khương Duy nói chung chẳng thể vượt qua, thậm
chí vẫn đề hậu cần của quân viễn chinh ở tiền tuyến cũng không đủ sức giải quyết.
Các tướng Quan Trung tuy cho rằng Khương
Duy lực lượng đã yếu, không có thể lại dẫn quân ra Kỳ Sơn. Chỉ có Đặng Ngải một
mình một ý, ông ta phán đoán Khương Duy động binh nhiều năm song chưa gặp phải
thất bại lớn, tuy lương thực bổ sung còn khó khăn, song binh lực khá đầy đủ, lại
có bộ tộc Khương, Hồ giúp đỡ, trừ khi sự phòng vệ ở tuyến Ung, Lương có cải thiện
về thực chất, nếu không ông ta nhất định sẽ lại mạo hiểm, để tiếp tục chiến lược
đánh chiếm Lương Châu của Gia Cát Lượng.
Quả nhiên, đến mùa thu, Khương Duy dẫn quân
lại ra Kỳ Sơn, song Đặng Ngải đã hoàn chỉnh được việc phòng vệ ở cửa ải Kỳ Sơn.
Khương Duy dự tính không đủ sức đột phá, bèn quyết định từ Đông Đình tập kích
quận Nam An, chẳng ngờ Đặng Ngải sớm đã tiến vào đường Vũ Thành Sơn xây dựng
thành lũy, Khương Duy bị ngăn cản không khỏi cả giận, bèn nhân đêm tối vượt qua
sông Vị Thủy sang phía đông, theo đường núi đến Thượng Nhai, Đặng Ngải dẫn chủ
lực đuổi theo, hai bên giao chiến lớn ở Đoàn Cốc.
Do đội quân của tướng quân Hồ Tế lạc đường,
chưa thể kịp thời đến được chiến trường, quân chủ lực của Khương Duy bị đánh bại,
tử vong rất lớn, kể từ chiến dịch núi Ngưu Đầu đến nay, đây là thất bại lớn nhất
của Khương Duy khiến lòng người Thục Trung rất dao động. Khương Duy học theo
hành vi chiến lược của Gia Cát Lượng sau chiến dịch Nhai Đình, tự xin hạ chức,
Lưu Thiện hạ lệnh giáng xuống làm Vệ tướng quân, song chỉ trên danh nghĩa mà
thôi.
Trái lại, Đặng Ngải bởi có chiến công lớn
được thăng làm Trấn tây tướng quân, đôn đốc việc quân sự ở Lũng Hữu.
Tư Mã Chiêu đảm nhiệm Đại đô đốc, lấy Tư Mã
Phu làm Thái phó. Cao Nhu làm Thái úy, phe Tư Mã hoàn toàn nắm đại quyền quân
chính Tào Ngụy, họ Tào ỏ triều đình xem ra không còn vai trò gì.
Ở Đông Ngô, Tôn Tuấn chết đột ngột, người
em là Tôn Lâm kế tục nắm đại quyền, tháng 11 được thăng làm Đại tướng quân.
Ở chiến tuyến phía đông của Tào Ngụy, tổng
chỉ huy là Đại tướng quân Gia Cát Đản, ông ta là bạn thân của Hạ Hầu Huyền. Sau
khi Hạ Hầu Huyền chết, Gia Cát Đản rất không yên tâm, lại thêm người con của Giả
Quì là Giả Sung, người con của Nhạc Tiến là Nhạc Lâm ra nhập trận tuyến họ Tư
Mã, thường vẫn gây áp lực với Gia Cát Đản. Gia Cát Đản bất mãn với Giả Sung và
Nhạc Lâm đã a dua, cuối cùng đã trách mắng Giả Sung tại chỗ, lại trừ diệt Nhạc
Lâm, mang 10 vạn quân Hoài Nam và Hoài Bắc làm phản, lại đưa con trai là Gia
Cát Tịnh sang Đông Ngô làm con tin, yêu cầu Đông Ngô cử binh tiếp viện.
Tư Mã Chiêu dẫn quân thảo phạt Gia Cát Đản.
Đông Ngô phái các tướng Toàn Dịch, Toàn Đoan, Đường Tư, Vương Tộ phối hợp với
hàng tướng Tào Ngụy là Văn Khâm đến giúp Gia Cát Đản.
