Viên
Thuật (chữ Hán: 袁术; ? –
199) là tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Trong giai đoạn loạn lạc
cuối thời Đông Hán, ông từng xưng làm hoàng đế nhưng đã nhanh chóng bị thất
bại.
1. Thân
thế
Viên
Thuật có tên tự là Công Lộ (公路), là
dòng dõi quan lại cao cấp nhà Đông Hán. Tổ 5 đời của ông là Viên An làm chức Tư
đồ thời Hán Chương Đế, cụ nội là Viên Sưởng làm chức Tư không đời Hán An đế, ông
nội là Viên Thang làm Tư đồ thời Hán Hoàn Đế, cha là Viên Phùng làm Tư không
thời Hán Linh Đế. Vì vậy sử thường gọi nhà họ Viên 4 đời làm Tam công (Tư đồ, Tư
mã, Tư không), danh vọng rất cao.
Viên
Thuật có người anh khác mẹ là Viên Thiệu làm quan trong triều Đông Hán. Trong
nhà Viên Phùng, Viên Thiệu sinh trước nhưng là con a hoàn, Viên Thuật sinh sau
nhưng là con vợ chính. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến Viên Thuật
coi thường Viên Thiệu. Tuy nhiên, vì Viên Thiệu lại được bác là Viên Thành nhận
làm con nuôi, trở thành người thừa kế của chi trên Viên Phùng, do đó về ngôi thứ
theo pháp luật thì Viên Thuật là em họ Viên Thiệu nhưng về huyết thống là em
ruột.
2. Liên
minh đánh Đổng Trác
Do có
danh vọng lớn, anh em Viên Thiệu và Viên Thuật cùng được cất nhắc làm quan trong
triều Đông Hán. Viên Thuật được quận Nhữ Nam cử làm Hiếu liêm, sau đó ông lần
lượt giữ các chức vụ Trường Thuỷ hiệu uý, rồi Hà Nam doãn, Hổ bôn trung lang
tướng, Hậu tướng quân.
Năm 189,
Hán Linh Đế mất. Đổng Trác vào kinh đô Lạc Dương thao túng triều đình Đông Hán,
phế Hán Thiếu Đế vừa lên ngôi, lập em Thiếu Đế là Hiến Đế còn nhỏ lên ngôi. Viên
Thiệu vì xung đột với Đổng Trác nên bỏ trốn. Sau đó Viên Thiệu tập hợp chư hầu
để đánh Đồng Trác nhân danh giúp nhà Hán. Viên Thuật cũng mang quân bản bộ đến
hưởng ứng, cùng các chư hầu tôn Viên Thiệu là minh chủ.
Lúc đó
thái thú Ngô quận là Tôn Kiên hưởng ứng các chư hầu, không mang quân đến họp
nhưng cũng khởi binh đánh thẳng vào chỗ Đổng Trác ở Lạc Dương, trong khi các chư
hầu còn ngần ngại chưa xuất binh. Ban đầu Viên Thuật ngại Tôn Kiên thắng lớn sẽ
khó kìm chế nên định không tiếp lương cho Tôn Kiên, nhưng Tôn Kiên lấy danh
chính giúp nhà Hán đòi hỏi, Viên Thuật buộc phải cung cấp lương. Nhờ đó Tôn Kiên
đánh cho Đổng Trác thua bại, phải bỏ Lạc Dương mang Hán Hiến Đế chạy sang Trường
An. Tôn Kiên mang quân vào chiếm Lạc Dương.
3. Anh
em thành thù địch
Khi Tôn
Kiên mang quân tiến vào Lạc Dương đã bàn giao quận Nam Dương cho Viên Thuật. Để
tỏ thiện chí trở lại với với Tôn Kiên, Viên Thuật tiến cử Tôn Kiên làm thứ sử Dự
châu. Nhưng trong khi Tôn Kiên mang quân truy kích Đổng Trác (đã lên đường chạy
về Tràng An) thì Viên Thiệu thấy Tôn Kiên lập công lớn, mang lòng đố kỵ, lại cho
người phe mình là Chu Ngang làm thứ sử Dự châu (chiếm chức vị của Tôn Kiên) và
đánh vào căn cứ của họ Tôn ở Dương Thành.
