THIÊN THỨ HAI
THÂN NGÔ CHỐNG TÀO
Chương VIII
TRANH GIÀNH BÁ QUYỀN Ở KINH CHÂU
Theo sử liệu ghi chép, chuyện "mượn Kinh
Châu” khi truyền đến phương bắc.
Tào Tháo đang viết chữ, để bút rơi xuống đất.
Sự liên hợp của Tôn - Lưu, đã khiến cho Tào
Tháo không thể không thấy hùng tâm thông nhất Trung Quốc của mình đã chết.
1. Ngoài mặt thì quân tử trong bụng thì ngấm
ngầm.
Ở trận Xích Bích thế lực của Tào Tháo bị đuổi
khỏi lưu vực Trường Giang, hy vọng thống nhất Trung Quốc trong một thời gian ngắn
trở nên vô vọng. Song hai bên Tôn - Lưu vừa thắng trận, lại bắt đầu nảy sinh
mâu thuẫn tranh giành với nhau.
Sau khi chiến dịch Giang Lăng kết thúc,
chính quyền Giang Đông của Tôn Quyền càng được củng cố. Đối với việc Lưu Bị
nhân cơ hội mà đánh chiếm Nam quận vẫn thường bất mãn, song bởi sợ Tào Tháo
nhân mâu thuẫn của hai bên Tôn Lưu mà lại kéo đến xâm lược, Tôn Quyền chưa có
hành động gì can thiệp cụ thể, chỉ lập tức bổ nhiệm Chu Du làm Thái thú Nam quận,
tổng binh trấn thủ Giang Lăng, Trình Phổ làm Thái thú Giang Hạ biểu thị ý đồ
tích cực chiếm Kinh Châu.
Về phía Lưu Bị cũng không vừa, bởi Lưu Kỳ
là Thái thú Kinh Châu, Lưu Bị vẫn giữ lý lẽ mà cai quản các vùng đất ở Nam quận,
theo đề nghị của Gia Cát Lượng, Lưu Bị dâng thư lên triều đình; cử Tôn Quyền
làm Xa kỵ tướng quân, giữ chức Từ Châu mục biểu thị hy vọng rõ ràng Tôn Quyền sẽ
phát triển sự nghiệp ở đông bắc.
Song Tôn Quyền cũng chẳng kém, theo đề nghị
của Chu Du và Lỗ Túc, chuyển hướng phát triển xuống Lĩnh Nam, rất mau chóng chiếm
được Giao Châu và một phần Quảng Châu, cùng với bốn quận phía nam Kinh Châu, tạo
thành thế bao vây từ hai phía đông và nam.
Hai bên đối đáp nhau, ngoài mặt tuy vẫn duy
trì phong độ quân tử, lấy lễ mà tiếp đãi, song ngấm ngầm thủ đoạn với nhau sâu
sắc hơn.
Lúc ấy đại tướng quân Tào là Lôi Tư làm
binh biến ở quận Lư Giang, bị Hạ Hầu Uyên đánh phá, đành đem mấy vạn quân theo
về với Lưu Bị, khiến quân lực của Lưu Bị càng thêm mạnh, Tôn Quyền muốn động
binh cũng chẳng phải dễ dàng gì.
Kẻ chịu nhiều gian khổ nhất phải kể là Lỗ
Túc. Chu Du trong chiến dịch Xích Bích, đã thấy Lưu Bị mau chóng khuyếch
trương, có ý lo ngại, sau trở thành lãnh tụ của phái Chim Ưng ngăn cản thế lực
của Lưu Bị. Bởi thế duy trì quan hệ Tôn - Lưu, chỉ còn một mình Lỗ Túc đơn
thương độc mã. Song Lỗ Túc là người cứng cỏi, giữ vững nguyên tắc, ông ta không
vì tình thế thay đổi mà chán nản, lại càng cố gắng dung hoà ý kiến đôi bên. Lúc
ấy người duy nhất có thể giúp đỡ, an ủi ông ta một chút chính là Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng tuy quan tâm lấy trận doanh
làm cơ bản sinh tồn mà hăng hái khuyếch trương, song "thân Ngô chống Tào” là quốc
sách cơ bản rất quan trọng của ông ta, cho nên ông ta cũng không muôn thấy hai
bên Tôn - Lưu đổi bạn thành thù, cho nên cô gắng hết sức để hoà hợp thuyết phục,
sưu tầm công thức chung mà hai bên cùng có thể tiếp thu.
Vấn đề quan trọng hàng đầu lúc này lại là
chuyện Lưu Kỳ ngã bệnh từ trần. Theo sách lược của Gia Cát Lượng, các quận huyện
và tướng lĩnh phía nam Kinh Châu, cùng tuyên thệ ủng hộ Lưu Bị kế nhiệm chức
Kinh Châu mục. Lưu Bị cũng nhân cơ hội này mà đóng dinh ở Du Giang Khẩu (nay là
tỉnh Hồ Bắc), đổi tên là quận Công An, tạm thời là trung tâm điều hành của Kinh
Châu. Sau việc này, Tôn Quyền càng không yên tâm, Chu Du ở Giang Lăng cũng triển
khai tư thế sẵn sàng can thiệp quân sự. Lỗ Túc phải vội vàng tìm gặp Gia Cát Lượng,
hy vọng hai bên tiến hành thương lượng, cho Tôn Quyền và Chu Du yên tâm, để
tránh một cuộc xung đột không cần thiết xảy ra.
Gia Cát Lượng cũng không muốn hai bên trở mặt,
bởi thế cố thuyết phục Lưu Bị, mềm dẻo để đạt lợi ích thực tế, thừa nhận Nam quận
thuộc quyền cai quản của Tôn Quyền, song trước mắt tạm thời cho Lưu Bị mượn đất
ở. Nói cách khác, Chu Du trở thành Thái thú Nam quận trên danh nghĩa, song Tôn
Quyền cũng phải thừa nhận địa vị của Lưu Bị ở Công An.
2. Đối kháng - Hoà đàm - Mỹ nhân kế.
Vào giai đoạn này, ở những dinh sở cũ của
Lưu Biểu tại bắc Kinh Châu, theo lời hiệu triệu của Hoàng Trung và Ngụy Diên,
theo nhau ly khai Tào Nhân ở Tương Dương thành, vượt qua vùng Giang Lăng thuộc
Chu Du, về nam đi theo Lưu Bị, khiến cho quân thế của Lưu Bị mạnh lên không ít.
Để tăng cường quan hệ Tôn - Lưu, Lỗ Túc chủ
trương hai bên qua hôn nhân mà thêm gắn bó. Bởi vợ cả của Lưu Bị là Cam phu
nhân mới từ trần, Ngô Quyền được sự đồng ý của Thái phu nhân, đem người em gái
chưa đến 20 tuổi gả cho Lưu Bị đã 49 tuổi, để ổn định quan hệ chính trị giữa
hai bên. Tam quốc chí có chép về việc này: "Tôn Quyền có ý giao hảo, đem em gái
gả cho Lưu Bị”.
Em gái của Tôn Quyền, "Tam quốc diễn nghĩa”
gọi là Tôn Nhân, có khi còn gọi là Tôn Thượng Hương. Nghe nói người con gái ấy
cũng di truyền tinh thần thượng võ của phụ huynh. Tuy lớn lên khá xinh đẹp,
song cá tính cứng cỏi, năm gần 20 tuổi vẫn chưa xuất giá (ở xã hội cổ đại Trung
Quốc đã kể là cao số) gặp được Lưu Bị là khách anh hùng, kể như là sự phối hợp
tuyệt đẹp, song cuộc hôn nhân chính trị này lại không có hạnh phúc. Sau thời
gian Lưu Bị vào đất Thục, Tôn Quyền mang Tôn phu nhân về đất Ngô, còn chuẩn bị
mang theo A Đẩu là con trưởng của Lưu Bị, may mà Triệu Vân, Trương Phi chặn đường
thủy, cứu được A Đẩu. Song quan hệ liên minh Tôn - Lưu đến đây cơ hồ như chấm dứt.