Khương Duy được tin Tư Mã Chiêu lệnh cho
quân Quan Trung chia ra cứu viện cho Hoài Nam, lập tức nhân cơ hội tiến quân ra
Tần Xuyên. Ông ta dẫn mấy vạn đại quân qua Lạc Cốc đến Trầm Lĩnh, dự định đoạt
lấy kho lương ở vùng Quan Đông, song Đặng Ngải phối hợp với Tư Mã Vọng lấy số
ít binh lực cậy hiểm cố thủ. Khương Duy đóng quân ở Mang Thủy mấy lần khiêu chiến
Tư Mã Vọng và Đặng Ngải đều làm ngơ, Khương Duy chẳng tìm được cách gì.
Tôn Lâm dẫn đại quân tiếp viện giúp đỡ cho
Gia Cát Đản và Văn Khâm lại bị Tư Mã Chiêu đánh bại, quân Gia Cát Đản và Văn
Khâm cuối cùng bị quân Tào Ngụy bao vây trùng điệp.
Do thiếu thốn lương thực, Gia Cát Đản và
Văn Khâm mâu thuẫn với nhau, Văn Khâm bị giết, người con là Văn Ương dẫn quân đầu
hàng Tư Mã Chiêu. Tư Mã Chiêu chẳng những xá tội cho tàn quân của Văn Khâm, còn
cho Văn Ương và người em là Văn Hổ làm tướng quân. Tàn quân trong thành nghe
tin cơ hồ đều đứng lên làm phản, Gia Cát Đản bị thuộc hạ giết chết.
Khương Duy nghe nói Tôn Lâm và Gia Cát Đản
đều bị Tư Mã Chiêu đánh bại, lại sợ quân Tào Ngụy thừa thắng đến đánh Thục Hán,
lập tức rút quân về Thành Đô, bố trí lại phòng ngự.
Tư Mã Chiêu lần này giành được toàn thắng
là nhờ được Chung Hội vạch kế hoạch. Chung Hội bởi thế mà được trọng dụng. Người
bấy giò xem như là đại quân sư Trương Lương đời Hán ngày xưa.
Tư Mã Chiêu lấy quân công mà tấn phong Tướng
quốc, được hưởng lộc Cửu Tích, quyền quý có thế ví với Tào Tháo đời Hán Hiến đế.
Tôn Lâm phế bỏ Ngô chủ Tôn Lượng, đón Lang
nha vương Tôn Hưu đưa lên làm Ngô Vương.
Tháng 12 Tôn Hưu được sự giúp đỡ của người
con Trương Chiêu là Trương Bố, đánh giết được Tôn Lâm, nắm lại được đại quyền
Đông Ngô.
Năm sau Thượng thư lệnh Trần Chi kết bè
cánh với Hoàng Hạo làm suy bại không khí chính trị triều đình Thục Hán đã từ trần,
được sự tiến cử tích cực của Khương Duy, Lưu Thiện lấy Đổng Quyết làm Thượng
thư lệnh, người con của Gia Cát Lượng là Gia Cát Chiêm làm phụ tá, tăng cường
cách tân và chỉnh đốn chính trị song cũng đã muộn, thành tích không được rõ
ràng. Năm đó để chỉnh đốn nội bộ, Khương Duy tự mình ở lại trấn giữ Thành Đô,
không động binh với bên ngoài.
Năm sau tức là năm 260 sau Công Nguyên, vào
mùa hạ, tướng quốc Tào Ngụy là Tư Mã Chiêu tự phong là Tấn Công. Ngụy chủ Tào
Mao có âm mưu bãi truất quyền hành của Tư Mã Chiêu, lại bị một viên tướng bên
phe Tư Mã Chiêu ám sát, Tư Mã Chiêu hạ lệnh trừng phạt bè đảng Tào Mao, đón
Hương công Tào Hoán làm Ngụy chủ, gọi là Nguyên đế.
Tháng 10 đầu mùa đông, Lưu Thiện lấy Đổng
Quyết làm phụ quốc đại tướng quân, Gia Cát Chiêm làm Vệ tướng quân, cùng lĩnh
chức Lục thượng thư, lại lấy Thị trung Phàn Kiến làm Thượng thư lệnh. Ba người
tuy một lòng vì đại sự, song bè đảng của Trung thường thị Hoàng Hạo đã mạnh, có
nhiều sĩ đại phu hùa theo. Đổng Quyết với Gia Cát Chiêm, Phàn Kiến tâm có dư mà
lực không đủ, nên việc cách tân không đạt hiệu quả tốt đẹp.
