Tào
Tháo là gian hùng.
Tào
Tháo là gian hùng, phần lớn do bị ép buộc.
Lúc
này mới thấy, thời đại Hạng Vũ còn tương đối tự do. Bấy giờ, thể chế chuyên chế
trung ương tập quyền đang trong giai đoạn ban đầu và thời gian thử nghiệm cũng
không dài, sau khi Tần diệt vong, mọi người cũng không chơi ngón trò này nữa.
Quan niệm "dưới gầm trời chỉ có thể có một hoàng đế, bất kể hoàng đế là thần là
người, là chó là lợn, đều phải tuyệt đối trung thành, bằng không tức là gian là
phỉ”, cũng chưa được hình thành rõ rệt. Cục diện "thiên hạ phân phong, chư hầu
cát cứ, ngũ bá nổi dậy, thất hùng cùng hưng, Sở mạnh nam phục, Tần bá tây thuỳ,
thay phiên tử hội ước chư hầu, quyết phen sống mái” vẫn còn mới mẻ trong ký ức
mọi người. Các chủ hầu tự do tuyên chiến, giảng hoà, kết minh, thu thuế, hoàn
toàn không coi thiên tử ra gì. Văn nhân và võ sĩ, du hiệp cùng lũ thích khách
được tự do chu du các nước, lưu động giữa các chư hầu, sớm Tần tối Sở, chọn chủ
mà thờ, cũng không hề coi tước vị quan lộc trong tay là gì cả. Thậm chí Điền Tử
Phương còn nói với Nguỵ thái tử là Kích rằng: Kẻ sĩ bàn luận mà không được dùng,
chủ trương mà không hợp, thì lập tức chạy sang nước khác. Vứt bỏ quốc dân cũng
như vứt bỏ chiếc giày cỏ. Tóm lại, khi đó một người chỉ cần có thực lực, có khả
năng, có bản lĩnh, thì nhiều ít tuỳ ý có thể làm những việc minh muốn làm. Dù
vận may chưa đến, có thất bại, cũng không có ai đàm tiếu. Vì vậy, tuy nói "thắng
làm vua, thua làm giặc”, nhưng Trần Thắng từng tuyên chiến với hoàng đế, giữ
nghĩa mà bại trận, cũng không có ai nói Trần Thắng là giặc, là phỉ? Không giống
như bọn Tống Giang sau này, dù đã chiêu an, nhưng vẫn không vứt bỏ được cái mác
thổ phỉ hay giặc cỏ.
Đây
là thời đại sôi động, chiến tranh không ngừng, chiến sự liên miên, thôn tính lẫn
nhau, cá lớn nuốt cá bé, và cũng là thời đại anh hùng, thời đại giữa hổ và báo.
Đối với người yếu là không công bằng cho lắm, nhưng đối với người mạnh thì có cả
một vùng trời tự do rong ruổi. Nên dù nói gì đi nữa, Hạng Vũ vẫn là người có
nhiều tự do. Nay đã thất bại, nhưng vẫn không hề mất sĩ diện của người thất bại,
vẫn còn nhiều người cúng tế nhớ thương Hạng Vũ. So sánh một chút thì thấy, Tào
Tháo là người lỗi thời đen đủi hơn nhiều. Tào Tháo đã thành công (rất thành
công), nhưng vẫn bị vẽ thành bộ mặt trắng bệch(1).
Số
phận đã định, Tào Tháo chí có thể làm người xấu.
Tào
Tháo, tự Mạnh Đức, tên cúng cơm là A Man, người huyện Tiều nước Bái, nay là thị
trấn Bạc Châu, An Huy. Tam quốc chí của Trần Thọ nói, Tào Tháo là hậu thế của
Tào Tham, tướng quốc thời Tây Hán, nói thế là sai. Vì Tào Tháo vốn không phải họ
Tào. Tào Tung, cha của Tào Tháo chỉ là con nuôi của Tào Đằng. Tào Tung và Tào
Đằng không có quan hệ huyết thống thì dù có chứng minh rõ, Tào Đằng là đời sau
của Tào Tham, cũng có liên can gì đến Tào Tháo? Sự thực thì, cha mẹ đẻ của Tào
Tung cuối cùng là ai, đến nay vẫn còn là câu đố, ngay cả Trần Thọ cũng chỉ có
thể nói "không thể biết ai đã sinh ra họ”. Tào Tháo nói biết cha mẹ đẻ của mình
là ai, vẫn chỉ là "lai lịch bất minh”.
Tào
Tháo sống trong thời đại không tốt.
Tào
Tháo sinh ra và lớn lên ở hai triều Hán Hoàn đế, Linh đế, ra đời vào năm 155
Công nguyên, năm Vĩnh Thọ thứ nhất thời Hoàn đế, năm 174 Công nguyên, năm Hy
Bình thứ ba thời Linh đế Tào Tháo ra làm quan; hai triều Hoàn, Linh được coi là
thời đại hỗn loạn nhất, đen tối nhất trong lịch sử bốn trăm năm vương triều Hán.
"Thời kỳ Hoàn - Linh” là cụm từ chỉ thời kỳ vua tối quan gian này, muốn làm
"người tốt” trong thời đại này là quá khó. Không bị hãm hại cũng bị chèn ép, Tào
Tháo không chỉ không muốn bị hãm hại, cũng không muốn bị chèn ép, đương nhiên
phải làm "người xấu”. Tóm lại, Tào Tháo sinh không gặp thời, lai lịch bất minh,
thực quá đen đủi.