Tôn Kiên
đang ở Lạc Dương không kịp về cứu, nhưng lúc đó Viên Thuật cũng không muốn Viên
Thiệu mở rộng thế lực nên mang quân chặn đánh Chu Ngang, giúp Tôn Kiên giữ hậu
phương. Vì vậy từ đó giữa hai anh em họ Viên bắt đầu mâu thuẫn, nhưng chưa gay
gắt. Viên Thuật thì thân với Tôn Kiên hơn.
Viên
Thiệu muốn cùng chư hầu dựng Châu mục U châu là hoàng thân Lưu Ngu lên làm hoàng
đế để đối kháng với Đổng Trác. Để tỏ ra tôn trọng Viên Thuật, Viên Thiệu sai
người hỏi ý kiến ông về việc đó, nhưng ông không tán thành. Từ đó hai anh em
chính thức trở thành thù hằn. Việc đánh Đổng Trác do đó cũng bị bỏ dở, các chư
hầu ly tán, chỉ lo phát triển thế lực riêng.
Viên
Thiệu liên kết với Thứ sử Kinh châu là Lưu Biểu trấn thủ ở địa bàn gần địa bàn
của ông để chống lại ông; còn ông cũng sai người đến liên minh với Công Tôn Toản
ở Bình Nguyên để chống Viên Thiệu đang ở Ký châu. Trong thư gửi Toản, ông
viết:
Viên
Thiệu không phải là máu mủ của nhà họ Viên ta. Điều đó khiến Viên Thiệu càng tức
giận.
4. Hỗn
chiến với chư hầu
4.1.
Phía tây
Tôn Kiên
thất vọng về việc Viên Thiệu đánh úp mình và thấy các chư hầu tan rã, bèn thôi
không đánh Đổng Trác, mang quân lui về địa bàn. Vì thứ sử Kinh châu là Vương Duệ
đã bị Tôn Kiên giết, Đổng Trác phong tông thất Lưu Biểu làm Thứ sử Kinh châu. Do
Viên Thuật chiếm giữ thủ phủ Nam Dương của Kinh châu nên Lưu Biểu không thể đến
đó, phải tới Tương Dương thuộc Nam quận, lập cơ sở cai trị. Năm 191, Viên Thuật
không muốn bị sự uy hiếp sau lưng của Lưu Biểu, bèn sai Tôn Kiên mang quân đánh
Lưu Biểu.
Tôn Kiên
hăng hái đi đánh Lưu Biểu, vừa thắng được một trận, có ý tự mãn, bị bộ tướng của
Lưu Biểu là Hoàng Tổ giết chết. Các thủ hạ của Tôn Kiên theo cháu Kiên là Tôn Bí
chạy sang Nam Dương nương nhờ Viên Thuật. Lúc đó ở Tràng An, Đổng Trác đã bị Lã
Bố giết nhưng tướng cùng phe Trác là Lý Thôi và Quách Dĩ lại đuổi được Lã Bố,
giữ vua Hán Hiến Đế mà nắm chính quyền. Viên Thuật sai người đến Tràng An giảng
hoà với Lý Thôi. Lý Thôi nhân danh Hiến Đế phong ông làm Tả tướng quân, Dương
Địch hầu. Viên Thuật cử Tôn Bí làm Thứ sử Dự châu (thay Tôn Kiên), nhưng không
lâu sau lại đổi làm Đô úy quận Đan Dương (thuộc Dương châu). Viên Thuật để Bí đi
nhận chức nhưng giữ lại cả 2000 quân của họ Tôn. Ông ép vợ Tôn Kiên là Ngô thị
giao nộp ngọc tỷ truyền quốc của nhà Hán (truyền từ đời nhà Tần) mà Tôn Kiên thu
được ở Lạc Dương.
Từ khi
Tôn Kiên chết, Viên Thuật không còn ai hỗ trợ. Năm 193, Lưu Biểu dùng kế cắt
đường vận lương nhằm đối phó với Viên Thuật. Do không có chính sách phát triển
kinh tế tốt tại địa bàn mình cai quản, Viên Thuật thường phải cướp bóc xung
quanh mà không thể tự cung ứng. Khi bị Lưu Biểu cắt đường vận lương, Viên Thuật
bí thế phải bỏ quận Nam Dương chạy sang phía đông, đóng quân ở huyện Trần Lưu
thuộc Duyện châu.
4.2.