Qua hai năm chuẩn bị, tháng 8 năm 262 sau
Công Nguyên, đại tướng quân Khương Duy lại chuẩn bị bắc chinh lần nữa. Tướng
quân Liêu Hoá cho rằng Thục Hán đã không còn thực lực, chỉ nên tăng cường bố
phòng, không nên xuất chinh.
Khương Duy bởi xung đột với Hoàng Hạo ngày
càng lớn không muốn ở lại Thành Đô, nên vẫn kiên quyết xuất quân. Đương nhiên
Khương Duy biết rõ việc hậu cần của quân Thục Hán kém, sức tác chiến đã thoái
hoá, bởi thế đã lựa chọn vùng Thao Dương phòng thủ yếu kém làm mục tiêu tấn
công. Chẳng ngò Đặng Ngải lại dùng chiến thuật phòng thủ không sơ hở, Khương
Duy bất đắc dĩ phải giao chiến với quân chủ lực của Đặng Ngải ở Hầu Hoà, tình
hình lúc đầu không thuận lợi, Khương Duy phải rút quân về Đạp Trung.
Hữu tướng quân Dương Vũ với Hoàng Hạo có âm
mưu muốn phế truất chức của Khương Duy. Khương Duy thì đề nghị giết Hoàng Hạo,
hậu chủ Lưu Thiện vẫn mơ hồ một mực làm ngơ. Khương Duy sợ bị Hoàng Hạo hãm hại
bèn lập đồn điền ở Đạp Trung không dám trở về Thành Đô.
Tư Mã Chiêu tiếp thu đề nghị của Chung Hội
quyết định chủ động tấn công Thục Hán, lấy Chung Hội làm Chinh tây đại tướng
quân. Đô đốc quân đoàn Quan Trung. Đặng Ngải tuy không tán thành, song triều
đình đã hạ lệnh cũng đành phải nghe theo. Khương Duy được tin mật báo Tào Ngụy
cử đại binh thâm nhập, lập tức đề nghị với Lưu Thiện cho Trương Dực giữ cửa ải
Dương An, Liêu Hoá giữ đầu cầu Âm Bình, còn mình thì ở tiền tuyến Đạp Trung chống
đỡ. Song kế hoạch phòng bị này vẫn bị Hoàng Hạo ngăn cản, Lưu Thiện và Đổng Quyết
đều không được biết rõ.
5. Chung Hội đưa kế hoạch chung, Tư Mã
Chiêu đánh Thục Hán.
Năm 263 sau Công Nguyên, kể từ lúc Gia Cát
Lượng mất đến giờ là 29 năm 9 tháng, theo sự trù viện kế hoạch chung của Chung
Hội, Tư Mã Chiêu hoàn thành việc sắp xếp ở Lạc Dương, bắt đầu phát lệnh triệu tập
các quân đoàn, triển khai hành động tổng công kích vào Thục Hán.
Kế hoạch của Chung Hội như sau:
Quân đoàn tiên phong do Chinh tây tướng
quân Đặng Ngải từ Địch Đạo đánh vào Cam Tùng và Đạp Trung, đấy là đại bản doanh
đóng quân của Khương Duy, cũng là vùng mà Thục Hán có lực lượng phòng vệ rất lớn,
cho nên tuyến này ắt sẽ là cuộc chiến cứng chọi cứng dữ dội.
Đạo quân phía tây thuộc cánh phải do Thứ sử
Ung Châu là Gia Cát Tự dẫn hơn 3 vạn quân, từ Kỳ Sơn đánh vào đầu cầu Vũ Nhai,
mục đích cắt đứt đường về của Khương Duy, để phối hợp với quân Đặng Ngải trước
sau cùng giáp kích. Ví như lực lượng quân sự rất mạnh của Thục Hán ở đây trong
tổng công kích đầu tiên bị tan vỡ thì có thể với tốc độ rất mau chóng bức được
Thục Hán phải đầu hàng.
Chung Hội thì dẫn quân chủ lực tây chinh
hơn 10 vạn người, chia ba đường từ Tà Cốc, Lạc Cốc, Tý Ngọ tấn công vào Hán
Trung.