Bởi ổn định việc điểu hành ở nam Kinh Châu,
Lưu Bị bổ nhiệm Gia Cát Lượng là Trung lang tướng, đốc lý các quận Linh Lăng,
Quế Dương, Trường Sa. Gia Cát Lượng chỉ huy ở trung tâm, đặt đại bản doanh ở
Lâm Trưng (nay thuộc tỉnh Hồ Nam), Lâm Trưng ở giữa ba quận, thuận tiện giao
thông qua lại. Vai diễn của Gia Cát Lượng lúc ấy, cũng giống như Tiêu Hà thời kỳ
ở Hán Trung và Quan Trung, chủ yếu ở việc lo liệu tích trữ lương thảo, đáp ứng
nhu cầu của Lưu Bị.
Ở phía nam bốn quận này, có một số dân tộc
thiểu số sinh sống, ghi chép của quan phủ thường gọi là Man tộc. Từ thời Tần
Hán trở lại, triều đình đặt quận huyện thống trị ở đó; bởi "trời thì cao mà
hoàng đế thì xa”, các quan lại ở đây đã bóc lột dân lành một cách tàn khốc thậm
chí còn tàn sát hàng loạt khi họ chống lại. Thù hận chất chồng, những dân tộc
thiểu số này thường đứng lên đấu tranh vũ trang, tạo thành sự bất bình.
Các quan lại hành chính cũ thường nói đến
pháp trị, nghiêm khắc trừng trị bạo loạn, song nhìn chung vẫn loạn lạc triền
miên, chỉ trấn áp được nhất thời mà không thể chữa được gốc bệnh. Gia Cát Lượng
sau khi tiếp quản ba quận phía nam đã thay đổi tác phong; "Tam quốc chí” có
chép, ông ta lấy thái độ khoan dung, dùng chính sách "phủ dụ” đối với "Man tộc”,
làm cho cục diện hỗn loạn mau chóng được bình ổn lại. Trong "Long Trung Sách”
có nhắc đến "Nam phủ di việt”, chính sách đó bưốc đầu được thực hiện cụ thể ở
đây.
Năm Kiến An thứ 15, Lưu Bị đã ổn định được
chính quyền ở Công An, song Chu Du đóng đồn ở Giang Lăng gần đó, không nghi ngờ
gì là một áp lực lớn đối với Lưu Bị; phát triển lên bắc thì chẳng thể được, về
phía nam hoặc tây thì đều vấp phải Chu Du; bởi thế muốn đến Giang Đông thương
lượng với Tôn Quyền, hy vọng sát nhập Giang Lăng vào vùng đất mà Lưu Bị cai quản,
đấy chính là sự kiện lịch sử gọi là "mượn Kinh Châu”.
Gia Cát Lượng thấy tâm lý Lưu Bị bất an, thể
hiện rất rõ ràng, huống chi quy hoạch của "Long Trung Sách” bước tiếp theo là
tây tiến sang Ích Châu. Song vướng nỗi Chu Du đang trấn thủ ở Giang Lăng, tất cả
kế hoạch về căn bản không có khả năng thực hành. Lưu Bị phải đích thân đến Đông
Ngô đàm phán, tựa hồ rất chi nguy hiểm song ông ta cũng chưa tìm thấy phương
pháp gì cụ thể để giải quyết, Lưu Bị và Tôn Quyền ít ra cũng là chỗ thân thiết,
nếu như việc giao thiệp có thành công ở mức nào, Gia Cát Lượng cũng chưa lường
hết, cho nên ông ta chỉ có thể "khuyến cáo” về phương thức, hy vọng Lưu Bị sẽ
xem xét cẩn thận.
Thái độ của Lưu Bị lại là khá cương quyết;
ông ta cho rằng Tôn Quyền thực ra vẫn đau đầu với phương bắc, bị Tào Tháo uy hiếp,
Tôn Quyền vẫn muôn có sự viện trợ, cho nên không cho rằng Đông Ngô sẽ đưa ra những
điều "bất lợi” cho hành động của mình. Gia Cát Lượng tuy trong bụng không yên
tâm, cũng không thể cản trở nổi ông ta, đành gửi gắm cả ở viên tùy tùng, dặn có
chuyện gì phải tìm ngay Lỗ Túc, đối với sự phản ứng của Chu Du, phải luôn đặc
biệt chú ý.
Lưu Bị một mình hội kiến với Tôn Quyền ở
Kinh Khẩu (thuộc tỉnh Giang Tô) tuy đã thành thân thích song hai vị hào kiệt
này mới lần đầu giáp mặt, đều không tránh khỏi có ý ngưỡng mộ nhau; Tôn Quyền lấy
lễ thủ trưởng châu quận mà khoản đãi Lưu Bị.
Không như Gia Cát Lượng trù liệu, khi Lưu Bị
đề xuất vấn đề mượn Kinh Châu, Tôn Quyền sẽ lập tức phản ứng; ông ta không dễ từ
chối trước mắt, đành đẩy vấn đề về phía Chu Du. Giang Lăng là nơi mà Chu Du đã
liều mình cướp được, nên để ông ta chuyển giao Giang Lăng, ít ra cũng phải để
ông ta đồng ý một cách tình nguyện. Bởi thế đáp lại yêu cầu mà Lưu Bị đưa ra,
Tôn Quyền đã ủy thác cả cho Chu Du.
Chu Du khi nghe Tôn Quyền nói về việc ấy tự
nhiên kiên quyết phản đối; ông ta còn lập tức đề nghị với Tôn Quyền rằng:
"Lưu Bị có tư thế kiêu hùng, mà lại có Quan
Vũ, Trương Phi như hổ như gấu, ắt chẳng thể ở vị trí luồn cúi người khác lâu
dài. Bởi thế, tôi cho rằng tốt nhất là cầm chân Lưu Bị ở Đông Ngô, ban cho ông
ta cung thất đẹp nhất, cấp cho ông ta nhiều mỹ nữ giỏi múa hát để làm vui tai mắt.
Lưu Bị lâu ngày xa cách Quan Vũ và Trương Phi khiến những người ấy không gắn bó
nữa, Chu Du tôi có thể nhân cơ hội ấy thu lại bốn quận phía nam. Nếu như đưa
Giang Lăng cho Lưu Bị để ba người này tụ họp ở đấy, sợ rằng giống như Giao Long
gặp mưa lành, cuối cùng chẳng chịu ở trong ao nữa”.
"Tam quốc diễn nghĩa” miêu tả Chu Du dùng
em gái Tôn Quyền để giam lỏng Lưu Bị, kỳ thực đại khái là phong tỏa mà dần dần
làm cho hủ bại. Tôn phu nhân khi theo chồng về đất Công An, Chu Du về căn bản
không thể hiện ý kiến gì; "Tam quốc chí” có chép, việc đem em gái ra để củng cố
tình thân đôi bên và Chu Du có đề nghị ra sao, chẳng qua là khẩu khí của phái
Diều Hâu mà thôi, còn trong bụng ông ta cũng đã rõ, Tôn Quyền nặng về nhìn nhận
đại cục chẳng thể nhân khả năng này mà phá hoại sách lược "đoàn kết”.
Song Tôn Quyền cho rằng liệu định của Chu
Du cũng cao kiến; ông ta triệu tập đại diện của phái Diều Hâu là Thái thú Lã Phạm
và đại diện phái Bồ Chu là Lỗ Túc cùng thương nghị. Lã Phạm chủ trương giam lỏng
Lưu Bị cũng giống như đề nghị của Chu Du. Lỗ Túc thì lấy đại cục "cùng chống
Tào Tháo” làm xuất phát điểm, cho rằng có thể đưa Giang Lăng cho Lưu Bị, để
cùng hợp lực mà phòng ngự tốt hơn với phương Bắc”.
