QUYỂN TRUNG
HỔ GẦM GIÓ THỐC
THIÊN THỨ BA
XỨ SỞ THẦN TIÊN
Chương IX
TIẾN QUÂN VÀO ÍCH CHÂU
Gớm sao
núi thực cao vời
Đường treo vách dựng
lên trời khó ghê!
Nghìn năm
dấu cũ còn chi
Ải Tần ngọn khói
bay đi ngả nào?
(Thục đạo nan - thơ Lý Bạch)
Lưu Bị nghe tin Trương Tùng bị giết, cũng
trả đũa giết Dương Hoài và Cao Bái.
Chính thức bầy trận trước Lưu Chương, bắt đầu
cuộc chiến tranh đoạt lấy Ích Châu.
1. Thời đại truyền thuyết thần thoại của đất
Thục
Ích Châu còn gọi là đất Thục, là tỉnh Tứ
Xuyên hiện nay.
Theo văn tự giáp cốt ghi chép từ thời vương
triều Ân Thương, đã nói đến đất Thục. Cứ theo lịch sử mà nói, vào lúc ấy đã có
trên 3000 năm phát triển.
Theo "Ngũ đế bản ký” trong cuốn "Sử ký”,
con cả của Hoàng đế là Xương Ý, từng đến nước Thục, lấy một người con gái nước
Thục là Sơn Xương Phó làm vợ, sinh được một người con, gọi là Chuyên Húc.
Khi Chu Vũ Vương thảo phạt vua Trụ, trong
"Mục Thệ Thiên” có chép, tám trăm người cùng họp nhau ăn thề; trong đó có bộ lạc
Thục của Man quốc cũng tham gia. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, nước Thục chính thức
bước lên võ đài của Trung Quốc, hơn nữa còn có một sự kiện quan trọng là cuộc
viễn chinh vào nước Thục của danh tướng nước Tần là Tư Mã Thố.
Tuy từng xuất hiện trong lịch sử Trung
Nguyên, song đất Thục và Trung Nguyên khá cách trở, vẫn có hình thái độc lập
tương đối; nguyên nhân chủ yếu bởi đường giao thông từ Trung Nguyên vào đất Thục
rất khó khăn, dễ phòng thủ mà khó tấn công, ảnh hưởng của Trung Nguyên cũng
không dễ xâm nhập.
Thánh thơ Lý Bạch đời Đường (năm 701 đến
năm 162 sau Công Nguyên) có viết bài thơ "Thục đạo nan”, miêu tả rất sinh động
địa hình ở đây:
Gớm sao
núi Thục cao vời
Đường treo vách dựng
lên trời khó ghê!
Nghìn năm
dấu cũ còn chi
Ải tần ngọn khói bay đi ngả nào?
Đường vào đất Thục khó như lên trời xanh, bởi
thế từ xưa đến giờ vẫn là vùng đất riêng, ít có quan hệ văn hoá với Trung
Nguyên. Thời Tần Huệ Vương, Tư Mã Thố dẫn đại quân xâm nhập, đất Thục mới sáp
nhập vào lãnh thổ Trung Quốc.
Theo "Thục vương bản kí” của nhà văn Dương
Hùng đời Hán, truyền thuyết thần thoại về tổ tiên của ngươi Thục còn sớm hơn cả
văn hoá Trung Nguyên; họ sớm đã biết nuôi tằm, khơi ngòi, tưới nước, đánh cá, đắp
đầm hồ và thắp lửa, nghe đâu có lịch sử bắt đầu từ 34 nghìn năm trước, có lễ
nghi, văn tự, âm nhạc riêng của mình.
Ở thượng du Mân Giang gần Thành Đô, có dấu
vết đời sống của người Đê và ngươi Khương, và cả người Thổ Nhĩ Kỳ nữa. Theo
"Thuyết văn giải tự” của Hứa Thận đời hậu Hán, những tộc người này rất giỏi trồng
dâu nuôi tằm, dệt vải lụa, nên được gọi là người "Tâm Tùng”.
Lại theo "Hoa dương quốc chí” của Thường Cừ
đời Tấn, truyền thuyết về đất Thục đời cổ đại, từng bị nạn Hồng Thủy, nên người
ở đấy đã sớm khơi ngòi, bắt cá, đắp hồ. Ông vua cuối vương triều Bồ Trạch là Vọng
đế, sau thất bại về trị thủy, trao ngôi kế vị cho tể tướng Khai Minh. Khai Minh
thờ thần Rùa, tương truyền là một nhà thủy lợi cuối đời Hạ, được ủy thác việc
trị Hồng Thủy, sau này được giao quyền bính, trở thành người thống trị đất Thục.
Câu chuyện này có chỗ na ná với chuyện thần thoại về vua Nghiêu, vua Thuấn và Đại
Vũ, có thể là một phiên bản cũng nên; nhìn chung đấy là một vùng đất biệt lập
có nhiều biến động lịch sử.
Trong thời kỳ Khai Minh làm vua đất Thục, từng
lệnh cho năm lực sĩ trong họ, lấy những khối đá lớn trong núi làm bia mộ của
nhà vua; những khối đá lớn ấy dài ba trượng, nặng mấy vạn cân, người sau gọi là
măng đá.
Có người cho rằng hai cây trụ đá ở ngoài cửa
tây Thành Đô là những măng đá ấy, cây phía bắc cao một trượng sáu thước, chu vi
chín thước rưỡi, cây phía nam cao một trượng ba thước, chu vi một trượng hai
thước. Nghe nói những măng đá ấy vào đời Hán đã bị sứt mẻ nên không cao như trước
nữa. Đỗ Phủ là thánh thơ đời Đường có viết bài thơ "Thạch duẩn hành”, ngợi ca về
khối đá ấy:
Anh có hay chăng ngoài Ích Châu
Có cây cột đá đã bao lâu
Phải chăng khanh tướng thời xưa đó
Mượn đá đề danh vạn kiếp sau.
Lại có một truyền thuyết khác không giống
như Đỗ Phủ đã viết. Tương truyền rằng những khối đá lớn mà năm lực sĩ vận chuyển
không phải là măng đá ở Thành Đô, mà là đá gương ở Vũ Đảm Sơn, phía tây bắc
Thành Đô. Đá gương ở đấy, có đường kính một trượng, cao năm thước nhưng hiện giờ
không còn dấu tích. Chỉ còn lưu lại trong câu chuyện truyền miệng của dân quanh
vùng về một thôn nhỏ ở gần đá gương. Lục Du là một nhà thơ đời Tống trong bài
"Xuân tàn thiên” ở "Kiếm Nam Thi Cảo” có viết:
Đá gương lấp lánh ánh trời
Nghìn xuân chuyện cũ miệng người truyền
lưu.
Nói chung, văn hoá đất Thục phát triển từ rất
sớm, có sắc thái riêng, không giống với văn hoá Trung Nguyên.