Tư Mã Chiêu tự mình trấn giữ Lạc Dương, chỉ
phái Bình úy Vệ Hoàn giữ tiết chế, làm Trấn tây quân ty, để giám sát các hành động
quân sự của Đặng Ngải và Chung Hội.
Đến lúc đó, Lưu Thiện mới biết được tính
nghiêm trọng của vấn đề, không ngừng phái sứ giả đến hỏi han ý kiến của Khương
Duy. Khương Duy trước tiên lệnh cho Liêu Hoá dẫn viện quân đến Đạp Trung để
phòng vệ phía sau, ngăn chặn sự uy hiếp của Gia Cát Tự. Trương Dực và Đổng Quyết
bố phòng ở cửa ải Dương An, làm hậu thuẫn cho các vị trí quan trọng ở biên giới.
Lại hạ lệnh cho các trại quân đều phải kiên trì phòng thủ không được giao chiến,
lại đem quân chủ lực tập trung về Hán Thành và Lạc Thành còn các nơi khác đều
có 5000 quân tinh nhuệ thu giữ, để ngăn cản cuộc tấn công của Đại tướng quân
Chung Hội.
Trương Dực, Đổng Quyết đem quân sĩ đóng giữ
Âm Bình, biết đại quân của Gia Cát Tự đã từ Kiến Ung kéo xuống, lo lắng họ vượt
qua Âm Bình sẽ đột nhập vào Thục Trung, bèn ở lại Âm Bình phòng thủ suốt hơn một
tháng.
Tháng 9, Chung Hội phái tướng quân Lý Phụ dẫn
hơn một vạn quân bao vây quân sĩ của Vương Hàn đang bảo vệ Lạc Thành của Thục
Hán. Hộ quân Tuân Khải cũng lấy hơn một vạn quân tấn công vào Hán Thành do quân
sĩ của Tưởng Bân bảo vệ, song Thục Hán đã có chuẩn bị chu đáo tạm thời chưa thể
vượt qua được.
Khi Chung Hội dẫn đội quân từ Tây Lộ vượt
qua cửa ải Dương An, đặc biệt phái sứ giả đến tế lễ tại ngôi mộ của Gia Cát Lượng.
Chung Hội phái hộ quân Hồ Diệp đánh vào cửa
ải, song tướng trấn giữ ở đấy là Phó Thiện kiên trì cố thủ, không thể qua được.
Đô đốc Vũ Hưng là Tưởng Thư bởi bất mãn với triều đình đã thay đổi chức vụ của
ông ta, cố ý thúc giục Phó Thiêm ra giao chiến, lại ngầm đầu hàng Hồ Diệp, Phó
Thiêm trúng kế, quay về thành không kịp, liều đánh mà chết. Sau khi cửa ải thất
thủ, đại quân Chung Hội ruổi dài mà xuống, giành được Hán Trung với kho tàng
tích chứa rất nhiều lương thực.
Đặng Ngải phái Thái thú Thiên Thủy là Vương
Kỳ đánh vào doanh trại chính của Khương Duy, Khương Duy bất đắc dĩ phải rút
quân về giao chiến ở cửa ải Cường Xuyên, song ý chí tác chiến của quân Thục
không mạnh, Khương Duy sau khi giao chiến qua loa, bèn hạ lệnh lại rút quân.
Trong lúc rút quân, Khương Duy biết đại
quân của Gia Cát Tự đã đánh vào đầu cầu quan trọng để chặn đường về bèn táo bạo
đổi phòng thủ làm tấn công, từ đường Khổng Hàn tiến lên phía bắc, đánh vào sau
lưng của quân Gia Cát Tự. Gia Cát Tự thất kinh, lập tức bỏ vị trí đầu cầu, rút
về 30 dặm. Khương Duy biết Gia Cát Tự đã rút lại dẫn quân trở về qua vị trí đầu
cầu an toàn tiến vào Âm Bình. Bởi Quan Khẩu đã mất, bèn rút về Bạch Thủy, tập hợp
các đạo quân của Liêu Hoá, Đổng Quyết, Trương Dực đóng cả ở Kiếm Các đế ngăn cản
đại quân của Chung Hội ruổi dài thâm nhập hơn nữa.