Lỗ Túc lại nói với Tôn Quyền rằng: "Tướng
quân là bậc anh hùng cái thế, song thực lực của Đông Ngô chúng ta về căn bản chẳng
thể so với Tào Tháo, huống chi Kinh Châu vừa mới chiếm được, chúng ta còn chưa
có ân huệ gì với trăm họ Kinh Châu, chẳng bằng cứ để cho Lưu Bị vỗ yên họ, ổn định
tình thế Kinh Châu, cộng đồng đế kháng Tào Tháo, đấy chẳng phải là có lợi lắm
ư?”.
Sau đó không lâu, Lưu Bị khẩn khoản xin về
Công An, Tôn Quyền không thể giữ mãi, phải chuẩn bị tiệc lớn đưa chân; còn về
chuyện mượn Kinh Châu, cứ tạm thời gác lại sau. Cuốn "Sơn dương công tải ký” có
chép:
Lưu Bị sau khi giáp mặt với Tôn Quyền, trở
về nói với tùy tùng rằng: "Xa kỵ tướng quân Tôn Quyền khoảng thân mình thì dài
mà chân thì ngắn loại người như thế thì khó một mình mà thuyết phục nổi ông ta,
chúng ta hãy mau chân mà chạy cho thoát thôi!”.
3. Tất cả đều xem Ích Châu là miếng mồi
ngon.
Chu Du thấy thế lực của Lưu Bị mau chóng
bành trướng, Tôn Quyền lại thiếu sách lược lôi kéo hữu hiệu, trong lòng không
yên, mấy quận nam Kinh Châu muốn thu hồi lại, đã không thể được; bởi thế ông ta
đề nghị với Tôn Quyền, xuất phát từ Giang Lăng mà đánh lấy Ích Châu, lại từ hai
phía đông tây mà giáp kích nam Kinh Châu, như thế thế lực của Lưu Bị sẽ mắc vào
giữa cạm bẫy.
Ông ta nói với Tôn Quyền rằng: "Tào Tháo
sau khi thất bại ở Xích Bích, uy tín đã mất đi, đành phải ngồi yên ở phía bắc,
trong một thời gian ngắn chẳng thể động binh xuống phía nam; bởi thế đây là cơ
hội rất tốt để chúng ta thu được cả vùng đất phía nam giáp với Trường Giang.
Vùng đất Ích Châu phía tây, lãnh chúa là Lưu Chương vốn nhu nhược, chẳng thể tự
giữ mình, xin hãy để tôi và Phấn uy tướng quân Tôn Du cùng tiến quân đoạt lấy đất
Thục, sau khi được Thục sẽ tiến lên phía bắc đoạt lấy Hán Trung, thôn tính
Trương Lỗ, nếu có thể kết thân với Mã Siêu ở Quan Trung, có thể nhờ đó mà tranh
thiên hạ với Tào Tháo ở xứ bắc”.
Tôn Quyền bỗng thấy vấn đề rất rõ ràng, mục
tiêu của Chu Du trong sách lược này là áp chế Lưu Bị, song ông ta rất phục chí
hướng lớn lao và khí phách của Chu Du, mau chóng phê chuẩn kế hoạch này, còn đề
nghị Chu Du khẩn trương tiến hành việc chuẩn bị. Do vết thương của Chu Du chưa
lành, bèn lệnh cho Tôn Du dẫn thủy quân đến trước đóng đồn ở Hạ Khẩu.
Nhưng Lỗ Túc vẫn cương quyết cho rằng làm
thế không được; tiến công Ích Châu nếu không được Lưu Bị giúp đỡ, nhỡ tạo thành
xung đột, quân viễn chinh Đông Ngô sẽ rơi vào thế đỡ địch ở sau lưng, thực là rất
nguy hiểm. Huống chi một khi xung đột với Lưu Bị, kẻ rất vui mừng hẳn là Tào
Tháo ở phương bắc. Nếu Tào Nhân tranh thủ thời cơ từ Tương Dương đánh xuống,
Giang Lăng có thể không giữ vững được.
Tôn Quyền nghĩ cũng phải, liền viết một
phong thư, ước hẹn với Lưu Bị cùng đánh Ích Châu; trong thư có viết:
Mễ tặc Trương Lỗ (hậu duệ của phái Trương
Thiên Sư, vẫn xưng là đạo giáo năm đấu gạo) xưng vương ở đất Bá Thục, Hán
Trung, làm tai mắt cho Tào Tháo hiện mưu toan chiếm Ích Châu. Lãnh chúa Ích
Châu là Lưu Chương, yếu kém về võ bị, sợ khó tự giữ mình được. Nếu Ích Châu rơi
vào tay Tào Tháo, Kinh Châu ắt sẽ nguy hiểm. Bởi thế, tôi nghĩ nên sớm ra tay,
tiến đánh Lưu Chương, sau sẽ trấn áp Trương Lỗ, nếu nối liền được Giang Đông,
Kinh Châu, Thục Hán, dẫu có đến 10 Tào Tháo, cũng chẳng phải bận tâm nữa.
Việc đoạt lấy Ích Châu, là mục tiêu thứ hai
rất quan trọng trong Long Trung Sách, rõ ràng chẳng thể nhường cho Đông Ngô.
Lưu Bị và Gia Cát Lượng nhận được lá thư ấy đều rất đau đầu buốt óc. Huống chi
Tôn Quyền tuy mời mọc khách khí, thực ra ý tứ khẩu khí lộ rõ ý muốn cưỡng đoạt.
Gia Cát Lượng đề nghị với Lưu Bị, với tình
hình như vậy thái độ càng phải cứng rắn; chỉ có như thế mới có thể triệt để
ngăn chặn dã tâm của Tôn Quyền và Chu Du.
Bởi vậy Lưu Bị lập tức viết một lá thư trả
lời Tôn Quyền:
Ích Châu là vùng đất nhân dân giàu có, địa
thế hiểm trở, Lưu Chương tuy nhu nhược, cũng đủ tự giữ mình. Trương Lỗ xảo trá,
chưa hẳn đã tận tâm với Tào Tháo. Nay vội vàng lấy sức mạnh mà tiến đánh Thục
Hán, riêng việc vận chuyển lương thực, vạn dặm xa xôi, hiển nhiên là gian khó
trùng trùng. Nghĩ rằng dễ dàng đánh thắng trong cuộc chiến tranh này mà không
phải hy sinh rất nhiều quân lực; ngay đến Tôn Vũ và Ngô Khởi với thiên tài quân
sự như vậy cũng không làm nổi.
Trước mắt Tào Tháo vẫn còn nuôi dã tâm,
khinh nhờn cả hoàng đế, song ít ra ông ta vẫn phụng mệnh thiên tử, có danh
nghĩa thay mặt triều đình. Tuy có không ít người cho rằng Tào Tháo sau thất bại
ở Xích Bích, đã chịu náu mình không còn đủ ý chí thống nhất thiên hạ. Thực ra
phán đoán như vậy là sai lầm, Tào Tháo đã có hai phần ba thiên hạ, có thể tin rằng
không lâu nữa, ông ta nhất định khuyếch trương thế lực đến tận Thượng Hải, lại
thách đấu với Đông Ngô, sao có thể ngồi ở đất bắc mà đợi cái già kéo đến nhỉ?
Nay chúng ta cùng thề sát phạt lẫn nhau như vậy, ắt sẽ bị Tào Tháo lợi dụng,
khiến kẻ địch lại tìm được nhược điểm của chúng ta, bởi thế tôi cho rằng kế hoạch
đánh Thục không bao giờ chấp nhận được.
Tôn Quyền chẳng dễ bị thuyết phục như thế;
ông ta lệnh cho Tôn Du đang đóng đồn ở Hạ Khẩu bắt đầu sắp xếp nhân mã, dự bị để
sắp tới sẽ nhảy vào cuộc.