2. Văn hoá Trung Nguyên xâm nhập vào đất Thục.
Văn hoá đất Thục chính thức bước vào lịch sử
Trung Quốc từ thời Tần Huệ Vương.
Sau khi Thương Ưởng cải biến tình hình, nước
Tần rất hưng phấn, khách khanh Trương Nghi muốn phát triển sách lược liên hoành
sang phía đông, song danh tướng phái Bản Thổ là Tư Mã Thổ lại muốn đánh Thục.
Nước Thục lúc ấy đang mắc nội loạn, vua Thục và em trai là Tra Hầu tranh giành
quyền bính, Tra Hầu ở quan ải Hà Minh gần nước Tần bèn cầu xin nước Tần viện trợ.
Tần Huệ Vương cũng muốn nhân cơ hội ấy mà xâm nhập chiếm lấy nước Thục.
Trương Nghi lại có ý kiến phản đối, ông ta
cho rằng: "Đất Thục là nước ở phía tây, đánh một nước man di như thế sẽ làm mất
tiếng tăm của chúng ta. Lại thêm vào đường Thục rất khó khăn, khiến quân sĩ gặp
phải mỏi mệt và khốn khổ, dẫu có đánh thắng, cũng chưa được gì, bấy giờ là thời
khắc rất quan trọng để nước Tần dương danh với Trung Nguyên, lại dùng vũ lực với
một nước man di, chỉ làm tổn thất tiếng tăm bấy lâu của nước Tần mà thôi”.
Tư Mã Thổ thì bầy tỏ ý kiến hoàn toàn khác
hẳn:
"Nước Tần muốn được quốc phú binh cường,
trước hết phải có đất rộng lớn, và đời sống quốc dân no đủ. Nước Thục ở phía
tây nước ta nay đang mắc nội loạn, nếu nước Tần tiến đánh chẳng khác hùm sói nhảy
vào giữa đàn dê, dễ dàng giành được thắng lợi. Đất Thục có vật tư phong phú, tiềm
lực vô cùng, sẽ đem lại sự giúp đỡ rất lớn cho sự hùng mạnh của đại quân nước Tần.
Hơn nữa đất Thục vẫn là xứ man di, nếu ta có đánh chiếm, các nước chư hầu Trung
Nguyên sẽ chẳng bàn luận, chê trách nước Tần làm gì. Giành được thực lợi mà
không ảnh hưởng đến danh tiếng với lân bang, đấy chẳng phải là việc rất nên làm
ư?”
Tần Huệ Vương nghe theo ý kiến của Tư Mã Thổ,
tiến quân vào đất Thục; tháng 10 năm 316 trước Công Nguyên, đánh chiếm được nước
Thục, giết được vua Thục, lại phân chia nước Thục thành hai vùng hành chính là
Thục quận và Ba quận. Thủ phủ của Thục quận là Thành Đô, Thủ phủ của Ba quận là
Giang Châu, tức là Trùng Khánh ngày nay.
Sau khi thôn tính nước Thục, Tần Huệ Vương
lại sai Trương Nghi phụ trách việc qui hoạch lại nước Thục. Trương Nghi muốn
đem văn hoá Trung Nguyên vào đất Thục, bèn đề nghị đem một vạn hộ dân Tần di cư
vào đấy lại ủy thác cho Trương Nhược, một công trình sư nổi tiếng thiết kế việc
xây dựng lại Thành Đô.
Sách "Hoa dương quốc chí” có chép: thành
trì ở Thành Đô có chu vi 20 dặm, tường thành cao bảy trượng bố trí cung thất
thành nội và phố xá phỏng theo thủ đô Hàm Dương của nước Tần thời bấy giờ. Cung
thất chủ yếu phân làm Thái Thành và Thiếu Thành; Thái Thành ở phía đông, Thiếu
Thành ở phía tây, tường thành bấy giờ toàn dùng đất để đắp, bởi chất đất rất tốt,
nghe nói bức tường ấy vẫn còn đến đời Tống mới hoàn toàn bị hủy hoại. Chẳng qua
vào khoảng đời nhà Đường, đã có sự cải tạo lại Thành Đô, tạo ra qui hoạch cơ sở
của Thành Đô bấy giờ. Bởi thế những kiến trúc còn lại của Trương Nghi năm nào
không nhiều, trong đó còn lại cửa Tuyên Minh ở phía tây nam Thiếu Thành rất nổi
tiếng, không ít thi nhân đã đề thơ ở đấy, để nhớ tiếc một thời cổ xưa. Sầm Tham
là nhà thơ ở nơi biên ải đời Đường rất nổi tiếng, có bài thơ "Trương Nghi lâu”
như sau:
Lầu Tần nơi đó ngày xưa
Cửa son gác tía bây giờ còn đây
Hai sông vẫn chảy mé ngoài
Nghìn năm vẫn thế miệt mài về xuôi
Nghe đâu mỹ nữ bao người
Trôi theo dòng nước một thời trẻ trung.
Cửa Tuyên Minh đối diện với Tuyết Sơn, phía
trước có dòng Mân Giang, sơn thủy hữu tình, là vùng đất thắng cảnh đáng để bầy
rượu mà thưởng lãm.
3. Máng nước Lý Băng và nghìn dặm phì nhiêu
Khi nước Tần mới xâm chiếm, nước Thục còn
chưa phát triển, đất đai tuy phì nhiêu, song luôn bị ngập lụt, mùa màng thường
bị phá hoại, sản vật không được phong phú.
Vùng bồn địa Tứ Xuyên, từ bắc xuống nam có
ba con sông lớn chảy qua. Sông Gia Lăng ở phía đông chảy vào Trường Giang ở
Trùng Khánh, sông Đà Giang ở giữa nhập với dòng chính ở Lô Châu, sông Mân Giang
hợp lưu ở Nghi Tân. Thành Đô ở phía tây bắc bồn địa, trong lưu vực của Đà Giang
và Mân Giang, bởi thế luôn bị ngập lụt, khiến dân địa phương rất đau đầu. Song
Mân Giang là dòng sông phù sa nổi tiếng, mỗi năm mang theo một lượng đất màu rất
lớn bồi đắp lên bình nguyên Thành Đô nghìn dặm phì nhiêu.
Thượng du Mân Giang là tỉnh Cam Túc bấy giờ,
có độ cao so với mặt biển là 4000 mét, địa thế hiểm trở, khi chảy vào huyện
Quán ở Tứ Xuyên, sai lệnh độ cao khoảng 2000 mét, nước sông chảy xiết, cứ tưởng
tượng cũng thấy.
Mỗi khi mùa hè đến, tuyết tan ở trên núi,
chảy xuống phía dưới, khiến bình nguyên Thành Đô bị sự hủy hoại vô tình của nạn
Hồng Thủy. Bởi thế đất đai tuy phì nhiêu song mùa màng thường bị phá hoại.
Sau khi nước Tần vào đất Thục được 60 năm,
Lý Băng làm Thái thú ở Thục quận, ông ta vốn là một chuyên gia về công trình thủy
lợi, vận dụng sở trường, triển khai một công trình thủy lợi xuất sắc trong lịch
sử Trung Quốc, đó là đại công trình kênh dẫn nước Đô Giang.