Trong
thực tế, thời đại của Tào Tháo khác hẳn với thời đại của Hạng Vũ. Giả sử Tào
Tháo sinh trưởng gặp thời, cũng chưa hẳn đã làm được gì. Kể từ khi vị hoàng đế
lưu manh Lưu Bang thống nhất thiên hạ về mặt tổ chức, cháu của Lưu Bang là Vũ đế
Lưu Triệt thống nhất thiên hạ về mặt tư tưởng, thì những kẻ hổ báo có khí chất
anh hùng và tinh thần cao quý, cho dù là văn nhân hay võ sĩ, cho dù là có ý
tưởng hay hành động đều bị xử lý gần hết. Biện pháp xử lý vẫn là chiếc gậy có
thêm củ cà rốt, có điều củ cà rốt có hạt và chiếc gậy sẽ biến thành răng sói
dính đầy máu. Thái sử công Tư Mã Thiên chỉ nói đỡ cho Lý Lăng nói mấy câu, mạo
phạm hổ uy của Vũ đế liền bị nhục hình đến mức, nam không ra nam, nữ không ra
nữ; còn như Đại nông lệnh Nhan Dị căn bản không bàn luận, chỉ là nghe người khác
bàn về triều chính, môi dưới cứ mấp máy, trễ xuống một chút, liền bị coi là
"phục phỉ” (có bụng phỉ báng), liền bị tử hình; chẳng trách trong thành Tràng An
khi đó có năm vạn người, tù nhân có tới mười sáu, mười bảy vạn, chẳng trách khi
Lang trung lệnh Thạch Kiến dâng thư tâu việc, chữ "mã” viết thiếu nét, đã phải
sợ đến kinh người. Những chuyện này đều xảy ra trong thời kỳ vị vua hùng tài đại
lược Hán Vũ đế cầm quyền. Vũ đế luôn được coi là một rrong các vị đế vương vĩ
đại nhất trong lịch sử Trung Quốc, chính là "Tần Hoàng Hán Vũ, Đường Tông Tống
Tổ”. Vì vậy, Hán Vũ đế luôn được coi là anh hùng. Nhưng tôi lại thấy, nền thống
trị dưới bàn tay sắt của Vũ đế, nghiệp tích anh hùng thì có, nhưng không có tinh
thần anh hùng.
Tào
Tháo sống trong thời kỳ Hoàn - Linh, tình hình lúc này đã quá tồi tệ. Vương
triều Đại Hán cùng với chế độ của mình, trong ngoài đâu đâu cũng đầy xác chết.
Trên thực tế, từ lúc Vương Mãng cướp quyền đến sau khi Quang Vũ trung hưng,
vương triều Hán đã không thể phục hồi. Ngoại thích nắm quyền, hoạn quan chuyên
chính, quân phiệt xưng hùng, gian thần liều mạng nắm quyền, tham quan ra tay vơ
vét, trăm họ đành phải ăn nhờ đất Phật. Đạo đức suy đồi, tất cả là một mớ hỗn
độn. Lúc đó có những câu dân ca: "Đỗ tú tài, không biết chữ, đỗ hiếu liêm, cha ở
riêng”; "thẳng như dây cung, chết bên đường, cong như cái móng, được phong hầu”,
rõ ràng thiếu liêm ít sỉ, miệng thật lòng giả đã thành mốt. Chẳng có gì là lạ,
vương triều ấy, chế độ ấy không dùng được người quân tử, tất sẽ nuôi được kẻ
tiểu nhân, đã không nghe được lời nói thật, mọi người đành phải nói lời giả. Khi
nhiều người phải lén lút, run sợ, như rùa rụt cổ, chuột già vào hang, khi ham
muốn quyền lực phình lên cực độ, ham muốn vật dục ngang ngược bành trướng thì ti
tiện được khích lệ, cao quý bị đả kích, làm gì có khí chất anh hùng, tinh thần
cao quý, làm gì còn hổ và báo. Có chăng chỉ là chó và dê. Chó thô bỉ đó là từ
con sói ác độc biến thành, còn dê tầm thường chính là con sói khoác da dê, hơn
nữa là con sói lông vàng.
Nếu
lúc này, đột nhiên xuất hiện một chú hổ hoặc báo, thì sẽ ra sao đây? Mọi người
sẽ coi chúng như quái vật, giống con vịt trong truyện cổ tích, nói con thiên nga
nhỏ bé kia là con vịt nhỏ xấu xí. Nhưng đó chỉ là lời mấy chú vịt cười nhạo chú
vịt con xấu xí, mấy con chó thô tục và mấy con dê tầm thường kia sẽ nhất tề xông
lên, tỏ vẻ mặt hoa da phấn cho hổ và báo kia xem.
Vận
mệnh Tào Tháo là như vậy.
Vận
mệnh của Tào Tháo như đã được quyết định từ trước.
Con
người Tào Tháo lúc nhỏ chừng như là "thiếu niên có vấn đề”, nhiều chỗ giống với
Lưu Bang, Hạng Vũ thuở nhỏ, có điều Tào Tháo thích đọc sách hơn hai người kia.