Phía đông
Duyện
châu là địa bàn của Tào Tháo - lúc đó đang liên kết với Viên Thiệu. Hai bên hỗn
chiến ở Khuông Đình. Viên Thuật tuy có quân đông hơn nhưng bị Tào Tháo đánh bại,
phải bỏ chạy đến Ung Khâu. Tào Tháo đuổi theo truy kích, ông lại chạy đến Tương
Ấp. Bị quân Tào truy sát, ông từ Tương Ấp chạy sang Ninh Lăng rồi sau nữa lại
rút về quận Cửu Giang (Hoài Nam), đóng quân tại huyện Thọ Xuân - trị sở Dương
châu.
Lúc đó
Thứ sử Dương châu là Trần Ôn mới mất, Viên Thiệu sai thủ hạ là Viên Di đến làm
Thứ sử Dương châu. Viên Thuật mang quân đánh bại Viên Di khiến Di bỏ chạy rồi
chết. Triều đình Tràng An cũng không từ bỏ Dương châu cho các quân phiệt Quan
Đông tranh giành, quyền thần Lý Thôi ở Tràng An nhân danh Hán Hiến Đế bổ nhiệm
tông thất Lưu Do làm thứ sử Dương châu để chống Viên
Thuật.
Lưu Do
thế yếu, không thể đến lỵ sở Dương châu mà phải sang nương nhờ thái thú Đan
Dương là Ngô Cảnh (em vợ Tôn Kiên, cậu Tôn Sách) và Tôn Bí (cháu Tôn
Kiên).
Viên
Thuật sai con Tôn Kiên là Tôn Sách đi đánh quận Cửu Giang để mở rộng địa bàn.
Khi Tôn Sách đánh chiếm Cửu Giang, ông lại cho Trần Vũ làm thái thú Cửu Giang.
Sau đó ông lại cử Tôn Sách đi đánh quận Lư Giang, hứa cho Tôn Sách làm thái thú.
Nhưng khi Tôn Sách hạ Lư Giang, ông lại sai Lưu Huân đến làm thái thú mà chỉ cho
Tôn Sách làm Hoài Nghĩa hiệu úy.
Để mở
rộng thế lực ở Dương châu, Viên Thuật sai Gia Cát Huyền (chú của Gia Cát Lượng)
đến làm thái thú quận Dự Chương. Nhưng chỉ ít lâu sau Lý Thôi sai Chu Hộc tới
làm thái thú Dự Chương, Gia Cát Huyền phải rút chạy khỏi nhiệm
sở.
Thái phó
Mã Nhật Đê được quyền thần Lý Thôi nhân danh Hán Hiến Đế đi "dẹp yên vùng Quan
Đông”, tới Thọ Xuân. Viên Thuật hỏi mượn phù tiết của Mã Nhật Đê để xem rồi cướp
lấy và không trả lại, đồng thời giam lỏng Mã Nhật Đê và lại ép làm chức quan nhỏ
phục vụ cho mình. Điều đó khiến Mã Nhật Đê uất hận ốm
chết.
Năm 194,
Lưu Do ở Đan Dương thấy Tôn Sách liên tiếp đánh chiếm 2 quận, sợ Ngô Cảnh và Tôn
Bí về cùng phe Viên Thuật nên mang quân đánh đuổi hai người. Cảnh và Bí chạy
sang Lịch Dương. Viên Thuật sai lão tướng Huệ Cù làm Thứ sử Dương châu, còn mình
tự xưng làm Từ châu bá. Ông sai Huệ Cù mang quân tới giúp Ngô Cảnh và Tôn Bí
đánh Lưu Do nhưng không thắng được.
Năm 195,
Tôn Sách lấy danh nghĩa đi đánh Lưu Do giúp cậu Ngô Cảnh và anh họ Tôn Bí, đề
nghị ông trả lại 1000 quân bản bộ của Tôn Kiên cùng các tướng Hoàng Cái, Hàn
Đương. Viên Thuật cho rằng Tôn Sách sẽ mở rộng Dương châu cho mình nên chấp
thuận. Mấy năm sau, Tôn Sách mộ thêm được nhiều quân, mở rộng thế lực và phát
triển địa bàn vùng Giang Đông, làm chủ 4 quận còn lại của Dương châu là Đan
Dương, Cối Kê, Ngô quận, Dự Chương và không còn chịu ràng buộc với ông
nữa.