Kênh Đô Giang chảy từ huyện Quán đến Thành
Đô, dài hơn 60 cây số, chẳng những có thể dẫn nước tưới lại còn điều tiết thủy
lưu, thuận tiện việc vận chuyển. Nước sông Bỉ Giang và Tiền Giang phục vụ đắc lực
cho việc tưới nước cho đồng ruộng, bởi thế Bỉ Giang còn gọi là Thành Đô Giang,
cái tên kênh Đô Giang cũng bởi thế mà có.
Kênh Đô Giang được hoàn thành, là cống hiến
rất lớn cho sự phát triển nông nghiệp ở bình nguyên Thành Đô, chẳng những giải
quyết được nạn lụt hàng năm, mà còn biến vùng Thành Đô xứ sở thần tiên nổi tiếng.
Gia Cát Lượng trong Long Trung Sách, có nhắc đến vùng đất nghìn dặm phì nhiêu
chính là nơi ấy.
Sau này kênh Đô Giang đã được mở rộng và tu
bổ, trong đó có Thị Lang Yển Tăng Kiến đời Đường rất nổi tiếng. Nghe nói năm
đó, kênh Đô Giang Lý Băng đã tưới cho vùng bình nguyên Thành Đô, song theo ghi
chép của tỉnh Tứ Xuyên, diện tích tưới nước đã đạt đến hàng vạn mẫu.
Do cha con Lý Băng có cống hiến lớn như vậy,
đến nay ở Đông Trắc Sơn bên sông Mân Giang vẫn còn hai miếu thờ để tưởng nhớ
cha con Lý Băng.
Một điều khiến người ta ngạc nhiên là năm
1974, khi tu bổ lại kênh Đô Giang, ở dưới lớp đất bùn sâu 4 mét rưỡi, tìm thấy
một pho tượng đá thân cao 2 mét 9, vai rộng 90 phân, nặng bốn tấn rưỡi, theo sự
nghiên cứu của các nhà khảo cổ học, pho tượng đá Lý Băng được tạc từ thời Hán
Linh đế, để trấn áp nạn lụt lội, qua đấy có thể thấy sự tôn kính của nhân dân đối
với Lý Băng.
Kênh Đô Giang được hoàn thành, Thục quận trở
thành một địa phương giàu có bậc nhất của Trung Quôc.
Tương truyền Tư Mã Thiên tác giả Sử ký là hậu
duệ của danh tướng Tư Mã Thố, bởi thế mà đối với sự hình thành và phát triển của
đất Thục đã rất quan tâm và thấu hiểu. Sử ký có chép: "Ba Thục đất đai phì
nhiêu, sản vật phong phú, nhất là gỗ, gừng, chu sa, đồng, sắt, tre trúc, kinh tế
rất giầu mạnh”.
Song do địa thế từ Thục đến Quan Trung hiểm
trở, phải dùng đường Sàn Đạo nhỏ hẹp để vận chuyển, khiến nước Thục thành nơi dễ
giữ mà khó đánh, trong sự phát triển chính trị của Trung Quốc vẫn có phong thái
độc lập.
Hán cao tổ Lưu Bang ở thời Tần Mạt bị Hạng
Vũ phong làm Hán Vương, trông coi một vùng Ba Thục, sau này lấy đó làm cơ sở
đánh bại Hạng Vũ thông nhất toàn Trung Quốc, kiến lập vương triều đại Hán, khiến
đất Thục trở thành nơi có vị trí rất quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.
4. Chính quyền họ Lưu ở Ích Châu và đại
quân Trương Lỗ ở Hán Trung
Vào cuối đời Tây Hán, uy quyền của triều
chính bị giảm sút, phái quân phiệt ở đất Thục do Công Tôn Thuật đứng đầu tuyên
bố độc lập ở thành Bạch Đế, lợi dụng địa thế hiểm yếu, khoá chặt đường Sàn Đạo,
khiến đất Thục không bị cuốn vào cuộc chiến loạn cuối đời Tây Hán. Sau này bị
danh tướng Ngô Hán của vua Hán là Quan Vũ tiêu diệt, tuy ảnh hưởng của lực lượng
chính trị Trung Nguyên bị suy giảm, danh nghĩa là một bộ phận của Trung Quốc
song đất Thục về chính trị, kinh tế, văn hoá lại tương đối độc lập.
Cuối đời Đông Hán, loạn lạc liên miên, nhiều
dân di cư khỏi Kinh Châu, vào ở đất Thục khiến nhân khẩu ở Ích Châu đạt đến 724
vạn người, số hộ khẩu đạt đến 152 vạn hộ, ở thời Tây Hán đã là vùng đất suối
hoa đào khác hẳn với cảnh loạn lạc xung quanh.
Lãnh tụ Ích Châu lúc đó là Lưu Yên đã đề
nghị Hán Linh đế phong chức Châu mục.
Lưu Yên tên chữ là Quân Lang, người Giang Hạ,
là hậu duệ của Lỗ Cung Vương. Lưu Yên khi còn trẻ, đã làm quan ở Châu Quận,
không lâu được giao làm Trung lang lo việc thờ cúng Tôn Miếu.
Về sau bởi sư phụ Trúc Điềm tạ thế, Lưu Yên
từ quan ẩn cư ở Dương Thành Sơn, kế thừa công việc của sư phụ, nghiên cứu học vấn,
dạy dỗ môn đồ. Tiếp đó bởi có tiếng là người hiền tài, được tiến cử làm quan chức
ở trong triều, từng giữ nhiều chức như Quan viên ở phủ Tây Đồ, Huyện lệnh Lạc
Dương, Thứ sử Ký Châu, Thái thú Nam Dương, đạt đến chức Tông Chính thái thường.
Lưu Yên là người thâm trầm, có chí lớn, đầu
óc minh mẫn, suy nghĩ thấu đáo, quan lại chính phủ chìm đắm, dân tình biến loạn,
quan địa phương chẳng thể bình định, khiến dân tình rất thống khổ, bèn để nghị
rằng: "Thứ sử, Thái thú dùng tiền bạc để mua quan chức, bóc lột trăm họ dẫn đến
phản loạn không dứt. Kế sách sửa gốc, là chọn lão thần có danh vọng cử làm trưởng
quan, để có thể bình ổn được tình hình Hoa Hạ”.
Hán Linh đế trước tình hình các nơi sôi sục
phản loạn, phải bó tay cam chịu, bèn đồng ý với đề nghị ấy, tích cực chọn lựa
nhân tài làm Châu mục, để tăng cường quân quyền, các nhà viết sử bình luận, bắt
đầu từ đó đã xảy ra loạn quần hùng cát cứ cuối đời Hán.