Sử sách nói, lúc nhỏ Tào Tháo "thích ưng bay chó chạy, phóng đãng vô độ”. Người
chú không vừa mát khi thấy cảnh đó, thường nhắc nhở Tào Tung phải thường xuyên
trông nom thằng bé này, Tào Tháo biết chuyện, liền nghĩ quỷ kế để đối phó với
ông chú lắm chuyện. Một hôm, Tháo nhìn thấy ông chú từ xa đi tới, liền vờ méo
miệng xệch môi. Chú đến hỏi vì sao, đáp đột nhiên trúng gió. Lập tức người chú
đến báo với Tào Tung. Lúc Tào Tung gọi Tào Tháo đến xem, đã chẳng thấy có chuyện
gì. Nhân đó Tào Tháo nói thêm, làm gì có chuyện con trúng gió! Có thể chú không
thích con nên mới nói bừa như vậy! Đã có chuyện "sói đến rồi” làm vật đệm, từ đó
về sau người chú có nói gì đi chăng nữa, Tào Tung đều không
tin.
Thực
tình thì Tào Tung không quan tâm nhiều đến việc dạy dỗ đứa con này. Tào Tháo làm
thơ nói: "Ký dĩ tam tỉ giáo, bất văn quá đình ngữ” (Dịch nghĩa: Chưa từng được
nghe dạy dỗ về "tam tỉ”, cũng chưa từng được nghe về "quá đình”), "tam tỉ” là
nói mẹ thầy Mạnh Tử, đã rời nhà đến ba lần, để con có hoàn cảnh tốt, còn quá
đình là nói, con Khổng Tử hai lần đi qua sân, đều bị cha gọi lại để giáo dục,
lần một bảo con học Thi, lần hai bảo con học Lễ. Xem ra, từ nhỏ Tào Tháo không
được cha mẹ dạy bảo, là con nhà không mấy gia giáo. Vì thế, Tào Tháo "chơi bời
phóng đãng, không màng sự nghiệp”, không khác mấy với Lưu Bang lúc trẻ "rượu chè
trai gái”, "không nghĩ chuyện làm ăn, gia đình”.
Bạn
bè của Tào Tháo như Viên Thiệu, Trương Mạc cũng cùng một loại. Họ thường tụ tập
ầm ĩ, cũng lắm chuyện ra trò. Một lần có một người kết hôn, Tháo và Thiệu đến
xem, rồi bỗng nhiên nghĩ tới chuyện cướp cô dâu. Cả hai đã trốn vào trong vườn,
chờ lúc trời tối mới gào to: "Có trộm”, khi người đến dự hôn lễ chạy hết ra
ngoài, nhân lúc rối loạn, Tào Tháo liền chạy vào động phòng cướp dâu. Vì quá hốt
hoảng, đi đường không khéo, Viên Thiệu rơi vào bụi gai bên đường, không sao
thoát ra được.
Trong
lúc nguy cấp, Tào Tháo sinh kế, liền gào lên: "Trộm ở đây!”. Vì sợ quá Viên
Thiệu bật mạnh, cả người thoát khỏi bụi gai, những quỷ kế như vậy, Tào Tháo có
rất nhiều, trách gì "Tam quốc chí” từng nói Tháo là "ít nhạy bén, nhưng tài ứng
biến”.
Một
đứa trẻ thích chơi những trò ác như vậy, hẳn nhiều người sẽ không thích, họ xem
thường Tào Tháo. Nhưng Thái uý Kiều Huyền lại nói Tào Tháo là "tài giỏi nhất
đời”, bình định thiên hạ sau này, chính là Tào Tháo. Vì vậy, Tào Tháo tuy ngang
bướng nghịch ngợm, không có phép tắc, nhưng không phải con em nhà lưu manh ác
độc, con em nhà quyền quý bình thường. Tào Tháo "tài võ tuyệt vời, không ai hại
nổi, bác học quần thư, nhiều nhất là binh pháp”, đúng là nhân tài mà loạn thế
đang cần. Vì vậy Kiều Huyền rất tin tưởng Tào Tháo, gửi gắm cả vợ con, còn đề
nghị Tháo kết giao với Hứa Thiệu, xem Hứa Thiệu nói thế
nào.
Hứa
Thiệu tự Tử Tương, người Bình Dư, Nhữ Nam (nay là Bình Dư, Hà Nam) là nhà bình
luận, nhà giám thướng nổi tiếng nhất thời đó. Thường cứ vào mùng một hàng tháng,
Hứa Thiệu bình phẩm nhân vật đương thời, gọi là "Nguyệt đán bình”, còn gọi là
"Nhữ Nam Nguyệt đán bình”. Bất luận là ai, một khi được bình, thì thân giá cao
lên gấp bội, người đời lưu truyền, coi đó là lời đẹp. Nên nhớ rằng, thời Lục
triều Hán Nguỵ, bình phẩm nhân vật là việc lớn trong xã hội. Bất kỳ ai, muốn
bước vào xã hội thượng lưu, buộc phải có sự giám định của nhà phê bình quyền uy,
qua đó quyết định thân giá của mình, giống như trong thị trường nghệ thuật được
các nhà phê bình quyền uy cho là tốt, mới bán được giá cao. Đương nhiên Tào Tháo
cũng hy vọng có được lời bình tốt từ Hứa Thiệu, nhưng phải chăng bình phẩm Tào
Tháo rất khó, nên Tào Tháo chỉ nhận được lời bình như mọi người đã biết: "Là
năng thần trị thế, là gian hùng thời loạn”. Nghe nói để có được lời bình của Hứa
Thiệu, Tào Tháo đã mất nhiều tâm sức, nhưng mặc cho Tào Tháo cầu xin đến mấy,
Hứa Thiệu vẫn không chịu nói. Cuối cùng, bị bức đến hết cách, Hứa Thiệu mới nói
ra câu đó. Và như vậy, chúng đã hiểu rõ cuộc đời Tào Tháo tận khi đậy nắp quan
tài.