6. Thục Hán mất bởi A Đẩu.
Tháng 10, do chiến cục xấu đi, Lưu Thiện
phái sứ giả sang Đông Ngô cầu cứu, Ngô vương Tôn Hưu phái Đại tướng quân Đinh
Phục đem quân đánh vào Thọ Xuân, tướng quân Lưu Bình tập kết đại quân ở Nam Quận,
chuẩn bị tiến công Tương Phàn, phân tán binh lực Tào Ngụy để giảm bớt áp lực
cho Thục Hán. Ngoài ra lại phái tướng quân Định Phong, Tôn Dị từ Miện Trung tiến
vào để cứu viện cho Thục Hán.
Đặng Ngải dẫn quân truy kích Khương Duy đến
Âm Bình, tuyển lựa kỹ lưỡng một đội quân cảm tử, dự tính từ Giang Do đánh thẳng
vào Thành Đô. Đang lúc Gia Cát Tự cũng đến Âm Bình, Đặng Ngải yêu cầu cùng phối
hợp tấn công. Gia Cát Tự cho rằng như thế là rất mạo hiểm, không thể làm được,
cự tuyệt không đi, dẫn quân trở về Bạch Thủy, Chung Hội nghe tin, viết thư
trách cứ Gia Cát Tự nhu nhược, bãi cả binh quyền, sát nhập đội quân của ông ta
vào đội quân chủ lực của Chung Hội.
Đại quân Chung Hội tấn công mạnh mẽ vào Kiếm
Các, Khương Duy dựa vào địa thế hiểm trở mà cương quyết cố thủ, hai bên ở vào
thế giằng co đông cứng. Quân Tào Ngụy ngày một thêm khó khăn về vận tải lương
thực, thậm chí Chung Hội bởi thế mà có dự định rút quân.
Đặng Ngải đề nghị với Chung Hội: "Quân giặc
tinh thần đã bị bẻ gãy, nên nhân cơ hội này mà bẻ gãy triệt để. Nếu như từ Âm
Bình theo đường nhỏ Dương Đình, Hán Đức, tập kích Phù Thành, sẽ có thể vượt qua
vùng Kiếm Các hiểm trở hơn trăm dặm, mà vào được Thành Đô phía trong; lúc đó
quân giữ Kiếm Các không thể không rút về Thành Đô, Chung tướng quân có thể vừa
thế mà tiến công. Nếu như Khương Duy không rút quân về, quân giữ Phù Thành ắt rất
yếu, việc đoạt được Thành Đô cũng sẽ chẳng có gì khó”.
Chung Hội tán thành kế hoạch này, Đặng Ngải
bèn dẫn ba vạn quân bản bộ đi trước, từ Âm Bình theo đường nhỏ mà tiến, bởi núi
non rất hiểm trở nên chẳng khác vào xứ không có bóng người. Đặng Ngải dẫn quân
vội vã vượt qua đoạn đường núi dài hơn 700 dặm, phá đá mở đường, làm cầu bắc
sàn, lại thêm vấn đề lương thực, rất đỗi gian khổ, rất nhiều tướng lĩnh đều
khuyên Đặng Ngải vứt bỏ kế hoạch này.
Đặng Ngải tự mình ở phía trước chỉ huy việc
mở đường, khi gặp vách núi chẳng thể nhảy xuống từ độ cao chất ngất, Đặng Ngải
dùng thảm lông quấn vào người, từ trên dốc núi lăn mình xuống. Các tướng sĩ
cũng theo nhau bám vào những cây bên vách núi dần dần qua được vùng núi hiểm trở
khó khắc phục này.
Không lâu quân tiên phong của Đặng Ngải đã
đến được Giang Do, Tướng Thục Hán trấn giữ ở đấy là Mã Mạc phải xin đầu hàng. Bởi
việc xảy ra bất ngờ, Lưu Thiện lệnh cho con cả Gia Cát Lượng là Gia Cát Chiêm dẫn
quân đối phó.
Đội quân của Gia Cát Chiêm đến được Phù
Thành, bởi chẳng thể phán đoán được quân địch tấn công theo đường tắt, bèn tạm
thời dừng quân quan sát. Thượng thư Hoàng Sùng (con của Hoàng Quyền) ra sức
khuyên Gia Cát Chiêm hãy mau chóng tiến vào vùng núi hiểm trở chiếm lấy các nơi
địa lợi, chẳng để quân địch đánh vào được vùng bình địa. Gia Cát Chiêm không đủ
kinh nghiệm, do dự không quyết. Hoàng Sùng nhiều lần đề nghị, thậm chí quỳ xuống
van nài, Gia Cát Chiêm cuối cùng vẫn không nghe theo đề nghị của ông ta.