Lưu Yên vẫn có ý đoạt lấy chức Châu mục
giao chỉ, để tách ra khỏi Trung Nguyên đang rơi vào hỗn loạn, đến một nơi xa tạo
dựng một đất nước độc lập. Có một người bạn là Thị Trung Đổng Phù nói với ông
ta rằng: "Kinh đô sẽ mắc vào hỗn loạn, tôi xem thiên văn đoán trước Ích Châu có
khí thiên tử có thể thành đại sự”.
Lưu Yên bèn xin Hán Linh đế phong cho chức
Ích Châu mục.
Đang lúc Thứ sử Ích Châu là Khước Kiệm ráo
riết thi hành thu thuế, tạo ra sự bất mãn lớn trong nhân dân, lại thêm tàn dư
quân Hoàng Cân nhân đó nhảy vào, thổi bùng ngọn lửa khỏi nghĩa với quy mô lớn,
làm ảnh hưởng đến các châu ở chung quanh. Thứ sử Trương Nhất ở Tinh Châu, Thứ sử
Cảnh Bỉ ở Lương Châu đều bị chết trong lúc chiến loạn, địa vị của Khước Kiệm thực
là nghìn cân treo sợi tóc.
Linh đế chẳng biết làm sao, bèn lệnh cho
Lưu Yên làm Ích Châu mục, đến đó trấn áp. Cũng được bổ nhiệm làm Châu mục, còn
có U Châu mục Lưu Ngu, Kinh Châu mục Lưu Biểu và Ký Châu mục Giả Tông.
Sau khi Lưu Yên đến Ích Châu, lập tức thực
hiện sách lược khoan dung vỗ yên dân chúng, cố gắng tranh thủ sự giúp đỡ của giới
hào tộc địa phương. Đổng Phù và Thái Thương lệnh Triệu Vỹ cũng từ quan, theo
Lưu Yên vào đất Thục cùng bắt đầu tạo dựng một vùng trời đất mới. Lưu Yên bổ
nhiệm Đổng Phù làm Đô uý trông coi phía tây, Triệu Vỹ làm Tham mưu dưới trướng
của Lưu Yên.
Lãnh tụ quân Hoàng Cân là Mã Tương, Triệu
Chi lấy Miêu Trúc làm căn cứ, được không ít dân chúng, Lý Thăng ở Miêu Trúc bị
giết, thanh thế quân Hoàng Cân càng nổi trội, tập hợp được hơn 1 vạn người; tiếp
đó Lạc huyện bị đánh phá, Khước Kiệm phải tự mình đốc chiến cũng chết giữa đám
loạn quân. Bởi Thục quận, Kiện Vi liên tục báo tin nguy cấp, Lưu Yên phải lệnh
cho Giả Long ứng chiến mới tạm ngàn chặn được Mã Tương quấy nhiễu.
Không lâu Lưu Yên dẫn quân chủ lực bình định
được Miêu Trúc vỗ yên dân chúng, thực hiện một chính sách khoan dung, có ý xưng
làm vua ở đấy. Trương Lỗ theo đạo "Ngũ đổng mễ”, do người mẹ được quỷ núi truyền
cho; Lưu Yên bèn ngầm cho Trương Lỗ làm Đốc nghĩa tư mã, trấn thủ bồn địa Hán
Trung, ngăn chặn đường thông với triều đình. Lưu Yên lại dâng thư lên triều
đình, nói rằng tập đoàn "Ngũ đổng mễ” làm phản, ngăn chặn giao thông, phải tạm
thời đình chỉ quan hệ với triều đình. Bọn cường hào trong châu như Lý Quyên,
Vương Hàm nghi ngờ Lưu Yên có ý khác, ngầm bàn bạc với Thái thú Kiện Vi là Nhiệm
Kỳ và tòng sự Giả Long. Lưu Yên sau khi được tin tình báo, lập tức cho người giết
chết Lý Quyền; Nhiệm Kỳ và Giả Long dẫn quân chống lại, bị quân Lưu Yên đánh
tan, cả hai đều tự sát.
Sau khi đánh bại địch thủ, Lưu Yên khẩn
trương xây dựng đội quân ở Ích Châu, chuẩn bị cát cứ tự lập. Kinh Châu mục Lưu
Biểu xét thấy sự tình, lập tức dâng thư lên triều đình đề nghị kiểm tra. Lúc ấy,
con trai Lưu Yên là Lưu Đảng, Lưu Phạm, Lưu Chương đều làm quan ở Trường An, Đổng
Trác đang nắm triều chính bèn hạ lệnh bắt giữ bọn Lưu Phạm, lệnh cho Lưu Chương
quay lại Ích Châu, thuyết phục Lưu Yên về với triều đình, song Lưu Yên giữ Lưu
Chương lại không trả lời triều đình nữa.
Chinh tây tướng quân Mã Đằng trước sự bạo
ngược của Đổng Trác, chuẩn bị dấy quân Tây Lương làm phản; Lưu Chương ngầm phái
người chỉ thị cho Lưu Phạm làm nội ứng, song âm mưu bị tiết lộ, Đổng Trác hạ lệnh
giết Lưu Phạm, Lưu Đảng, lại dẫn quân đánh tan liên quân Mã Đằng và Lưu Yên. Mã
Đằng rút về Lương Châu, quân Lưu Yên bị đại bại, rút về Ích Châu, họa vô đơn
chí, Thành Đô bị hoả hoạn nặng, khiến sự cố gắng của Lưu Yên trong mấy năm hoá
thành tro bụi. Lưu Yên rút về cố thủ ở Thành Đô, vừa thương tiếc con trai ngộ nạn,
vừa bị thiên tai nặng nề, ý chí tan rã, không lâu lại bị ung thư mà chết.
Trưởng quan Triệu Vỹ lập Lưu Chương làm Ích
Châu mục, Triệu Vỹ đảm nhiệm Chinh đông trung lang tướng, lập tức thảo phạt Lưu
Biểu ở phía đông, để trả mối thù cũ. Song do chiến sự bất lợi, các mãnh tướng
Cam Ninh, Lâu Phát, Thẩm Di lại làm phản mà đầu hàng Lưu Biểu; Lưu Biểu bố trí
họ vào đội quân của Hoàng Tổ. Sau này Cam Ninh lại phản lại Hoàng Tổ, theo về
dưới cờ Tôn Quyền.
Lưu Chương là con thứ ba của Lưu Yên, cá
tính trái hẳn với phụ thân, ôn hoà mà thiếu quyết đoán, hay nghe theo người
khác, quyết sách cơ hồ dựa vào cả các trọng thần; bởi thế chính quyền họ Lưu ở
Ích Châu mau chóng suy giảm.
Kẻ đầu tiên chuẩn bị việc tạo phản chính là
Trương Lỗ, người đã được Lưu Yên cố ý bồi dưỡng. Sau khi Lưu Yên chết, Trương Lỗ
lập tức tuyên bố độc lập ở Hán Trung. Lưu Chương nghe theo đề nghị của thuộc hạ
bắt giết mẹ và con trai Trương Lỗ khiến quan hệ hai bên càng thêm căng thẳng.