Lưu Bị không chịu kém, ông ta lệnh cho Quan
Vũ đóng đồn ở gần Giang Lăng, Trương Phi đóng đồn ở Tỉ Quy, Gia Cát Lượng tiến
quân đến đóng ở Nam quận, còn Lưu Bị cũng tự mình kéo đên Sàn Lăng, hơn nữa còn
cho người đên nói với Tôn Quyền rằng:
"Lưu Bị tôi với Lưu Chương cũng là hoàng tộc,
xét về lý phải cùng phò giúp triều đình, nay Lưu Chương đắc tội với xung quanh,
Lưu Bị tôi cũng có phần trách nhiệm, bởi thế hy vọng ngài hãy nể mặt tôi mà tha
thứ cho hắn, nếu không tướng quân cứ kiên quyết đánh Ích Châu, Lưu Bị tôi đành
phải vào nơi núi sâu làm kẻ ẩn dật cũng bởi việc này, để khỏi thất tín với
thiên hạ”.
Hiển nhiên đấy là "tối hậu thư” vừa mềm vừa
cứng, một mặt cầu xin Tôn Quyền, buông tha cho Lưu Chương, một mặt khác cũng biểu
thị đầy đủ, nếu như Tôn Quyền cứ ương ngạnh không nể mặt mình, sẽ cho ông ta
biêt mình cũng ương ngạnh đáo để. Thái độ cứng rắn ấy của Lưu Bị đã đặt Tôn Quyền
trước một sự lựa chọn, còn chưa rõ tình huống sẽ ra sao, đành phải lệnh cho Tôn
Du đình chỉ mọi hành động chuẩn bị.
4. Chu Du từ trần, Lỗ Túc tiếp nhiệm.
Đương khi quan hệ giữa Đông Ngô và Lưu Bị rất
căng thẳng, Quan Vũ gây áp lực ở Giang Lăng, làm cho Giang Lăng càng phải tăng
cường phòng thủ, Chu Du đang dưỡng bệnh đành phải gượng đứng dậy, từ kinh thành
vội đến Giang Lăng. Chẳng ngờ mới đến giữa đường, nhọt tên vỡ ra, chết ở Ba
Lăng (thuộc tỉnh Hồ Nam), thiên tài quân sự một thời cuối cùng cũng đành phải
nuốt hận.
"Tam quốc diễn nghĩa” tô vẽ thêm, Chu Du và
Gia Cát Lượng luôn tranh giành nhau, đã lấy "Tam chí Chu Công Cẩn” để miêu tả
cái chết của Chu Du, bầy đặt ra rằng Chu Du vốn có tâm địa nhỏ nhen, còn Gia
Cát Lượng thì có trí tuệ dự trắc cao xa, thực ra đều không dựa vào một chút sử
liệu nào.
Dẫu là đấu trí hoặc đấu lực, Chu Du chưa từng
đọ cao thấp với Gia Cát Lượng; nghiêm chỉnh "vai phụ” chưa đủ tư cách để vượt
qua "minh tinh màn bạc siêu hạng” như Chu Du. Thậm chí có thể nói nếu không có
sự ưu đãi đặc biệt của Lỗ Túc và Chu Du, Gia Cát Lượng trong công tác ngoại
giao liên hợp trận tuyến Tôn - Lưu, có thể đã không được thuận lợi như vậy.
Chu Du lúc đầu vẫn ủng hộ Lưu Bị, song ở
chiến dịch Giang Lăng, thái độ của ông ta rất thay đổi. Có thể là trong chiến dịch
Giang Lăng, phía Đông Ngô tổn thất rất nặng còn Lưu Bị lại là ngư ông mò cá,
nhân cơ hội mà chiếm được một vùng đất rộng lớn của bốn quận phía nam, khiến
ông ta có tâm lý bất thường. Huống chi tự mình lại mang trọng thương, vẫn chẳng
thể có chuyển biến tốt, khiến ông ta trong lòng lúc nào cũng bị một áp lực lớn,
về mặt suy nghĩ có khuynh hướng chết cứng. Hơn nữa ông ta mang trọng trách
phòng thủ quốc gia, đối với thế lực Lưu Bị mau chóng bành trướng từ chỗ không
có gì, không thể không cảnh giác; bởi thế, sau trận Xích Bích, Chu Du thay đổi
thái độ để đối phó tích cực với sự phát triển lực lượng của Lưu Bị.
Song trước lúc ra đi vào cõi vĩnh hằng, Chu
Du vẫn lấy lý trí để dằn tình cảm của mình; ông nhận thức sâu sắc rằng uy hiếp
lớn nhất với Đông Ngô vẫn là Tào Tháo, nếu chắng có sự giúp đỡ của Lưu Bị, Đông
Ngô sẽ chẳng thể đơn độc chống lại Tào Tháo, hơn nữa sẽ phải trả giá nghiêm trọng.
Bởi thê ông viết một lá thư vĩnh biệt gửi lại cho Tôn Quyền, tiến cử người bạn
thân thiết của ông, có lập trường vững vàng đủ đối phó được với Lưu Bị, sẽ nối
tiêp nhiệm vụ của ông, đó là Lỗ Túc. Ông ta viết rằng:
Đương khi thiên hạ đang giữa thế cờ lớn, đầy
xung đột và căng thẳng, cũng là lúc tôi ngày đêm lo lắng muốn đem hết tâm lực,
vì sự an toàn của quốc gia mà sớm quy hoạch được tốt nhất, nay tôi xem Tào Tháo
là kẻ địch, Lưu Bị thì ở Công An gần kề với Giang Lăng, trăm họ còn chưa theo về
với ta, tình thế chưa ổn định, rất nên lấy bậc đại hiền lương tướng mà vỗ yên họ.
Lỗ Túc đủ tài chí để làm công việc ấy, xin được cho ông ta thay tôi kế nhiệm chức
vụ. Chu Du tôi số mệnh có hạn chẳng thể hầu hạ tướng quân nữa, chỉ có một ý cuối
cùng này bày tỏ với tướng quân mà thôi.
Lá thư này lộ rõ tấm lòng lo nước quên thân
của Chu Du; ông ta có chí lớn, không chịu bó mình trong sự hạn chế vốn có của ý
thức cũ, nỗ lực tìm một người thích hợp nhất với lợi ích quốc gia. Qua đấy có
thể thấy Chu Du đích xác là một nhân vật anh hùng thực có khí chất.
Tôn Quyền nhận được tin buồn về Chu Du, bỗng
khóc ầm lên. Ông ta nói với các đại thần rằng: "Chu Công Cẩn là chỗ dựa của ta,
nay bỗng nhiên ra đi, ta còn dựa vào ai sau này nữa?”. Ông ta thuận theo đề nghị
của Chu Du bổ nhiệm Lỗ Túc làm Đô đốc trấn thủ Giang Lăng.
Chu Du khi tạ thế mới có 36 tuổi.
Tôn Quyền khi mới kế nhiệm ở Giang Đông, do
tuổi còn trẻ lại từ con đường văn nghiệp xuất thân, một số tướng lĩnh cũ, vẫn
có ý xem thường, khi yết kiến thường qua loa cho phải lệ mà thôi, chỉ có Chu Du
ở vị trí một Đô đốc, vẫn giữ quân lễ long trọng để biểu thị trung thành với
lãnh tụ trẻ tuổi ấy, khiến tính hợp pháp và tính uy quyền của Tôn Quyền chỉ
trong thời gian ngắn đã được đề cao.
"Giang biểu truyện” có chép, lúc mới đầu
lão tướng Trình Phổ đối với Chu Du còn trẻ tuổi mà sớm được cất nhắc vào vị trí
lớn thường bất mãn, cố ý tỏ thái độ ngạo mạn; song Chu Du không kể đến, lại còn
biểu hiện sự khiêm tốn trước mặt Trình Phổ, khiến cho Trình Phổ vốn ngoan cố cuối
cùng không thể không cảm phục, hơn nữa còn nói với mọi người rằng: "Tiếp xúc với
Chu Công Cẩn, như được uống rượu ngon, đặc biệt lúc mới uống chưa cảm thấy rõ,
song uống rồi thì càng say càng thích khẩu”.