Quân Đặng Ngải tiến vào vùng bình địa, tinh
thần binh sĩ rất phấn chấn, quân Thục chẳng thể địch nổi, Gia Cát Chiêm hạ lệnh
rút về giữ Miên Trúc.
Đặng Ngải gửi thư khuyên Gia Cát Chiêm đầu
hàng, Gia Cát Chiêm cả giận, sai chém sứ giả; Đặng Ngải sai con là Đặng Trung
cùng Tư Mã Sư Toản, từ hai phía trái phải cùng giáp kích vào Miên Trúc, lại bị
Gia Cát Chiêm đánh bại, Đặng Ngải đành tự mình dẫn quân tấn công. Quân Thục tuy
dũng mãnh kháng cự, song ít không địch nổi nhiều, cuối cùng Gia Cát Chiêm,
Hoàng Sùng đều bị chết tại trận. Con cả của Gia Cát Chiêm là Gia Cát Thượng, mới
mười bảy tuổi phụng mệnh giữ thành, thấy quân Thục đại bại biết rằng đại thế đã
mất, nói với những ngươi xung quanh rằng: "Cha con ta gánh vác đại sự, lại
không có thể sớm chém được Hoàng Hạo, mới đến nỗi mắc tội vong quốc hại dân như
thế này! Đâu còn có mặt mũi mà sống nữa”, rồi đơn thương độc mã xông thẳng vào
quân địch, không lâu chết giữa đám loạn quân.
Miên Trúc thất thủ, lại thêm quân chủ lực
bên cạnh là quân đoàn Gia Cát Chiêm bị tan vỡ, Lưu Thiện bởi muốn giảm nhẹ sự
thương tổn của trăm họ đã nghe theo lời khuyên của Quang lộc đại phụ Tiến Chu,
đầu hàng Đặng Ngải, lại phái sứ giả yêu cầu Khương Duy đang giữ Kiếm Các cũng
phải đầu hàng Chung Hội.
Đặng Ngải chiếu theo lễ nghi phong Lưu Thiện
làm Hán Vương, kiêm chức Kiêu kỵ tướng quân. Các cựu thần Thục Hán vẫn thuộc
Hán Vương lãnh đạo, chỉ có một số ít có thực lực là do Đặng Ngải tự thống lĩnh.
Lại lấy Tư Mã Sư Toản làm Thứ sử Ích Châu với
Thái thú Lũng Tây là Khiên Hoằng, cùng lo xử lý việc đầu hàng ở các quận huyện
trong nước Thục.
Đặng Ngải giận Hoàng Hạo gian hiểm làm hỏng
việc nước, cho bắt giam, có ý muốn xử đại hình, Hoàng Hạo phái người hối lộ kẻ
thân tín của Đặng Ngải trong bộ tham mưu, lấy lý do sự việc chưa xác minh rõ chỉ
tạm thời giam giữ đợi xét xử sau.
Khương Duy biết Gia Cát Chiêm đã thất bại,
muốn rút quân về chi viện, dẫn quân từ Kiếm Các rút về vùng Ba Trung. Đại bản
doanh của Chung Hội đến đóng ở Phù Thành, lại phái Hồ Liệt đuổi đánh Khương
Duy. Khương Duy rút đến huyện Kiết, tiếp nhận được chiếu mệnh đầu hàng của Lưu
Thiện, bèn hạ lệnh giải trừ vũ trang, cùng với Liêu Hoá, Trương Dực, Đổng Quyết
đến đầu hàng Chung Hội, khi nghe công bố sắc lệnh đầu hàng, các tướng sĩ Thục
Hán thảy đều vô cùng bực tức, theo nhau dùng đao kiếm chém xuống đá đến quằn cả
lên mới thôi, để cho hả giận giữ.
Chung Hội hậu đãi bọn Khương Duy, lại trả lại
ấn quyền, sát nhập vào quân đoàn. Thục Hán truyền được hai đời, được cả thẩy 43
năm thì mất, tính ra Gia Cát Lượng mất đã được 29 năm.
7. Trận quyết chiến cuối cùng của Thục Hán.
Đông Ngô nhận được tin Thục Hán mất nước hạ
lệnh cho Đinh Phụng rút quân, lại tăng cường phòng thủ ở biên giới.