Trương Lỗ rất đau đớn, chuẩn bị có thời cơ nam chinh báo thù, khiến Ích Châu
rơi vào nguy cơ quân sự rất nghiêm trọng.
Lại nữa, từ thời Lưu Yên đến giờ đội quân địa
phương của các hào tộc Ích Châu với đại quân (quân Trường An và Nam Dương) vẫn
thường xung đột với nhau; Lưu Yên nghiêng về phía quân thân thuộc của mình, khiến
cho quan hệ đôi bên ngày càng thêm thù oán sâu sắc. Sau khi Lưu Yên chết, các
hào tộc Ích Châu ngả về phía Triệu Vỹ, mưu toan chiếm lấy chủ quyền ở Ích Châu
của Lưu Chương. Song được sự giúp đỡ của đại quân Đông Châu, Lưu Chương đánh thắng
Triệu Vỹ, tạm thời lấy vũ lực để khống chế cai quản Ích Châu. Với tinh thần chiến
loạn liên tục như vậy, vùng Ba Thục rơi vào sự bất ổn định nghiêm trọng. Kế
sách chia ba thiên hạ của Gia Cát Lượng, đề nghị của Chu Du, Lỗ Túc, Cam Ninh với
Tôn Quyền đều muốn nhân cơ hội loạn lạc mà thôn tính Ích Châu, nguy cơ có thể
chỉ rõ đều ở cả đấy.
5. Trương Tùng, Pháp Chính âm mưu nhường lại
Ích Châu.
Chẳng qua, do địa thế Ích Châu hiểm yếu thế
lực bên ngoài xâm nhập không dễ, đến cả đại quân Trương Lỗ ở Hán Trung gần kề
gang tấc, cũng khó có thể đánh chiếm được đất Thục. Bởi thế chính quyền Lưu
Chương được sự giúp đỡ của đại quân Đông Châu, vẫn kéo dài sự hấp hối chống chọi
được mười mấy năm.
Năm Kiến An thứ 13, cũng là năm thứ 14, Lưu
Yên từ trần, Lưu Chương kế tục, đã nổ ra cuộc chiến ở Xích Bích. Tào Tháo để mất
Kinh Châu mới chiếm được, Lưu Bị và Tôn Quyền hiển nhiên đã khống chế hữu hiệu ở
lưu vực sông Trường Giang, và tạo thành hình thế nam bắc đối kháng.
Tào Tháo không giành được thắng lợi ở phía
nam, đã tích cực chuyển hướng sang Quan Trung ở phía tây và Hán Trung ở tây
nam. Chẳng những Mã Siêu, Hàn Toại ở Quan Trung bị uy hiếp, đội quân Trương Lỗ ở
Hán Trung cũng tuyên bố tình trạng khẩn cấp, tích cực chuẩn bị tác chiến.
Đối với Ích Châu mà nói nguy cơ tuy còn rất
xa, song Lưu Chương thấy Trương Lỗ đáng gờm bị uy hiếp bèn nhân thể ném đá xuống
giếng, giải quyết vấn đề Trương Lỗ. Ông ta tiếp thu đề nghị của các lão thần
phái Bản Thổ là Pháp Chính và Trương Tùng, chẳng để ý đến chủ trương phản đối
tham gia chiến tranh Trung Nguyên của Trương Nghiêm, thủ lĩnh đại quân Đông
Châu vẫn giúp đỡ ông ta, ông ta chủ động phái sứ giả đến liên hệ với Tào Tháo,
có ý phối hợp nam bắc cùng tấn công Trương Lỗ.
Sứ giả Âm Phổ báo cáo rõ tình thế Ích Châu
với Tào Tháo, khiến ông ta rất đỗi vui mừng, lập tức phong Lưu Chương làm Trấn
uy tướng quân, người anh Lưu Mạo làm Bình khấu tướng quân. Không lâu sứ giả Ích
Châu là Trương Túc mang khá nhiều cống vật đến dâng, Tào Tháo rất thích thú,
bèn bổ nhiệm Trương Túc làm Quảng hán Thái thú. Nhưng đến sứ giả thứ ba là
Trương Tùng thì lại nảy ra vấn đề mới.
Trương Tùng là em trai Trương Túc, người
cao không đến 5 thước ta, diện mạo xấu xí, song học vấn rất uyên bác, biện luận
giỏi giang, bởi thế thường cậy tài mà kiêu ngạo. Vào năm đó Tào Tháo mất một đứa
con trai bé rất tuấn tú tên là Tào Xung, bởi thế việc chiêu đãi không khỏi có
phần sơ lược và lãnh đạm.
Trương Tùng vẫn nhạy cảm về diện mạo của
mình, rất không bằng lòng trước cử chỉ của Tào Tháo, cho ràng có ý khinh thường
ông ta, khi trở về thâm tâm ngầm sang Giang Lăng yết kiến Lưu Bị.
Nghe nói Trương Tùng mới đến, Gia Cát Lượng
rất vui mừng, lập tức đề nghị Lưu Bị tiếp đãi đặc biệt, khiến Trương Tùng rất
thoả mãn. Bởi thế, Trương Tùng về Thành Đô, đã không tiếc lời khen ngợi về cách
đối xử của Lưu Bị ngay trước mặt Lưu Chương.
Trương Tùng nói với Lưu Chương rằng: "Tào
Tháo tuy làm tể tướng triều đình thực ra là Hán tặc khinh nhờn Hoàng thượng,
Lưu Dự Châu là hoàng tộc nhà Hán, với chúa công cùng một họ, thực là người nổi
tiếng anh hùng, đến cả Tào Tháo cũng phải sợ ông ta; nếu chúng ta liên hợp chẳng
những có thể chống chọi lại sự uy hiếp của Trương Lỗ, ví như Tào Tháo chẳng làm
gì chúng ta được”. Lưu Chương vốn hay nghe theo, ý chí không định, cũng có ý bắt
cá hai tay, bèn quyết định chọn một người khác, để tiến hành việc liên minh với
Lưu Bị.
Trương Tùng tiến cử Pháp Chính để Quan
Trung và Mạnh Đạt làm sứ giả. Tổ phụ của Pháp Chính là Pháp Chân còn gọi là Huyền
Đức, là một đại sư nho học thời ấy, thực là người nổi tiếng khí tiết. Thân phụ
của Pháp Chính là Pháp Diễn, từng làm quan Tư Đồ và Đình uý tả giám.
Năm Kiến An thứ nhất, Trung Nguyên bị đói
kém nghiêm trọng, Pháp Chính trẻ tuổi và người bạn đồng hương là Mạnh Đạt, cùng
vào đất Thục dựa vào Lưu Chương; song Lưu Chương đang bận tranh giành nội bộ, về
căn bản không chiếu cố đến Pháp Chính. Rất lâu sau đó, mới theo đề nghị một số
người, bổ nhiệm ông ta làm Tân quận lệnh, sau lại cho làm Quân nghị hiệu uý;
song cuối cùng vẫn không trọng dụng, với một người có địa vị gia truyền như
Pháp Chính, mà đãi ngộ như vậy tự nhiên có sự bất mãn sâu sắc.