Hiển
nhiên, Hứa Thiệu cũng đã thấy rõ Tào Tháo là một nhân vật. Còn như là năng thần
hay là gian hùng, còn phải xem Tào Tháo ở trị thế hay loạn
thế”(2).
Trở
thành nhân vật, là tố chất; ở vào thời nào lại là vận
khí.
Vận
khí Tào Tháo không tốt, Tào Tháo ở vào thời loạn, là gian hùng, e đó là điều
định sẵn. Thực tình thì ngay từ đầu, Tào Tháo đã muốn là năng thần. Năm 174 Công
nguyên, hai mươi tuổi, Tào Tháo được cứ là hiểu liêm. Hiểu là hiểu tứ, liêm là
liêm sỉ, có được xưng hiệu đó là có được bước thứ nhất vào chốn quan trường,
giống ngày nay có bằng cấp là có khả năng thi làm quan chức. Ít lâu sau, Tào
Tháo được bổ nhiệm làm Bắc bộ uý thành Lạc Dương, phụ trách trị an phía bắc
thành Lạc Dương. Là chức quan không to (bổng lộc 400 thạch), quyền không lớn,
nhưng trách nhiệm lại rất nặng, rất nhiều phiền hà. Dưới chân thiên tử, quyền
quý đông đúc, đố ai dám đụng tới họ! Nhưng công việc trị an trên phần đất kinh
đô không thể không duy trì. Nên vừa tới nhiệm sở, Tào Tháo đã thay mới toàn bộ
viên chức nơi nha môn, cho làm nhiều chiếc gậy năm mầu, treo ở mỗi bên cửa lớn
mười chiếc. "Ai phạm lệnh cấm, kể cả cường hào, đều bị đánh chết”. Sau đó mấy
tháng, quả nhiên có người tìm đến xin chết. Đó là chú của hoạn quan Kiển Thạc
được Linh đế sủng tín. Ỷ thế có đứa cháu miệng thét ra lửa, hắn không thèm để ý
tới lệnh cấm của Tào Tháo, ngang nhiên vi phạm lệnh cấm đi đêm. Tào Tháo rất
tỉnh táo, lập tức cho lấy gậy năm màu đánh chết hắn. Đúng là giết một, hàng trăm
người phải sợ, "kinh đô thu mình lại yên ổn không ai dám phạm”, tình hình trị an
chuyển biến tốt, Tào Tháo làm chấn động cả trong triều ngoài
dã.
Chừng
từ năm 174 xuống núi, năm 189 khởi binh, trong vòng mười lăm năm, Tào Tháo vẫn
còn muốn là năng thần. Tào Tháo từng là Bắc bộ uý Lạc Dương, Tế Nam tướng (thành
cổ ơ phía đông huyện Lịch Thành, Sơn Đông ngày nay), điển quân Hiệu uý… Trong
đó, một lần bị miễn chức, hai lần từ quan, ba lần bị triệu làm Nghị lang. Trong
chốn quan trường chìm nổi, Tào Tháo đã hiểu rõ mọi chuyện trong triều và quan
viên. Tào Tháo thấy rõ, vương triều Đông Hán đã hết thuốc chữa, thiên hạ đại
loạn không thể thay chuyển. Và dù không loạn lạc, thì triều đình và quan trường
hủ bại kia cũng không cần có "năng thần trị thế”. Tào Tháo từng dâng thư lên
triều đình, nói hết mọi điều tệ hại, nhưng như cát lún xuống không có hồi âm. Là
Lạc Dương uý, Tào Tháo hành luật nghiêm minh, đả kích cường hào; là Tế Nam
tướng, Tào Tháo trị quan sạch dân, địa phương yên bình. Tất cả những điều đó,
vẫn chưa đủ để có thể chỉnh đốn triều cường, thay đổi tình thế, cũng chưa thể có
nhiều ảnh hưởng. Mọi cố gắng của Tào Tháo cho vương triều sắp tàn lụi, đều như
muối bỏ biển, chẳng nên công cán gì, đối với bọn quyền thần hoành hành bá đạo
thì chỉ như châu chấu đá voi, trứng chọi với đá. Sở dĩ Tào Tháo còn chưa bị hoạ
sát thân vì đằng sau còn có Tào Đầng chống đỡ. Lúc này triều đình lại mượn cớ
Tào Tháo "thông tỏ cổ học” nên nhiều lần để Tào Tháo nhận chức Nghị lang, nhàn
rỗi có chức không quyền, triều đình không trọng
dụng.
Một
lần nữa, Tào Tháo không thể không nghĩ lại về chọn lựa con đường của đời
mình.
Xem
ra, không thể là năng thần trị thế, đành phải là gian hùng
vậy.