Tào Tháo khi ở Ký Châu, vẫn thường nghe Chu
Du tài hoa hơn người, đối với người thì khiêm tốn lễ độ, bèn phái Tưởng Cán, một
người tài ở đất Cửu Giang giỏi ăn nói hùng biện, lấy tình riêng mà đến du thuyết
Chu Du, sớm quy phục về với triều đình.
Chu Du với Tưởng Cán là bạn chăn trâu đánh
đáo, nghe tin Tưởng Cán đến, lập tức ra tận ngoài cửa đứng đón, lại mỉm cười bảo:
"Tử Ký (tức Tưởng Cán) sao phải khổ sở bôn ba là vậy, chắc đang làm thuyết
khách cho Tào Tháo chứ gì?”
Tưởng Cán nói: "Sau khi khôn lớn, chúng ta
mỗi người một đường, xa xôi cách trở tuy thường nghe danh Công Cẩn, mà không gặp
được một lần, khó thấy cơ hội, nay mừng được gặp sao cứ nhất định xem là thuyết
khách nhỉ?”.
Chu Du cười bảo: "Tôi tuy chẳng hiểu được
thanh âm ngoài tiếng đàn, song cũng tạm hiểu được tiếng đàn nói gì vậy!”.
Thế rồi chủ khách cùng vào trong quân trướng
thưởng thức rượu thịt. Sau khi ăn, Chu Du nói với Tưởng Cán: "Tôi đang có việc
gấp phải đến họp, chẳng thể ngồi tiếp ông, đợi khi họp về sẽ cùng hàn huyên;
ông có thể tự do tùy tiện dạo chơi đâu đó”.
Nói xong để Tưởng Cán ở lại, còn mình đi ra
ngoài lo công việc. Ba ngày sau Chu Du lại cho mời Tưởng Cán, dẫn ông ta đi
tham quan doanh trại, thậm chí cả nơi để quân khí lương thực. Sau khi về trại lại
mở yến tiệc khoản đãi; xong tiệc Chu Du trỏ vào các báu vật xung quanh thản
nhiên bảo: "Trương phụ ở đời gặp được minh chủ tri kỷ, ngoài nghĩa quân thần,
trong có ân cốt nhục, mọi lòi nói việc làm, có đủ họa và phúc; kể như Tô Tần,
Trương Nghi sống lại, Ly Tẩu xuất hiện tôi cũng vỗ vai mà bắt bẻ; để họ biết đường
mà rút, huống chi ông với tôi là chỗ bạn bè thuở nhỏ, hiểu nhau quá rõ, có gì
mà phải biện luận nữa?”
Tưởng Cán chỉ biết mỉm cười chẳng thể nói
gì thêm; sau này có nói với Tào Tháo rằng: "Chu Du khí chất rất lớn, chẳng phải
người có thể dùng biện thuyết mà thuyết phục được”.
Những phần tử thức thời ở Trung Nguyên cũng
có nhiều lời tán thưởng hoa mỹ về Chu Du.
Khi Lưu Bị sắp rời Kinh Khẩu về Kinh Châu,
Tôn Quyền cùng bọn Trương Chiên, Lỗ Túc đưa tiễn; sau khi yến tiệc, bọn Lỗ Túc
đã ra ngoài, Tôn Quyền ngồi với Lưu Bị nói chuyện trong nhà với nhau; Tôn Quyền
than thở với Lưu Bị rằng: "Chu Du văn võ thao lược, trong vạn người khó thấy một
người tinh anh như thế, tôi thấy ông ta có khí chất rất lớn, dứt khoát chẳng phải
là hạng bầy tôi tầm thường, nay bị nhọt tên chữa lâu mà không khỏi vẫn sợ rằng
trời cao lại đố kỵ với anh tài vậy!”.
Sau này Tôn Quyền khi nhớ lại trận Xích
Bích, thường nói với mọi người rằng: "Quả nhân nếu không có Chu Công Cẩn dứt
khoát không bao giờ có ngôi vị hoàng đế này!”.
5. Lỗ Túc cho mượn Giang Lăng, Tôn - Lưu trở
lại liên hợp.
Sự ra đi của Chu Du đối với Lưu Bị và Gia
Cát Lượng mà nói, lại đem đến một sự thoải mái. Chẳng những áp lực của Giang
Lăng ít đi, mà Tôn Quyền cũng không nhắc nhở đến chuyện Ích Châu nữa.
Lỗ Túc lên kế nhiệm, nhờ được Chu Du tiến cử,
ông ta kiên trì nguyên tắc liên hợp Tôn - Lưu để chống Tào Tháo, càng tích cực
theo đuổi chủ trương cho Lưu Bị mượn Giang Lăng, để Lưu Bị phụ trách nhiệm vụ bảo
vệ phòng tuyến phía tây.
Đã dùng người phải tin ở người, Tôn Quyền
cũng mau chóng phê chuẩn đề nghị ấy, Lỗ Túc bèn đưa quân đoàn Giang Lăng mà Chu
Du thống lĩnh dời về phía đông đóng ở Lục Khẩu, Lưu Bị thì dời trụ sở từ Công
An về Giang Lăng. Lại bổ nhiệm Quan Vũ làm Đãng khấu tướng quân, Thái thú Tương
Dương đóng đồn ở Giang Bắc, Trương Phi thì làm Chinh lỗ tướng quân, kiêm thức
Thái thú Nam quận. Nhiệm vụ của giai đoạn một trong Long Trung Sách, có được
Kinh Châu, đến nay đã hoàn toàn đoạt được.
Kinh Châu vào cuối đời Đông Hán gồm có bảy
quận: Nam Dương, Nam Quận, Giang Hạ, Võ Lăng, Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng.
Tào Tháo khi triệt thoái ở Kinh Châu, thực ra vẫn còn dinh sở ở Tương Dương
thành, đấy là một vị trí rất quan trọng ở phía bắc Kinh Châu, thuộc quận Nam
Dương. Tôn Quyền thì chiếm được quận Giang Hạ và phía đông Nam Quận. Ngoài ra
Lưu Bị sớm đã nhân khi rối loạn bởi trận đánh Xích Bích, tranh thủ thời cơ chiếm
được bôn quận kia và một phần Nam Quận. Bởi thế việc "mượn Kinh Châu” mà Lỗ Túc
đưa ra, kỳ thực chỉ là việc đem Giang Lăng một vị trí quan trọng về quân sự nằm
giữa Nam Quận, chuyển giao cho Lưu Bị trấn thủ mà thôi.
Trình Phổ nguyên là Thái thú Nam Quận của
Đông Ngô được điều động về làm Thái thú Giang Hạ; Lỗ Túc thì đảm đương Đô đốc
phòng vệ tuyến phía tây, phụ trách chỉ huy ở Lục Khẩu.
Giao Giang Lăng cho Lưu Bị cai quản, thực
ra là "dưỡng hổ chi họa”, song đứng trước sự uy hiếp lớn của Tào Tháo; phòng
tuyến Hợp Phì ở phía đông vẫn thường bị đe dọa; nếu Giang Lăng vẫn để Đông Ngô
phòng thủ, áp lực thực tế rất to lớn. Huống chi quân Tào Nhân, Tào Hồng đang ở
Tương Dương vẫn có ý nhòm ngó. Chẳng bằng để Lưu Bị trực tiếp đối đầu với quân
Tào, Đông Ngô sẽ được yên tâm hơn.