Mạnh Đạt là người đồng hương với Pháp
Chính, văn vũ toàn tài, rất có mưu lược, bởi giỏi quan hệ giao tiếp, trở thành
người cung cấp tin tức chủ yếu cho Pháp Chính và Trương Tùng.
Gặp Pháp Chính, Trương Tùng nói: "Về việc
này, Lưu Chương nhu nhược, thiếu tài cán điều hành, chẳng thể dựa vào được, Lưu
Bị anh minh tài cán, Tào Tháo còn phải nể sợ, nếu kết giao với ông ta, đại sự
có thể thành công”.
Lưu Bị mới gặp Pháp Chính, qua câu chuyện
ban đầu rất đỗi vui mừng, kết làm chỗ thân tình; Pháp Chính cũng bị phong độ của
Lưu Bị hấp dẫn, bèn nói rõ đề nghị của Trương Tùng với Lưu Bị, hy vọng sau này
có may mắn cùng sáng tạo ra sự nghiệp lớn. Gia Cát Lượng lưu ý Lưu Bị nhận việc
này mà hết sức bầy tỏ tính tích cực chủ động, tránh để người ta có ý nghi ngờ
là mình có dã tâm. Lưu Bị bèn lấy tình cùng họ vói Lưu Chương, chỉ biểu thị
mong muốn giúp đỡ mà không có ý đoạt lấy, khiến Pháp Chính, Mạnh Đạt càng thêm
kính trọng Lưu Bị.
Sau khi về Thành Đô, Pháp Chính nói lại với
Trương Tùng rằng, Lưu Bị có hùng tài, muốn được tôn phò, chỉ tiếc không có
duyên may, có ý sắp đặt mưu kế chỉ đợi thời cơ hành động.
6. Lưu Chương dẫn sói vào nhà.
Năm Kiến An thứ 16, Tào Tháo đánh tan đội
quân của Mã Siêu và Hàn Toại ở Quan Trung, hạ lệnh, cho Tư lệ hiệu uý Chung Dao
tích cực tiến hành kế hoạch đánh chiếm Hán Trung. Tào Tháo tự mình sắp xếp binh
mã ở Lạc Dương, lệnh cho Hạ Hầu Uyên đang trấn thủ ở Quan Trung hội quân ở Trường
An, hiển nhiên có ý đồ lớn sẽ nam chinh nay mai.
Bắt đầu từ đó, chẳng những Trương Lỗ khẩn
trương, đến cả Lưu Chương cũng cảm thấy sự uy hiếp của "mưu giông gió giật
quanh lầu”.
Trương Tùng nhân cơ hội mà nói với Lưu
Chương "Quân Tào rất hùng cường, là vô địch trong thiên hạ, một mai bình định
được Hán Trung ắt sẽ nam chinh thảo phạt nốt đất Thục, đến lúc đó tướng quân có
đối sách gì?”.
Lưu Chương nói: "Về việc này, ta cũng đã
nghĩ rất lâu, song vẫn chưa tìm ra sách lược hữu hiệu”.
Trương Tùng nói: "Hiện nay tướng quân Lưu Dự
Châu đang trấn thủ Kinh Châu, là người cùng họ với ngài, lại có môi thù truyền
kiếp với Tào Tháo. Ông ta đã trải qua trăm trận, có tài thao lược, đến Tào Tháo
cũng phải nể mặt. Mấy năm nay, chúng ta đã có quan hệ với ông ấy, sao không
liên hợp với ông ấy để tăng thêm sức mạnh, chinh phạt Trương Lỗ, chỉ cần Trương
Lỗ sụp đổ, Ba Thục và Hán Trung có thể kết làm một chỉnh thể liên hợp phòng ngự,
quân Tào có mạnh đến đâu, cũng không dễ phá được phòng tuyến liên hợp ấy, như vậy,
Ích Châu sẽ giữ được sự thái bình mãi mãi”.
Lưu Chương vẫn có ý nghi ngại về việc dẫn
quân ngoài vào nhà, ngần ngừ không quyết.
Trương Tùng lại tiến thêm một bước: "Mấy
năm nay, đại quân Đông Châu và đại quân Bản Thổ đối kháng với nhau nghiêm trọng.
Ví như Bàng Hy, Lý Dị ở phe Bản Thổ cậy công lao mà kiêu ngạo, chẳng chịu nghe
theo chỉ huy. Trước mặt họ đang cố thủ ở phòng tuyến phía bắc, một mai trở
giáo, Ba Thục sẽ rơi vào nguy cơ khó lường; bởi thế cần mượn thế lực của Lưu Dự
Châu, có thể ngăn cản được dã tâm của Tào Tháo, cũng như ngăn ngừa được Bàng Hy
có hành động tạo phản với Thành Đô”. Nghe nói sự tình nghiêm trọng như vậy, Lưu
Chương bèn nghe theo, lại cử Pháp Chính làm sứ giả, đến Giang Lăng mời Lưu Bị
vào Thục, cùng bàn bạc việc liên minh quân sự.
Pháp Chính sau khi đến Kinh Châu, lập tức yết
kiến Lưu Bị, trình bày rằng: "Tướng quân là người anh tài, hãy nhân cơ hội Lưu
Chương đang nhu nhược, lại thêm lão thần Ích Châu là Trương Tùng có ý làm nội ứng
ắt có thể thuận lợi đoạt được Ích Châu, xin tướng quân mau nắm lấy cơ hội, dốc
toàn lực mà làm”.
Lưu Bị vẫn lấy cớ Lưu Chương là người cùng
họ, khéo léo cự tuyệt.
Pháp Chính bèn nghiêm trang biểu thị rằng:
"Tào Tháo sau khi thắng trận ở Quan Trung, nay lộng hành trước thiên tử, vào
triều không giữ lễ, mang kiếm vào triều, hiển nhiên có ý muốn tiếm quyền. Tướng
quân là người giữ hương hoả của nhà Hán, rất nên mau chóng đoạt lấy Ba Thục, lấy
Ba Thục vốn có địa thế hiểm trở, sản vật phong phú, rút lui có thể giữ, tiến
công có thể tranh bá với thiên hạ, nếu không Tào Tháo một mai bình định được
Hán Trung, lại chiếm nốt Ba Thục, thiên hạ ắt sẽ về tay ông ta”.
Lưu Bị cho rằng việc này rất trọng đại, phải
trao đổi thêm với Gia Cát Lượng và Bàng Thống, bèn mời Pháp Chính đến ở khách
quán, đợi tin trả lời.