Kỳ
thực, là gian hùng sẽ càng "dễ nghiện” hơn là năng thần. Trung mà vô năng là ngu
tối, năng mà không trung là gian, đều không là năng thần. Nhưng chỉ là vừa trung
vừa năng, thì chưa đủ, còn phải được mọi người thừa nhận. Rất khó để có được
điều kiện thứ ba. Vì vậy, nghi ngờ năng lực của người khác là thứ bệnh thông
thường của quan trường; nghi ngờ bề tôi không trung là căn bệnh thông thường của
đế vương. Vì vậy năng thần có kết cục tốt trong lịch sử là không nhiều. Khi sống
không bị giáng chức thì khi chết cũng bị chửi, là năng thần mà khi sống lẫn khi
chết đều không bị người đời đàm tiếu, e chỉ có mình Gia Cát
Lượng.
Gia
Cát Lượng sống rất mệt.
Hình
tượng Gia Cát Lượng bị méo mó ghê gớm. Nói chung, mọi người luôn cảm thấy Gia
Cát Lượng sống rất thoải mái. Dù gặp bất kỳ chuyện gì thì hầu như Gia Cát Lượng
đều biết trước kết quả. Có nhiều mưu kế hay, thậm chí còn viết thành lời, cho
vào túi kín, khi gặp việc người chấp hành chỉ cần giở ra xem. Bản thân không chỉ
cần ra trận giết giặc, cũng không phải lao tâm khổ tứ, chỉ cần quấn khăn lên
tóc, phe phẩy chiếc quạt lông, pha binh trà hoa cúc, bầy bàn cờ vây, rồi "nói
nói cười cười mà giặc mạnh đã tan thành mây khói”, thoải mái biết chừng
nào.
Kỳ
thực, Gia Cát Lượng cũng chịu rất nhiều áp lực tâm lý. Lưu Bị và Gia Cát Lượng,
quân thần gặp nhau luôn là tấm gương để đời, được xem là vua nhân tôi trung, vua
sáng tôi hiền. Nhất là câu chuyện "ba lần đến lều cỏ” nổi tiếng, đã hàng ngàn
năm nay khiến cho những văn nhân rắp ranh ra làm quan lại muốn ra vẻ khệnh khạng
kia, thèm muốn đến muốn chết. Thực ra thì giữa hai người luôn có nghi kỵ và đề
phòng. Quan hệ vua tôi không phải là quan hệ bè bạn, người được tín nhiệm nhất
cũng là người cần nghi ngờ nhất. Vì hai bên quan hệ lâu dài, đi lại thần tình,
thấu hiểu ngọn ngành, người kia có bao nhiêu cân lạng, lòng dạ người này đã tính
toán đủ. Đó là điều không thể đề phòng. Hãỵ nhớ lại câu chuyện gửi con ở thành
Bạch Đế, bề ngoài như không có đề phòng gì cả, vô cùng tín nhiệm, kỳ thực đó là
nghi kỵ, đề phòng rất kín kẽ. Lưu Bị nói với Gia Cát Lượng, ta giao phó đứa trẻ
này cho ngươi. Nếu thấy nó còn được thì giúp nó, không được thì phế bỏ, lấy mà
thay. Đó là nói vui! Lưu Thiện vô năng! Rõ ràng là vậy, sao còn phải xét phải
dùng? Chính vì biết rõ, Gia Cát Lượng tài "gấp mười lần Tào Phi” sợ con mình
không được trọng dụng, nên không yên tâm, nên đã cố ý nói thật rõ, nói bằng hết.
Gia Cát Lượng là người thông minh, đã tỏ thái độ: "Hạ thần dám đem hết sức phò
tá, tỏ hết dạ trung trinh cho đến chết”, quyết một lòng giúp A Đẩu, tuổi bằng
cậu học sinh cấp ba, mà trí tuệ bằng cậu học sinh cấp
hai.
Trần
Thọ nói, Lưu Bị gửi con "lòng dạ ngay thẳng, quân thần thành thực chí công, nếp
sống của muôn đời”, nói như vậy nếu không phải nịnh bợ thì cũng là mù tịt. Đúng
như lời Tôn Thịnh, nếu gửi con cho người tốt, việc gì phải nói mấy câu vô bổ đó,
nếu gửi con cho người xấu, hoá ra đã chỉ đường cho cho họ làm phản. "May sao Lưu
Thiện lại yếu đuối ngu tối, không hay nghi ngờ, Gia Cát thì uy lược, đủ để kiểm
soát tình hình, những kẻ khác ý, không làm được gì”. Nói như vậy chỉ đúng được
một nửa. Lưu Bị gửi con thành công vì Gia Cát Lượng đã nhận lời và ông là người
biết giữ lời, cẩn thận, tỉ mỉ, nên mới không xảy ra chuyện. Còn như nói Lưu
Thiện không nghi kỵ, thù hằn là không đúng. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, dân
chúng các nơi trong Thục đều tưởng nhớ, muốn dựng miếu thờ, Lưu Thiện không phê
chuẩn, nói là "chưa hề có tiền lệ”. Rõ ràng trong thâm tâm, Lưu Thiện có thù sâu
oán nặng với Gia Cát Lượng. Sự thực thì một hoàng đế dễ dàng ghen tỵ với một đại
thần năng lực hơn mình, hơn nữa với một người đầu óc không thông tuệ, thì ghen
tỵ, thù hận càng sâu đậm. Vì vậy, tất cả những kẻ kém cỏi đều giống nhau, chỉ
cần có quyền lực, liền cảm thấy mình là nhất, rồi huyênh hoang. Một khi thấy cấp
dưới mạnh hơn mình, liền tự hổ thẹn thành giận dữ, quyết tìm mọi cách để loại
bỏ. Lưu Thiện cũng như vậy, chỉ vì có tâm giặc không có gan giặc, có gan giặc
lại thiếu sức giặc, nên đành phải làm một chút gì đó sau lúc Gia Cát đã qua đời,
để uy phong một chút, tỏ ra mình cũng là một nhân
vật.