Lịch sử ghi chép rằng, chuyện mượn Kinh
Châu khi truyền đến phương bắc, Tào Tháo đang ngồi viết chữ, cây bút trong tay
tuột rơi xuống đất. Sự liên hợp lại của Tôn - Lưu, đã khiến cho Tào Tháo không
thế không thấy rằng, hùng tâm thông nhất Trung quốc năm nào của mình thực ra đã
chết rồi. Với nhãn quan toàn cục mà nói đích xác rằng, Lỗ Túc có tài trí hơn
Chu Du. Về phương diện trận mạc của Lưu Bị, sự khổ tâm xếp đặt tình hình của Lỗ
Túc, người hiểu rõ nhất và cùng đồng cảm nhất chính là quân sư Gia Cát Lượng trẻ
tuổi.
6. Ngọa Long, Phượng Sồ cùng vào Ích Châu.
Với Gia Cát Lượng mà nói chiếm được Kinh
Châu chỉ mới là bước thứ nhất của kế hoạch mà ông đã đề ra với Lưu Bị, công việc
tiếp theo còn quan trọng hơn là giai đoạn thứ hai của Long Trung Sách, mục tiêu
là chiếm lĩnh Ích Châu và Hán Trung, xác định thế ba chân vạc, nắm được cánh cửa
vào ra ở Hán Trung, tiến lên phía bắc phạt - Trung Nguyên, đấy là cơ sở rất
quan trọng để tranh bá thiên hạ.
Lúc này Lưu Chương đang cai quản Ích Châu,
là người về tài trí kém cỏi ai cũng thấy rõ. Bởi thế chính trị trong nước thì hắc
ám, đặc quyền hoành hành, còn kẻ sĩ có tâm thì rất chi bất mãn trước việc ấy.
Ví như "Tư trị thông giám” có chép, Quân nghị hiệp úy Pháp Chính có tài trí phi
phàm, đầy đủ danh vọng, lại chẳng được Lưu Chương trọng dụng, rất bất mãn. Lại
như biệt giá Trương Tùng, nói năng hợp lẽ ứng biến linh hoạt, đáng kể là bậc nhất
lúc ấy, cũng không được Lưu Chương trọng dụng, vẫn thường bất mãn than thở một
mình. Đúng như Gia Cát Lượng trong "Long Trung Sách” đã nói, khắp vùng Ích Châu
ở trong tình thế bất ổn, "Kẻ sĩ thức thời mong ngóng gặp được minh quân”, tính
hợp pháp của chính quyền Lưu Chương đã lâm vào tình thế nghiêm trọng.
Miếng mồi béo bở như vậy tự nhiên không chỉ
có Gia Cát Lượng dòm ngó mà thôi, Tôn Quyền sớm đã có nhiều ham muốn, mà Tào
Tháo cũng chẳng vô tâm. Sau khi thất bại ở trận Xích Bích, Tào Tháo vẫn để đội
quân tinh nhuệ của Tào Nhân, Tào Hồng trấn giữ Tương Dương và Phàn Thành, hơn nữa
còn tự mình dẫn quân ra Quan Trung, thanh trừ quân Mã Siêu và Hàn Toại, mục
đích là khống chế được cánh cửa vào ra Hán Trung và Ích Châu. Đúng như Tôn Quyền
đã nói: "Tào Tháo chiếm được đất Thục thì Kinh Châu ắt bị nguy hiểm!”.
Tình thế ấy rõ ràng khiến người ta không thể
yên tâm, bởi thế không ít lão thần ở Kinh Châu khuyên Lưu Bị tiếp thu đề nghị của
Tôn Quyền, cùng vào Thục, chặn đứng mưu đồ của Tào Tháo. Quan chủ bạ An Quan kịch
liệt phản đối, ông ta cho rằng như vậy thực rất nguy hiểm - "Nếu bị Đông Ngô tiến
đánh, tiến chưa thể chiếm được Thục, thoái thì vướng phải quân Ngô lấn chiếm, sợ
đại sự hỏng mất!”.
Với Gia Cát Lượng mà nói, trong lòng cũng
mâu thuẫn không thôi; liên hợp Tôn - Lưu chống lại Tào Tháo, vẫn được xem là quốc
sách cơ bản quan trọng nhất; song Ích Châu là đất cơ sở sáng nghiệp không thể
chia phần cho người khác. Bởi thế đương khi Tôn Quyền đề nghị cùng thu lấy Ích
Châu, Gia Cát Lượng đã khuyên Lưu Bị lấy thái độ nghiêm chỉnh mà khéo léo cự
tuyệt, song khi nào mới có thể nghiêm chỉnh mà chiếm được Thục, lại không đắc tội
với Tôn Quyền, có thể tin rằng Gia Cát Lượng đã rất đau đầu.
Lúc này, trước mắt Lưu Bị, đã xuất hiện một
nhân vật khiến Gia Cát Lượng và Lưu Bị yên tâm mà tích cực chuẩn bị tiến vào đất
Thục; người ấy khi ở Nam Dương, cùng với Ngọa Long Gia Cát Lượng đã nổi danh là
"Phượng Sồ” Bàng Thống.
Bàng Thống tên chữ là Sĩ Nguyên, người
Tương Dương, ông ta là cháu của đại lão Bàng Đức Công, một người ở phái Thảo
dã. Trong mắt của "Thủy kính tiên sinh” Tư Mã Huy, tài hoa của Bàng Thống gần
được như Gia Cát Lượng. Song nói về cá tính, phong cách của hai người lại rất
khác nhau.
Gia Cát Lượng cao lớn anh tuấn, là người cẩn
thận, cá tính tuy cao ngạo song bề ngoài vẫn khiêm tốn có lễ độ, giữ đúng chừng
mực. Bàng Thống trái lại hình dong thấp lùn thô tục, cá tính thì hào phóng,
không chịu ràng buộc, thường làm những việc không đáng làm, khiến người ta rất
khó hiểu.
Khi còn trẻ Bàng Thống đã vẻ "đại trí như
ngu”, nếu chỉ nhìn bề ngoài chẳng thấy có gì đặc biệt, chỉ có Dĩnh Châu danh sĩ
Tư Mã Huy thấy rõ biệt tài; Bàng Thống với cung cách cơ hồ cuồng vọng lại rất
được Tư Mã Huy kính trọng đặc biệt. Đương khi chiến loạn thời Hán mạt tràn đến
Dĩnh Châu danh sĩ Bàng Đức Công mấy lần mời mọc Tư Mã Huy tạm lánh về Nam
Dương, song Tư Mã Huy lại đang vướng mắc vào việc nhà chưa thể rứt ra được, vẫn
còn do dự. Bàng Thống trẻ tuổi đã không ngại đường xa nghìn dặm, mấy lần tìm đến
Dự Châu, bái kiến Tư Mã Huy. Tư Mã Huy cũng không để ý ở bên ngoài, vẫn lúi húi
hái dâu, Bàng Thống thì ngồi ở dưói gốc cây mà nói chuyện huyên thuyên với ông
ta, thường từ sáng sớm đến tối mịt, tựa hồ nói mãi không hết đề tài; với người
bạn trẻ mới 20 tuổi, học vấn uyên bác và giỏi nói năng, Tư Mã Huy cảm thấy kỳ lạ,
khen ngợi là danh sĩ hàng đầu ở Nam Châu; cũng bởi thế danh tiếng của Bàng Thống
rất được đề cao, được gọi là Phượng Sồ. Bàng Thống thường lười nhác, tư lự nhiều
giờ, ít để ý đến việc thế tục, sau khi lớn lên, làm một chức quan nhỏ trông coi
văn thư pháp lệnh ở Nam Quận, hàng ngày làm quấy quá cho xong việc. Chẳng qua,
ông thích được diễn thuyết dài dòng, mỗi khi bàn luận thường bày tỏ những suy
nghĩ đâu đâu vượt cả chức phận của mình, bởi thế thường bị người khác chế giễu,
song Bàng Thống chẳng để ý chút nào, ông tự biện hộ rằng: "Nay thiên hạ đang đại
loạn, đạo lý chân chính chẳng thấy đâu, người tốt thì ít, kẻ ác thì nhiều. Tôi
muốn nêu tỏ đạo lý trước phong tục, để mọi ngươi cùng xem trọng mà theo, nên tự
nhiên phải bàn đến những điều đặc biệt với người khác, nếu không phải người để
tâm xem xét sẽ lĩnh hội được ít, tôi có kể đủ 10 việc, giữa chừng có 5 việc rơi
rụng, song nhìn chung còn được một nửa, đủ để đề cao giáo hoá xã hội, khiến kẻ
có chí được khích lệ, chẳng phải là việc rất nên ư?”