Bởi Đặng Ngải có công rất lớn, triều đình
phong tặng Đặng Ngải làm Thái úy, tặng ấp trại hai vạn hộ dân, Chung Hội làm Tư
đồ, tặng ấp trại một vạn hộ dân. Đặng Ngải từ đó trở nên rất kiêu căng, lấy quyền
hành thống soái mà điều hành, với Thống soái quân viễn chinh cũ là Chung Hội nảy
sinh mâu thuẫn nghiêm trọng.
Khương Duy biết Chung Hội trong lòng chất
chứa oán hận, bèn tác động việc diệt trừ Đặng Ngải; Chung Hội bèn mật báo với
Tư Mã Chiêu rằng, Đặng Ngải chiếm cứ đất Thục đế xưng vương, thúc đẩy quân sĩ tạo
phản. Từ những tin tình báo tại chỗ cho thấy đích xác Đặng Ngải có ý đồ như thế,
Tư Mã Chiêu hạ lệnh cho Chung Hội từ Kiếm Các tập kích vào Thành Đô bắt lấy Đặng
Ngải.
Tư Mã Chiêu lại sợ hai viên tướng đầu ngành
quan viễn chinh tranh giành mãnh liệt, dẫn đến tình hình xấu, lại hạ lệnh cho
Giả Sung từ Tà Cốc xuất binh, tự mình với Ngụy chủ đều đóng ở Tràng An để ứng
biến.
Đại quân Chung Hội đánh vào Thành Đô định bắt
Đặng Ngải, song quân đoàn Đặng Ngải không phục, tình hình đối đầu giữa hai bên
rất căng thẳng. Chung Hội lại nghe nói Giả Sung đã từ đường Tà Cốc đánh vào, Tư
Mã Chiêu thân chinh đến Tràng An, biết rằng đã không được triều đình tín nhiệm
nữa, bèn cùng với Khương Duy bàn bạc, muốn lợi dụng quân Thục và đại quân trực
thuộc của mình để làm binh chiến, sẽ kiên trì giữ Thục Trung, chiếm đất xưng
vương.
Khương Duy ra sức khuyên Chung Hội nhân cơ
hội này giết hết các tướng phương bắc cùng đi để tự giữ mình, lại phái người ám
sát Chung Hội để mong khôi phục nhà Hán. Ông ta tự mình viết một bức mật thư
cho Lưu Thiện nói rằng: "Xin bệ hạ chịu nhục mấy ngày nữa, hạ thần muốn xã tắc
đang nguy sẽ lại yên, nhật nguyệt đang tối mà lại sáng”.
Bởi Thành Đô tình thế xấu dần đi, đồn đại
nhiều về chuyện sẽ có binh biến, Hồ Liệt là thống lĩnh đại quân trực thuộc của
Chung Hội, biết được Khương Duy có âm mưu khôi phục nhà Hán, bèn phát động binh
biến trước, đánh vào doanh trại Khương Duy. Quân Đặng Ngải cũng nhân lỗi loạn
mà tiến đánh Chung Hội để trả thù, Thành Đô rơi vào cuộc chiến hỗn loạn. Cuối
cùng Khương Duy, Trương Dực, Chung Hội đều bị chết trong đám loạn quân.
Viên thống lĩnh Tiền quân của Chung Hội dẫn
quân dẹp loạn, khôi phục trị an ở Thành Đô, lại phái hộ quân Điền Tục đánh vào
doanh trại của Đặng Ngải ở Miên Trúc, giết chết cha con Đặng Ngải ở đấy.
Tư Mã Chiêu ở Tràng An được biết cuộc nổi
loạn ở Thành Đô đã được dẹp yên, bèn phái Giả Sung thu thập tàn cục, vỗ về trăm
họ, còn tự mình với Ngụy chủ trở về Lạc Dương. Không lâu Lưu Thiện cũng đưa gia
nhân đến Lạc Dương, cuộc quyết chiến sau cùng của Thục Hán đến đây hoàn toàn kết
thúc. Đó là năm Hàn Hy thứ nhất đời Nguyên đế Tào Ngụy, tức là tháng 3 năm 264
sau Công Nguyên.
Đánh máy: hoi_ls
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN, 2003 (Tái
bản lần II)
Nguồn: Vnthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 11 năm 2013