Cho
dù Lưu Thiện thực bụng coi Gia Cát Lượng "như cha mình” thì cũng còn ý nghĩa gì.
Thực ra thằng cha này quá ngốc. Không chỉ là ngốc mà còn vô lương tâm. Sau khi
là tù binh, Lưu Thiện được đưa về Lạc Dương, được phong An Lạc huyện hầu. Một
hôm, Tư Mã Chiêu mời Lưu Thiện ăn cơm, trong bữa ăn có đồng ý cho biểu diễn bài
ca nước Thục. Các cựu thần nước Thục ngồi nghe đều rơi lệ, chỉ có Lưu Thiện là
không, chỉ lo ăn uống, "cười vui như không”. Tư Mã Chiêu ngậm ngùi nói, một
người vô tình tới mức này sao (con người vô tình tới mức này)! Một hôm khác Tư
Mã Chiêu hỏi Lưu Thiện: "Có nhớ nước Thục lắm không?”. Lưu Thiện trả lời luôn:
"Ở đây vui lắm, không nhớ nước Thục”. Cựu thần Khích Chính nghe vậy đã nói với
Lưu Thiện, lần sau có người hỏi thì nói là phần mộ tổ tiên đang ở xa tận Lũng,
Thục, không ngày nào là không tưởng nhớ, sau đó thì nhắm mắt lại. Sau này Tư Mã
Chiêu lại hỏi, Lưu Thiện đã nói và làm đúng như vậy. Tư Mã Chiêu nói, nghe như
là lời của Khích Chính vậy! Lập tức Lưu Thiện mở mắt, vừa sợ vừa vui nói: "Đoán
đúng rồi, chính là ông ấy!”. Mọi người chung quanh đều không nhịn được cười.
Đương nhiên, cũng có thể là để giữ mạng, Lưu Thiện đã vờ ngốc. Nhưng dù là vờ
ngốc, Lưu Thiện cũng không có lương tâm. Trên thực tế, ngoài câu nói "ở đây vui
lắm, không nhớ Thục”, Lưu Thiện không có cống hiến gì cho lịch sử Trung Quốc.
Liệu có ý nghĩa gì khi phò tá loại người như vậy?
Vì
thế, Gia Cát Lượng rất mệt. Vừa muốn lấy thiên hạ, vừa phải dỗ trẻ con, vừa sợ
mấy ông già khác ý, vừa sợ nhỏ không vui, có thể không mệt sao? Trong thực tế,
Gia Cát Lượng không giống quân sư mà giống quản gia. Từ việc lớn đến việc bé,
Gia Cát Lượng đều phải để mắt tới, tự xem tự làm, tức là "tự mình làm”. Do tình
thế ép buộc, do tính cẩn thận nên Gia Cát Lượng phải làm vậy. Nếu không làm như
vậy, thì làm sao có thể nắm quyền lớn mà dân không nghi? Gia Cát Lượng rất sợ
phạm phải sai lầm!
Lao
động mệt mỏi đã tổn hại sức lực của Gia Cát Lượng, áp lực nặng nề khiến Gia Cát
Lượng mất ăn mất ngủ(3). Năm 234 Công nguyên, Gia Cát Lượng ngã bệnh và qua đời
ở Ngũ Trượng Nguyên, trên đường Bắc phạt, hưởng thọ năm mươi tư tuổi, ít hơn Tào
Tháo mười hai năm. Gia Cát Lượng vốn người rất khỏe. Trần Thọ nói Gia Cát Lượng
"thân cao rám thước, dung mạo rất đẹp, người người khen ngợi”, là một trượng phu
anh tuấn. Nếu không vì lao động quá sức, tâm lực hao mòn, sao có thể qua đời vào
những năm tháng đầy sức sống như vậy?
Gia
Cát Lượng đã thực hiện xong lời hứa: "cúc cung tận tuy cho đến lúc chết”. Thực
tình thì Gia Cát Lượng vì mệt mà chết(4).
Làm
hoàng đế đương nhiên là tốt, có điều phải xem xem làm như thế nào, và muốn làm
nhưng không làm nổi. Nếu làm như Lưu Hiệp (Hiến đế) thì thà đừng làm, nếu giống
như Viên Thuật thì ngang như tìm đến cái chết.
Con
người Viên Thiệu tỏ ra rất ngang bướng. Viên Thuật xuất thân thế tộc, môn đệ cao
quý. Cao tổ phụ Viên An là Tư đồ thời Chương đế. Thúc thái tổ phụ Viên Thưởng là
Tư không; Tổ phụ Viên Thang từng là Tư không, Tư đồ, Thái uý; cha là Viên Phùng
làm Tư không; chú Viên Quỳ là Thái phó. Quan chế thời Đông Hán, Thái uý, Tư đồ,
Tư không gọi là "tam công”, coi sóc mọi việc, địa vị cùng quyền hạn cao nhất
trong trăm quan. Bốn đời tổ tiên nhà Viên Thuật, từ các cụ đến cha, đều có người
nhận chức tam công, nên gọi là "tứ thế tam công”, là gia tộc hiển hách đầy quyền
uy nơi chốn quan trường.