Chu Du khi đang làm Thái thú Nam quận, cũng
xem trọng Bàng Thống, bổ nhiệm làm bí thư cơ yếu. Bởi thế khi Chu Du từ trần,
chính Bàng Thống đã hộ tống linh cữu về Giang Đông.
Các danh sĩ ở Giang Đông như Lục Tích, Cố
Thiệu, Toàn Tông sớm nghe danh tiếng Bàng Thống, đều thường đến "hội xương công
quán” của Bàng Thống, để cùng nhau bàn luận.
Bàng Thống sau khi nói chuyện với họ bầy tỏ
rằng: "Lục tiên sinh giống như con kiêu mã, cá tính phiêu lãng, chí ở nghìn
năm. Cố tiến sinh chẳng khác gì con trâu mộng kéo xe nặng mà đi xa vậy. Với
Toàn Tông thì bảo, tiên sinh có cá tính chuẩn mực, là người biết trọng danh tiếng,
có thể ví với Phàn Tử Chiêu ở Nhữ Nam, có điều trí lực không nhiều, song cũng đáng
kể là người có danh một thời!”.
Tuy ăn nói có hơi mất lòng, song Bàng Thống
thường biểu hiện là người chân thành, bỏi thế dẫu chỉ việc nhỏ cũng dễ nổi cáu.
Lục Tích và Cố Thiệu cùng nói trêu rằng: "Luận điểm của tiên sinh thật có hứng
thú, nếu như thiên hạ thái bình, bọn chúng tôi xin theo tiên sinh đến gặp danh
sĩ bốn biển để cùng bàn luận”.
Cũng có kẻ giúp việc nói với Bàng Thống rằng:
"So với tiên sinh, Lục Tích xem chừng giỏi giang hơn”. Bàng Thống chỉ cười mà
nói rằng: "Kiêu mã tuy kiêu ngạo song chí hướng của hắn, chỉ đủ dùng cho một
mình, trâu mộng một ngày đi được 300 dặm, song ông ta không chỉ nghĩ đến một
mình mà thôi”. Cố Thiệu đêm đến ngủ lại ở chỗ Bàng Thống, thỉnh giáo Bàng Thống
rằng: "Tiên sinh biết xem tướng người, xin cho hỏi trong hai chúng tôi ai sẽ
thành đạt hơn?”. Bàng Thống thản nhiên nói rằng: "Khuôn mẫu thế tục, kén chọn
nhân tài, khảo sát thành tích, tôi không bằng tiên sinh; song nói đến kế sách
nghị luận về đế, vương, vạch vẽ kế hoạch cho một chỉnh thể chính trị thì tôi
hơn hẳn tiên sinh”.
Cố Thiệu nghe vậy rất đỗi khâm phục, từ đấy
càng gần gũi với Bàng Thống.
Lỗ Túc tuy có ý trọng dụng Bàng Thống, tiến
cử ông ta với Chu Du song Tôn Quyền trẻ tuổi lại rất không ưa sự thô tục và đại
ngôn của Bàng Thống. Bàng Thống muốn trở về quê hương, đúng lúc Gia Cát Lượng đến
viếng tang Chu Du, Lỗ Túc bèn đưa việc Bàng Thống ra trao đổi với ông ta; Gia
Cát Lượng gặp được người bạn năm xưa đương nhiên rất đỗi vui mừng, song còn
đang thực hiện công vụ, phải cùng với Lỗ Túc thảo luận tiếp về việc hợp tác Tôn
- Lưu, bèn viết một lá thư tiến cử mời Bàng Thống sớm đến Giang Lăng yết kiến
Lưu Bị.
Bàng Thống gặp được Lưu Bị, chưa vội đưa lá
thư giới thiệu của Gia Cát Lượng, chỉ nói là được Lỗ Túc giới thiệu. Lưu Bị thấy
Bàng Thống cử chỉ thô lỗ trong bụng rất không ưa, song ngại Lỗ Túc phàn nàn,
bèn bổ nhiệm làm tòng sự, giữ chức huyện lệnh Lai Dương. Song Bàng Thống đến
huyện đường, lại thích ăn uống mà lười làm việc, suốt ngày không mó tay vào
công việc, mau chóng bị Lưu Bị bãi miễn quan chức. Lỗ Túc nghe việc ấy, lập tức
cho người mang thư đến, vội vàng đưa với Lưu Bị rằng "Bàng Sĩ Nguyên chẳng phải
là người chỉ có tài mọn, hãy nên dùng ở bên mình, bổ nhiệm cho ông ta chức Trị
trung hoặc Biệt giá mới phát huy được hết tài năng lớn lao”. Lúc ấy, Gia Cát Lượng
mới từ Giang Lăng trở về, nghe được chuyện của Bàng Thống lập tức trịnh trọng
tiến cử với Lưu Bị. Lưu Bị từ lâu đã nghe Tư Mã Huy nói về Ngọa Long Phượng Sồ,
giờ lại có lời đề nghị của Lỗ Túc và Gia Cát Lượng, nên Lưu Bị cũng đành tin
theo. Ông ta cùng Bàng Thống trao đổi ý kiến về nhiều việc cụ thể, mới biết rằng
Bàng Thống đích xác có tài nghìn dặm, cũng cảm thấy ân hận vô cùng, bèn bổ nhiệm
Bàng Thống làm Tri trung tòng sự, trong công việc tham mưu sách hoạch, địa vị
cũng gần như Gia Cát Lượng, không lâu lại được Gia Cát Lượng sắp xếp lại, với
Gia Cát Lượng cùng làm Quân sư trung lang tướng.
Bàng Thống đề nghị với Lưu Bị rằng: "Kinh
Châu đã trải qua chiến tranh mấy năm, tình cảnh hoang tàn, nhân tài tan tác các
nơi, ở phía đông có Tôn Quyền, ở phía bắc có Tào Tháo; thiết nghĩ muốn dựa vào
vùng đất này với Tôn Quyền và Tào Tháo tạo lập thế ba chân vạc là rất không thể
được. Nay Ích Châu quốc phú dân cường, hộ khẩu có đến trăm vạn hộ, binh đông
lương đủ, khá nên mau chóng tranh đoạt lấy để ổn định đại kế hoạch”.
Lưu Bị vẫn ngần ngại nói rằng: "Đối với lập
trường của chúng ta mà nói, kẻ địch không dung hoà như nước với lửa vẫn là Tào
Tháo. Tào Tháo xem trọng việc chiếm lợi ích, nói đến hiệu quả thiết thực, bởi
thế ta cần đặc biệt biểu thiện sự khoan hoà. Tào Tháo xem trọng cường quyền, ta
thì thiên về nhân ái; Tào Tháo ăn nói quỷ quyệt, ta thì nói năng trung thực; ta
phải tạo ra một hình tượng bất đồng với Tào Tháo, để kiến lập sự nghiệp của
mình. Nếu trong việc chinh phạt Ích Châu lần này lại phải gánh lấy sự phản bội
với Tôn Quyền và Lưu Chương, sẽ thất tín với thiên hạ, đấy là việc mà ta chẳng
muốn làm vậy!”.