Trong hội nghị quân sự, Gia Cát Lượng, Quan
Vũ đều tán thành sách lược vào Thục. Bàng Thống còn tích cực bày tỏ rằng: "Trải
qua mấy năm loạn lạc vừa rồi, Kinh Châu nhân tài phiêu tán, đời sống nhân dân
thấp kém, nếu chỉ dựa vào Kinh Châu sẽ không đủ thực lực tạo thành thế ba chân
vạc với Tào Tháo và Tôn Quyền; nay Ích Châu đất đai rộng lớn, sản vật phong
phú, số hộ khẩu có hơn trăm vạn, chỉ cần chỉnh đốn hữu hiệu thêm, về căn bản
không cần dựa vào điều kiện bên ngoài, là một căn cứ địa rất tốt để phục hưng
nhà Hán, cơ hội này dứt khoát chẳng thể vứt bỏ”.
Lưu Bị nói: "Kẻ địch của chúng ta là Tào
Tháo chứ không phải Lưu Chương, huống chi tôi nói đến nhân nghĩa, vẫn là hình
tượng bất đồng với Tào Tháo; nếu chiếm lấy Ích Châu như vậy, xét về lâu dài mà
nói, đấy lại là điều kiện bất lợi với chúng ta!”
Bàng Thống nói: "Nay thiên hạ đại loạn,
tiêu chuẩn đạo nghĩa cũng có chỗ bất đồng, xưa kia Ngũ Bá thời Xuân Thu vẫn
thôn tính các nước nhược tiểu, lấy chiến tranh ngăn chặn chiến tranh, tránh cho
dân tình khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng, chẳng những kiến tạo được nghiệp lớn, lại
hợp với "Nguyên tắc đại nghĩa”. Đấy cũng là ý tứ câu nói "thấy ngược mà lấy, thấy
thuận mà lấy”. Tướng quân nếu như hoàn thành được đại nghĩa phục hưng nhà Hán
thì việc đoạt lấy Ích Châu của Lưu Chương có đáng kể gì? Bởi muôn dân thiên hạ
mà phải bội tín cũng là điều bất đắc dĩ vậy! Xin tướng quân suy nghĩ kỹ, nếu
bây giờ không đoạt lấy Ba Thục, mà để người khác chiếm mất, thì sau này có hối
cũng không kịp nữa”.
Sau khi trao đổi kỹ với Gia Cát Lượng, Lưu
Bị quyết định nhận lời mời của Lưu chương, dẫn quân vào Thục, chớp lấy cơ hội
mà đoạt lấy Ích Châu.
7. Bàng Thống lập kế hoạch, Hoàng Trung dẫn
quân đi.
Để biểu thị sự vô tâm chẳng ở mãi Ích Châu,
và cũng để tránh sự nghi ngờ và phòng bị của Lưu Chương, Gia Cát Lượng đề nghị
với Lưu Bị, đại quân vào Thục lần này sẽ hoàn toàn dựa vào các tướng lĩnh mới
gia nhập làm nòng cốt. Các lão tướng đều ở lại, một mặt để đề phòng cẩn thận sự
tập kích của Đông Ngô và Tào Tháo, một mặt cũng để Lưu Chương thấy hành động
quân sự này chỉ có mục đích giới hạn.
Đại quân vào Thục được sắp xếp như sau:
Chủ soái: Lưu Bị
Tổng Tham mưu trưởng: Bàng Thống
Tiền quân: Đại quân Hoàng Trung
Trung quân: Lưu Bị tự mình chỉ huy, có thêm
Lưu Phong, Quan Bình làm lãnh đội.
Hậu quân: Đại quân Ngụy Diên
Trận tuyến phòng bị ở Kinh Châu được sắp xếp
như sau:
Tổng chỉ huy ở Giang Lăng: Gia Cát Lượng
Quân tiền tiêu phía bắc: Do Quan Vũ bố trí ở
cửa ải Thanh Nê, đề phòng bị quân Tào Nhân ỏ Tương Dương tấn công.
Trấn thủ Trường Giang: Đại quân Trương Phi.
Chỉ huy ở Công An: Đại quân Triệu Vân, hiệp
trợ với Gia Cát Lượng cai quản Kinh Châu và ba quận Kinh Nam được an toàn.
Từ đó có thể thấy hành động quân sự của Lưu
Bị lần này khá nguy hiểm, bởi không để Lưu Chương nghi ngờ, đạo quân vào Thục
có số lượng rất ít, nếu như Lưu Chương phản bội, sự an toàn của Lưu Bị có thể
nói là trứng để đầu đẳng vậy.
Bàng Thống bạo gan mà bụng thì chín chắn,
giầu sức tưởng tượng, trong hành động lần này lại thích hợp nếu so với Gia Cát
Lượng. Lại nữa việc trấn thủ Giang Lăng là nhiệm vụ sống còn, chẳng thể tìm được
một người thứ hai như Gia Cát Lượng, đã cẩn thận lại nhiều mưu kế.
Sắp xếp đạo quân vào Thục, hiển nhiên cho
thấy Lưu Bị táo bạo hơn người, Hoàng Trung, Nguỵ Diên đều là các tướng cũ của
Kinh Châu, vốn được Lưu Bị hoàn toàn tín nhiệm, thậm chí mang cả sinh mệnh ủy
thác ở trong tay họ. Trong cuộc chiến tranh ở Thục, hai người này cơ hồ đã mang
toàn lực để giành lấy thành công; Lưu Bị đối đãi với họ rất tốt, đó là nguyên
nhân chủ yếu khích lệ họ.
Lại nói vê nội bộ Ích Châu trước việc Lưu Bị
dẫn quân vào Thục lần này cũng có lắm suy nghĩ nghi ngờ.
Hoàng Quyền thì kịch liệt phản đối, ông ta
nói với Lưu Chương rằng: "Lưu Bị nổi tiếng vũ dũng, sao có thể lâu dài làm một
kẻ khách mời bên cạnh tướng quân. Nếu như lấy lễ trọng mà tiếp đãi, lại là việc
một nước chẳng có hai chúa. Nếu chúa công nghe lời thần thì nước Thục có núi
Thái Sơn bền vững, nếu không nghe lời thần, chúa công ắt gặp phải nguy hiểm
khôn lường”.
Trướng tiền tòng sự Vương Lũy, lại tự mình
treo ngược ở trước cửa thành, hết sức can gián Lưu Chương: "Trương Lỗ phạm vào
bờ cõi chỉ như ghẻ lở mà thôi, tuy có làm phiền song không nguy hiểm. Lưu Bị
vào Thục, ấy là hoạ lớn gần kề, sợ Ích Châu sẽ không còn nữa!”.
Song Lưu Chương vốn là người không có chủ
kiến, đã phái sứ giả mời Lưu Bị, tự nhiên chẳng thể hối lại, huống chi ông ta
cũng nghĩ không ra một phương pháp gì để rút lại lời nói của mình trước đây.
Theo tin thám thính trước đó, có thể thấy đại quân vào Thục của Lưu Bị không
nhiều, ông ta dứt khoát cự tuyệt lời đề nghị của Hoàng Quyền, lại còn hết sức
cung phụng Lưu Bị, mời ông ta đến nơi ở sang trọng như tạo cảm giác đang ở nhà
vậy.