Viên
Thuật huyết thống cao quý như vậy, nhưng tính tình lại khùng khùng điên điên,
thường không coi ai ra gì, kể cả người anh là Viên Thiệu. Viên Thiệu, Viên Thuật
đều là con của Viên Phùng. Viên Thiệu tuy lớn tuổi nhưng là con vợ bé, nên gọi
là "thứ xuất”. Viên Thuật là em, nhưng là "đích xuất”, vì vậy tự cho mình là cao
nhất. Thời kỳ quân phiệt cát cứ, anh em Viên Thiệu, Viên Thuật nắm binh quyền tự
lấy làm oai, nhưng thực lực của Viên Thiệu chừng như mạnh hơn, uy vọng tương đối
cao, nhân duyên cũng tốt hơn, vì vậy đa phần chư hầu hào kiệt đều dựa vào Viên
Thiệu. Viên Thuật từ hổ thẹn thành giận dữ, lớn tiếng mắng bọn chư hầu không
biết thế nào là phải trái, là đích thứ, không theo về người có huyết thống cao
quý, lại theo kẻ nô tài nhà họ Viên! Còn viết thư cho Công Tôn Toản nói, Viên
Thiệu là con của a hoàn, không phải giống nhà họ Viên. Điều đó không chỉ làm
Viên Thiệu tức giận, còn tạo nên ảnh hưởng rất xấu, đó chính là nguyên nhân
khiến sau này Viên Thiệu thất bại.
Chỉ
là kẻ ngông cuồng, tự đại, đầu óc đơn giản đến như vậy mà ngày nào cũng mơ làm
hoàng đế. Trong tay Tôn Kiên có ngọc tỉ truyền quốc. Năm 189, thái giám Trương
Nhượng cùng một số kẻ khác làm loạn, để rồi sau này ngọc tỉ rơi vào tay Tôn
Kiên. Sau khi biết tin, Viên Thuật cho bắt phu nhân Tôn Kiên làm con tin và đoạt
lấy. Có bảo bối lại hiểu nhầm mấy câu vè trong dân gian, Viên Thuật cảm thấy,
làm hoàng đế Trung Quốc ngoài mình ra không phải ai khác. Mùa xuân năm 197, chờ
đợi đã mỏi mòn, Viên Thuật đành chính thức xưng đế. Lúc này Tào Tháo đã nắm Hiến
đế trong tay, dời đô về Hứa Xương, có thể "ép thiên tử lệnh chư hầu”, đâu có dễ
để Viên Thuật hung hăng bắng nhắng? Tất nhiên, Tào Tháo cần phải loại bỏ thằng
hề này. Và Viên Thuật đâu phải đối thủ của Tào Tháo? Kết quả là bại rồi lại bại.
Năm 199, Viên Thuật binh bại như núi lở, chúng phản thân ly, cuối cùng tự thấy
mình không thể là hoàng đế liền quyết định chuyển ngọc tỉ truyền quốc sang cho
Viên Thiệu. Vì đây là bảo bối, Viên Thuật không nỡ vứt, cũng không thể tuỳ tiện
đem cho người khác, chuyển sang cho anh là hợp lý (lúc này đã nhận Viên Thiệu là
anh em), gì thì gì vẫn là người họ Viên. Nhưng ngay cả ý nghĩ đó, Viên Thuật
cũng không được như ý, vì Tào Tháo đã phái Lưu Bị chờ sẵn ở Hạ Bì (thành phố Bì
Châu, tỉnh Giang Tô ngày nay) chờ Viên Thuật đến nộp mạng. Không còn cách nào
khác, Viên Thuật đành phải quay về Hoài Nam. Lúc chạy đến Giang Đình, cách Thọ
Xuân (nay là huyện Thọ, An Huy) tám mươi dặm, Viên Thuật ngã bệnh, ô hô ai tai,
làm hoàng đế được ba năm rưỡi, nhưng là giả, không ai công
nhận.
Nghe
nói Viên Thuật chết rất thảm. Lúc Viên Thuật chết, xung quanh không còn chút
lương thực nào. Hỏi nhà bếp và được trả lời, còn ba mươi hộc lúa mạch (mười đấu
là một hộc). Nhà bếp nấu và bưng lên, nhưng Viên Thuật không thể nuốt được. Bấy
giờ là tháng sáu, trời nóng như thiêu như đốt, Viên Thuật muốn uống một chút mật
ong nhưng cũng không có. Viên Thuật một mình trên giường, than thở hồi lâu, rồi
đột nhiên kêu lên rất thảm. Viên Thuật ta, sao có thể rơi vào tình thế này? Gào
xong thì ngã vật xuống đất, nôn ra hơn đấu máu và nhắm
mắt.