5. Hoàng
đế hai quận
Nắm ngọc
tỷ truyền quốc trong tay, năm 196, Viên Thuật muốn xưng đế. Ông tin vào lời đồng
dao: "Đại Hán giả, Dương đồ cao”, nghĩa là "Thay nhà Hán là đường cao”. Ông cho
rằng ông họ Viên, là con cháu Hiên Thọ Đồ thời Xuân Thu, ứng với chữ Đồ; tên tự
của ông là Công Lộ cũng mang nghĩa là đường cao, nên ứng vào câu đó. Vì vậy ông
quyết tâm làm vua. Tôn Sách viết thư khuyên ông không nên như vậy nhưng ông
không nghe theo. Tôn Sách bèn tuyệt giao với ông.
Năm 197,
Viên Thuật chính thức xưng làm hoàng đế, tự xưng là Trọng Gia, đóng đô ở Thọ
Xuân thuộc quận Cửu Giang, lập vợ làm hoàng hậu, phong con trai, con gái làm
hoàng tử, công chúa, thiết lập trăm quan. Thực lực của ông khi đó chỉ có 2 quận
Cửu Giang và Lư Giang, nghĩa là không có đến một nửa địa bàn Dương châu. Thế lực
của ông không bằng thế lực của các chư hầu như Tào Tháo, Viên Thiệu, Lưu Biểu...
mà Viên Thuật lại ở trong thế đương đầu cả cùng lúc với các chư hầu
này.
Viên
Thuật tìm kiếm đồng minh, bèn sai người đến xin Lã Bố ở Từ châu kết thông gia,
để con gái họ Lã lấy thái tử con trai mình. Nhưng Lã Bố không muốn theo ông nên
bắt sứ giả của ông giao cho Tào Tháo. Tào Tháo phong Lã Bố làm Tả tướng quân.
Viên Thuật nổi giận sai Trương Huân thống suất 7 đạo quân cùng các tướng của
quân khởi nghĩa Khăn Vàng cũ là Dương Phụng, Hàn Tiêm đi đánh Lã Bố. Lã Bố ngầm
liên kết với Tiêm và Phụng trở giáo đánh lại quân Viên Thuật. Đại quân Trương
Huân tan vỡ.
Tào Tháo
sai người đến Giang Đông liên kết với Tôn Sách, đề nghị không chi viện cho Viên
Thuật. Sau đó Tào Tháo dẫn đại quân đích thân đi đánh Thọ Xuân. Viên Thuật ra
đánh bị thua to, tướng Kiều Dị tử trận.
Trong
tình thế nguy cấp, Viên Thuật may mắn thoát nạn. Lã Bố và Tào Tháo trở mặt đánh
nhau. Cùng lúc Tào Tháo phải đương đầu cả với Trương Tú ở Nam Dương. Vì thế Viên
Thuật được yên ổn ở Hoài Nam. Tuy nhiên, ông không biết tranh thủ thời gian hơn
1 năm để củng cố thực lực mà tiếp tục sống xa hoa, xây dựng nhiều cung điện,
tuyển chọn phi tần, ăn tiêu xa xỉ.
Năm 198,
Tào Tháo diệt được Lã Bố, vươn địa bàn tới Từ châu, giáp với địa hạt của Viên
Thuật. Trước mặt sau lưng đều có địch, Viên Thuật hoảng sợ. Năm 199, ông đốt
cung điện Thọ Xuân chạy tới Tiềm Sơn theo thủ hạ cũ là Lôi Bạc nhưng Lôi Bạc
đóng cửa thành không đón. Viên Thuật đành chạy sang với thủ hạ cũ khác là Trần
Lan, nhưng cũng bị cự tuyệt.
Viên
Thuật cùng đường, đành làm lành với Viên Thiệu khi đó đang hùng cứ 4 châu Thanh,
U, Tinh, Ký ở Hà Bắc. Ông viết thư cho Viên Thiệu và xin nhường lại ngôi hoàng
đế cho anh. Viên Thiệu chấp thuận, sai người chuẩn bị đón
tiếp.
6. Qua
đời
Viên
Thuật thu hết số quân ít ỏi còn lại chạy lên Nghiệp quận với Viên Thiệu. Tào
Tháo sai Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi mang hơn 1000 quân ra đón đánh ở
đường lớn Từ châu.
Viên
Thuật thực lực rất yếu, bị Lưu Bị đánh bại, phải quay về. Khi tới Giang Đình,
cách Thọ Xuân 80 dặm, ông thổ huyết qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi. Viên Thuật
làm hoàng đế tất cả trong 2 năm.