Bàng Thống lại cười mà nói: "Bậc quốc quân
đối với đại sự cần phải quyền biến, chẳng thể hạn chế bởi quan điểm của mình,
thôn tính nơi nhược tiểu, chiếm lấy nước vô đạo, kể như công nghiệp của Ngũ Bá
thời Xuân Thu cũng vậy. Chỉ cần sau khi đoạt được đất nước, với nhân dân thì
thi hành nhân đức, lại cấp đất cho Lưu Chương để ông ta có thể sinh sống, đấy
chẳng phải là thất tín với thiên hạ; nay không nhân cơ hội này mà đoạt lấy, nếu
Tào Tháo và Tôn Quyền cùng kéo đến tranh đoạt thì có hối cũng muộn vậy!”.
Lưu Bị cũng yên tâm được một mặt, khi tự
mình dẫn quân vào Ích Châu, phía bắc có Tào Tháo, phía đông có Tôn Quyền, khó bề
phòng bị hữu hiệu; nay tự nhiên có được một tham mưu ưu tú, có thể hai đầu cùng
tiến, khỏi phải lo lắng về sắp xếp kế hoạch cả hai phía Kinh Châu và Ích Châu.
Lời bình của Trần Văn
"Tam lược” và "Lục thao”, cùng được công nhận
là hai bộ binh pháp truyền thống giàu có trí tuệ của Trung Quốc. "Lục thao”
theo truyền thuyết là tác phẩm của khai quốc nguyên huân Khương Tử Nha đời nhà
Chu, "Tam lược” thì càng giàu sắc thái thần bí, theo truyền thuyết thì Hoàng Thạch
Công đã truyền cho Trương Lương cuốn Thái công binh pháp. Theo khảo cứu thực tế
hai cuốn sách này đều do người đời sau làm ra, đương nhiên chẳng phải vì thế mà
nó không có giá trị, trái lại những tác phẩm kiểu ấy thường là sáng tác tập thể
của nhiều người, thậm chí trong đó có thể có không ít trước tác của Khương Thái
Công và Trương Lương, hoặc là những lời nói việc làm còn ghi lại được. Ở Nhật Bản
đạo sĩ Cát Điền Tùng Ấm cho rằng, Lục thao và Tam lược giàu trí tuệ hơn binh
pháp Tôn Tử. Còn nhà binh pháp Tiểu Phan Cảnh Hiến đối với tinh thần của hai cuốn
binh pháp này, cũng rất tôn sùng.
Đặc biệt là Tam lược, đã trực tiếp đề cập
sách lược lấy nhu khắc cương, lấy nhược khắc cường. Nó nhắc đến câu sấm ngôn
trong binh pháp Thái Công: "Nhu có thể chế cương, nhược có thể chế cường”. Tiếp
đó lại thuyết minh rõ rằng: "Bởi vì nhu là loại đức tính, dễ bao dung người
khác, cũng dễ được người ta chấp nhận. Cương là loại nguy hiểm dễ sát thương
người khác cũng thường bởi thế mà bị người ta trừ hại. Kẻ nhược tiểu dễ được sự
đồng tình và giúp đỡ của người khác, kẻ hùng cường thường bị sự tấn công từ bốn
phía”.
Song kẻ nhu nhược dễ bị khinh rẻ, nhu nhược
dễ dẫn đến hủy diệt; bởi thế trong nhu vẫn nên có cương, từ nhược ắt nên chuyển
thành cường thịnh, kiêm đủ bốn yếu tố ấy tùy thời thế mà vận dụng thích hợp ắt
sẽ lên được.
Cương nhu tinh tế, cường nhược hỗ tương,
hành động biến hoá tự do, không dễ nắm bắt, cũng như sự biến hoá vô thủy vô
chung của đại tự nhiên, là chỗ mà trí tuệ của nhiều người còn chưa dễ thấu hiểu
được.
Phép dùng binh cần phải linh hoạt, không
câu nệ hình thức cố định, dập khuôn theo hình thế trước đó mà phải tùy cơ ứng
biến căn cứ vào hành động của kẻ địch, vận dụng đối sách thích hợp; có một quân
đội như thế, mới có thể xưng bá thiên hạ, thành ra bậc đế vương ở đời.
Cho nên có thể nói: "Năng nhu năng cương,
quốc gia ắt sẽ ngày mỗi thêm uy tín, năng nhược năng cường thì quốc gia ắt sẽ
có thế lực hùng mạnh; thuần nhu thuần nhược thì quốc gia ắt sẽ bị xâm lược; thuần
cương thuần cường thì quốc gia dễ bị suy vong”.
Khi xảy ra trận Xích Bích, có thể nói Lưu Bị
đang ở thời kỳ thuần nhu thuần nhược, dẫu nói rằng Tôn - Lưu liên quan, thực ra
quyền chủ đạo tác chiến đều ở phía quân Tôn Quyền. Dẫu nói rằng quân Lưu Bị phối
hợp công kích trên mặt đất, quân Lưu Kỳ giữ Nam Ngạn tạo ra phòng tuyến phía
sau của liên quân, thực ra chỉ là ngồi yên trên ghế mà thôi, ví như có đánh thắng,
cũng chẳng được phân chia quyền lợi gì đáng kể. Gia Cát Lượng trẻ tuổi mà bình
tĩnh sớm nhìn ra điều ấy, bởi vậy ông khuyên Lưu Bị ngoài mặt thì phục tùng,
trong bụng lại nhân cơ hội Chu Du và Tào Nhân đánh nhau ác liệt ở Giang Lăng ngầm
phái quân đánh lấy bốn quận, đấy là một thế cục cương nhu phối hợp khiến cho ở
vào thời khắc then chốt của sự nguy hiểm lại có địa bàn, thực của mình.
Không ít người cho rằng, đã giành được bốn
quận nam Kinh Châu cũng nên cắt hoàn toàn Nam Quận, để cho Tôn Quyền và Chu Du
một chút đường mật, song Lưu Bị và Gia Cát Lượng không nghĩ như vậy, Nam Quận nếu
như hoàn toàn rơi vào tay Đông Ngô, con đường thông với phía bắc của Lưu Bị
hoàn toàn bị cắt đứt. Đến lúc ấy, đành phải chết già ở phía nam mà thôi. Bởi thế
Lưu Bị phải quyết tâm phát huy chiến thuật một cách mềm dẻo khi thì hỏi mượn,
khi thì ép đánh đã đưa lực lượng của mình về đóng đồn ở Công An để Chu Du trấn
giữ ở Giang Lăng; sau lưng đều có quân đội các phe phái, bản thân bị vây chặt,
trách chi Chu Du chẳng lập tức trở thành lãnh tụ phái Diều Hâu để đối đáp với
Lưu Bị.
Ở trong giai đoạn tranh đoạt Kinh Châu
ngày, Lưu Bị đã không còn là kẻ thuần nhu thuần nhược, song ông ta vẫn hiểu được
phải biểu thị tư thế thấp kém thích hợp, tự mình mạo hiểm thâm nhập vào Đông
Ngô, với Tôn Quyền cùng trao đổi về sự hợp tác cần thiết. Ông ta đã vận dụng
thoả đáng thông minh sự giúp đỡ của Lỗ Túc, rất có bài bản, khiến cho Tôn Quyền
không thể không lựa chọn chiến lược của Lỗ Túc là liên hợp với Lưu Bị khống chế
Tào Tháo, tiếp tục giữ thái độ hợp tác với Lưu Bị.
Nhìn lại từ đầu, Lưu Bị tuy là nhà chiến
thuật không mấy sai lầm song vẫn đứng ngoài một chiến lược mang tính toàn cục,
bởi thế ở giai đoạn này, biêu hiện khác lạ "lấy nhu khắc cương, lấy nhược khắc
cường” chính là công lao của quân sư Gia Cát Lượng trẻ tuổi.
Đánh máy: hoi_ls
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN, 2003 (Tái
bản lần II)
Nguồn: Vnthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 11 năm 2013