Lẽ
ra Viên Thuật đã phải nghĩ, mình sẽ có kết cục như thế này. Ngay từ khi hắn có ý
xưng đế, rất nhiều người đã khuyên Viên Thuật không nên manh động làm bừa. Người
thân hơn như Bái tướng Trần Khuê không tán thành, mấy thuộc hạ như Diêm Tượng và
anh em Trương Phạm, Trương Thừa cũng không tán thành, Tôn Sách từ Giang Đông có
thư tới phản đối. Diêm Tượng nói, năm đó Chu Văn vương có tới uhai phần ba thiên
hạ” mà vẫn thần phục nhà Ản. Nay ngài không bằng Chu Văn Vương, Hán đế cũng
không phải Ân Trụ vương, sao có thể lấy mà thay? Trương Thừa đại diện cho Trương
Phạm cũng nói, lấy được thiên hạ hay không là "ở đức không ở đông”. Nếu mọi
người theo về, thiên hạ ủng hộ, thì có là một thất phu, cũng có thể thành vương
đạo bá nghiệp. Đâu có phải, cứ là con nhà quyền quý mới làm được hoàng đế. Tiếc
rằng, những lời trung khó nghe đó, Viên Thuật đều bỏ ngoài tai. Rõ ràng Viên
Thuật đã tối mắt vì lợi.
Chỗ
ngu xuẩn nhất của Viên Thuật, khi mọi người đều đang muốn làm hoàng đế, nhưng
đều không dám lộ mặt thì Viên Thuật đã nôn nóng, vội giơ đầu chịu báng. Nên nhớ,
một trong những truyền thống văn hoá Trung Quốc là "bắn con chim ra trước”,
"thanh rui lộ ra ngoài dễ bị mục”. Nhất là trong đám quần hùng cát cứ, thế lực
ngang nhau, đích ngắm của mọi người sẽ là đầu kẻ ra trước. Bọn Viên Thiệu hiểu
được điều đó, nên dù có ham muốn đến mấy, họ cũng cố nhịn. Tào Tháo càng sáng
suốt hơn. Tôn Quyền khuyên Tháo xưng đế, Tháo đã nhìn thấu mưu mô của Tôn Quyền,
thằng nhóc này muốn đẩy ta lên chảo lửa đây! Viên Thuật đã không hiểu. Thuật cho
rằng mình cứ xông lên sẽ chiếm được thế mạnh, liệu mọi người còn làm được gì! Vì
vậy Thuật vội vã tuyên bố mình là hoàng đế. Nào ngờ xưng hiệu hoàng đế không
phải thương hiệu, Thuật cũng không phải là vừa, kết quả không chỉ tự ném mình
vào lửa mà còn chơi với lửa nên đã bị lửa thiêu.
Trong
thực tế, có làm được hoàng đế hay không, không liên quan gì tới việc giành trước
giành sau, mà quan hệ tới thực lực và điều kiện lúc đó. Và dù điều kiện có thuận
lợi, cũng phải làm cho khéo, phải vờ từ chối, nhường nhịn, sau ba lần như vậy,
mới giả bộ thuận theo ý trời, lòng dân mà nhận, tuy trong bụng còn đầy ấm ức.
Đương nhiên đó là điều giả dối. Nhưng người Trung Quốc luôn làm như vậy. Nếu
không giả dối như vậy, e sẽ bị coi là đồ vô sỉ. Viên Thuật không có điều kiện và
thực lực, lại không tuân theo trình tự các thao tác đã định, nên Thuật không chỉ
là kẻ thù của Tháo và những người khác, mà còn là kẻ thù của nền văn hoá Trung
Quốc. Thêm vào đó, Thuật "bản tính kiêu ngạo, cho mình là nhất, không lo phép
tác, xa xỉ vô độ, ngang nhiên vơ vét, coi dân như cá thịt, nên càng mất lòng
dân. Dưới sự cai trị của Thiệu, Giang Hoài rỗng không, nhân dân phải ăn thịt lẫn
nhau. Còn Thuật, ngày ngày sơn hào hải vị, binh sĩ dưới quyền thì người người
chết vì đói, chết vì lạnh. Một loại vô liêm sỉ như vậy không thất bại mới là
lạ!
Chú
thích
(1)
Trong kinh kịch hoặc hý khúc Trung Quốc, vai diễn vẽ mặt trắng là vai phản diện,
gian ác (BTV).
(2)
Gọi là "năng thần trị thế, gian hùng thời loạn”, có thể giải thích là năng thần
trị lý thiên hạ, gian hùng nhiễu loạn thiên hạ, như vậy, gian hay năng còn tuỳ
thuộc vào nguyện vọng chủ quan của Tào Tháo. Ở đây không bàn tới (Tác
giả).
(3)
Gia Cát Lượng từng dâng biểu lên Lưu Thiện nói: "Từ ngày nhận mệnh, ngủ không
yên giấc, ăn không ngon miệng?”.
(4)
Thục - Nguỵ giao chiến, đối đầu ở Ngũ Trượng Nguyên. Thục sứ đến doanh trại quân
Nguỵ, Tư Mã Ý không hỏi việc quan, chỉ hỏi việc ăn uống nghỉ ngơi. Khi nghe nói
Gia Cát Lượng tinh mơ đã dậy, tận khuya mới đi nằm, tù những việc như phạt quân
hai mươi gậy cũng hỏi tới, liền đoán định luôn: "Lượng rồi sẽ chết!” (Tác
giả).
Xin
chân thành cảm ơn bạn Mõ Hà Nội (Nguyễn Học) và Mọt Sách đã đánh
máy và gởi đến thư viện VN Thư quán tác phẩm LUẬN ANH HÙNG của tác giả DỊCH
TRUNG THIÊN