Em họ
ông là Viên Dận đem theo quan tài Viên Thuật và quân đội họ Viên đến Hoãn Thành
(皖城) nương
tựa vào Thái thú Lư Giang là Lưu Huân (劉勳) vốn
được Viên Thuật phong. Một bộ tướng của ông là Trương Huân và trưởng sử Dương
Hoằng định đến địa bàn của Tôn Sách để theo hàng, nhưng bị Lưu Huân chặn đường
giết chết. Ít lâu sau Lưu Huân bị Tôn Sách đánh đuổi, phải chạy lên phía bắc
theo Tào Tháo. Thủ hạ của Viên Thuật là Từ Lục đem ngọc tỷ truyền quốc dâng cho
Tào Tháo; các gia quyến Viên Thuật ở chỗ Lưu Huân đều bị quân Tôn Sách bắt giữ,
mang về Giang Đông. Con trai ông là Viên Diệu được họ Tôn phong làm Lang trung,
con gái Viên thị sau được vào cung làm thiếp của Tôn
Quyền.
Thế lực
của Viên Thuật bị Tào Tháo và Tôn Sách thôn tính hoàn
toàn.
7. Nhận
định
Viên
Thuật không phải không có tài năng nhưng không biết lượng sức mình, chỉ thích hư
danh làm hoàng đế nên nhanh chóng bị thất bại trong cuộc chiến tranh quần hùng
cuối thời Đông Hán. Việc ông xưng đế trong lúc nhà Hán chưa mất là một sai lầm
lớn, khiến các chư hầu có lý do tập trung vào tấn công với danh nghĩa "phò Hán”
làm cho Viên Thuật phải cùng lúc đương đầu với nhiều kẻ địch và thất bại là
không tránh khỏi. Viên Thuật nhiều tham vọng nhưng lại không có chí khí và thiếu
tầm nhìn chiến lược.
8. Trong
văn học
Trong
tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Viên Thuật là một nhân vật
phụ, xuất hiện từ hồi 3 đến hồi 21.
Là nhân
vật phụ trong tác phẩm và qua đời trước khi hình thành Tam Quốc khá lâu, Viên
Thuật được mô tả khá gần với lịch sử, không được tác giả tập trung xây dựng hư
cấu, tô vẽ nhiều như những nhân vật chính Lưu Bị, Gia Cát Lượng, Tào Tháo... Qua
Tam Quốc Diễn Nghĩa, người đọc cũng có thể cảm nhận được một Viên Thuật có danh
vọng nhưng thiếu cơ trí, không biết lượng sức nên bị thất
bại.
Trong
tiểu thuyết này, tác giả chú trọng tới hoạt động của những nhân vật chính, không
diễn tả đầy đủ toàn bộ hoạt động của Viên Thuật, trong đó có quá trình di chuyển
từ Nam Dương về Dương Châu - một bước ngoặt trong cuộc đời Viên Thuật. Ngoài ra,
khi ông về Dương Châu, tác giả vẫn mô tả Viên Thuật là một sứ quân có thực lực
mạnh mẽ, "binh đông tướng giỏi", không giống như hoàn cảnh của ông trong lịch sử
lúc xưng đế - chỉ có địa bàn 2 quận ở Dương Châu.
Viên
Thuật đương thời bị gọi là "xương khô trong mả". Trong Tam Quốc diễn nghĩa, La
Quán Trung để Tào Tháo nhận xét về ông như vậy khi "uống rượu luận anh hùng" với
Lưu Bị. Trên thực tế, người nói câu này không phải Tào Tháo và trong hoàn cảnh
khác: khi Đào Khiêm muốn nhường chức Từ châu mục cho Lưu Bị, Lưu Bị khiêm nhường
đề nghị Đào Khiêm trao chức cho Viên Thuật, nhưng Khổng Dung cũng có mặt ở đó
không tán thành, nói rằng "Viên Thuật chỉ là xương khô trong mả", không đáng làm
Châu mục Từ châu.
La Quán
Trung có bài thơ bình phẩm về Viên Thuật trong tác phẩm, sau khi mô tả cái chết
của ông:
Hán mạt
binh đao nổi bốn phương,
Ngu như
Viên Thuật dám xưng cuồng.
Nối nhà,
chẳng giữ lề Công Tướng,
Cướp
nước, xây liều nghiệp Ðế Vương.
Giải
thích sấm truyền, xưng ứng vận,
Tin mê
ấn ngọc, cứ khoa trương.
Quân
tan, lương hết, đòi chi mật
Thổ
huyết nằm co, rõ chết đường!