Khi đạo quân của Lưu Bị đến ba quận, Thái
thú ở đấy là Nghiêm Nhan là kẻ cầm đầu già dặn ở Ích Châu; ông ta có mưu lược,
trọng nghĩa khí, đối với việc Lưu Chương mời Lưu Bị vào Thục lần này chẳng hiểu
như thế nào, đã nói với các tướng lĩnh thuộc hạ rằng: "Chiến lược này có vẻ giống
như ngồi ở nơi rừng sâu, lại thả hổ để bảo vệ mình”.
Các tướng lĩnh và trọng thần ở Ích Châu cũng
bàn luận sôi nổi về việc này, khiến Trương Tùng và Pháp Chính phải chịu một áp
lực lớn, may mà Mạnh Đạt giải thích giúp; thuyết phục được không ít người và dần
dần ủng hộ lập trường của Trương Tùng và Pháp Chính.
Để tránh những điều bất ngờ, trung quân của
Lưu Bị đóng ở Điếm Giang, Mạnh Đạt tự mình đến Phù Thành đón tiếp. Thay mặt Lưu
Chương hoan nghênh Lưu Bị, Mạnh Đạt mời Lưu Bị hãy tạm ở Phù Thành, đợi Lưu
Chương đến ra mắt. Không lâu Lưu Chương dẫn đạo quân hỗn hợp bộ kỵ binh hơn 3 vạn
người rầm rộ đến nghênh tiếp Lưu Bị. Phù Thành cách Thành Đô 360 dặm, qua đấy
cũng thấy được thành ý của Lưu Chương như thế nào. Hai người gặp nhau rất đỗi
vui mừng, và tình cảm rất thắm thiết. Song Mạnh Đạt phụ trách việc tiếp đãi, lại
gặp riêng Bàng Thống truyền đạt ý của Trương Tùng, hy vọng Lưu Bị nhân cơ hội
đó mà giết Lưu Chương, tránh khỏi phiền nhiễu về sau. Bàng Thống ngầm báo cáo
việc ấy với Lưu Bị, song Lưu Bị cho rằng "Việc đại sự như thế chẳng thể vội
vàng” đã cự tuyệt.
Bàng Thống lại hiến một kế khác với Lưu Bị,
nhân cơ hội này mà bắt giữ Lưu Chương; tuy là việc bất chính song tránh được một
cuộc chiến tranh mà khuất phục được người ta, chẳng phải là việc đáng làm ư?
Lưu Bị nghiêm sắc mặt bảo: "Chúng ta mới
vào đất Thục, chưa có ân đức với trăm họ lại vội vàng làm việc thất đức như thế,
ắt sẽ không được ủng hộ, đó không phải là kế lâu dài”.
Thực ra với một số ít binh mã trong tay Lưu
Bị, mà 3 vạn quân của Lưu Chương tiến đánh, tuy có Mạnh Đạt làm nội ứng song có
bắn được hươu còn chưa biết về tay ai, điều ấy thực chưa biết rõ! Bởi thế Bàng
Thống không dám nói lại nữa.
8. Giả đò chứ không thực làm, Lưu Bị nấn ná
bội ước
Lưu Chương và Lưu Bị hằng ngày đều dự yến
tiệc ở Phù Thành, như thế đã hơn ba tháng. Lưu Chương tiến cử với triều đình để
Lưu Bị làm Đại tư mã, kiêm chức Tư lệ hiệu uý. Lưu Bị cũng đề nghị với Hán Hiến
đế cử Lưu Chương làm Trấn tây tướng qưân, kiêm chức Ích Châu mục. Đương nhiên
những việc này chỉ là trò chơi văn tự về danh nghĩa mà thôi, quyền bính trong
triều đều do một mình Tào Tháo nắm giữ, những văn bản tiến cử tốn không ít vàng
bạc và sức lực, tự nhiên nhanh chóng chui cả vào cái ống bút bụi bậm của Tào
Tháo.
Chẳng qua, Lưu Chương không muốn mời Lưu Bị
vào Thành Đô, trái lại ông ta ở Phù Thành để chiêu đãi quân Lưu Bị, mời Lưu Bị
xuất phát từ Phù Thành lên phía bắc để thảo phạt Trương Lỗ. Từ việc đó mà xem,
Lưu Chương dù sao vẫn được kẻ cao thủ mách nước, khiến Lưu Bị không thể không cải
biến kế hoạch ban đầu, chỉ giả đò nấn ná sẽ tiến đánh Trương Lỗ nay mai.
Song Lưu Chương vẫn đối xử chân thành, thậm
chí giao cả ải Bạch Thủy để Lưu Bị chỉ huy, lại đưa 20 vạn hộc gạo, hơn một
nghìn ngựa chiến, hơn một nghìn xe cộ và rất nhiều quần áo, vũ khí cho Lưu Bị.
Đợi mọi việc đã sắp xếp xong, Lưu Chương mới dẫn quân trở về Thành Đô.
Nhưng Lưu Bị cũng là kẻ khôn ngoan, ông ta
trì hoãn việc tiến lên phía bắc, đóng đồn ở Hà Minh Quan, (Nay là Tứ Xuyên) phối
hợp với các thủ lĩnh ở Bạch Thủy Quan như Dương Hoài và Cao Bái để chỉ huy quân
sĩ. Tiếp đó, như Tam quốc chí có chép, ông ta chưa nghĩ đến việc đánh Trương Lỗ,
chỉ lo vun trồng ân đức, để thu phục nhân tâm.
Cũng vào thời gian ấy, Kinh Châu phát sinh
một việc chẳng ngờ, khiến Lưu Bị có thể mượn cớ tạm thời trì hoãn việc thảo phạt
Trương Lỗ.
9. Tôn phu nhân trở về Đông Ngô, Triệu Vân
chặn sông cứu ấu chúa.
Vốn trước đây Tôn Quyền từng ước hẹn với
Lưu Bị cùng đoạt lấy Ích Châu, Lưu Bị lấy cớ vì đại nghĩa mà cương quyết cự tuyệt,
lại còn lập tức bầy quân phòng vệ phía đông khiến Tôn Quyền không thể sang phía
tây được đành phải từ bỏ ý định của mình. Nay Lưu Bị tự mình lại dẫn quân vào
Thục, ngoài mặt nói là liên minh với Lưu Chương, thực ra thì nhằm cơ hội mà đoạt
lấy Ích Châu.
Tôn Quyên cho rằng Lưu Bị lừa dối, bởi thế
phái sứ giả triệu hồi người em gái đã gả cho Lưu Bị, mượn cớ mẹ nhắn về, mang
theo cả ấu chúa A Đẩu là con cả của Lưu Bị để làm con tin, sẽ cứng rắn đối đầu
với Lưu Bị.
Bởi Gia Cát Lượng đến tiền tuyên với Quan
Vũ trao đổi việc phòng thủ phương bắc, thuộc hạ ở Giang Lăng địa vị thấp kém,
chẳng thể cãi lý với Tôn phu nhân, đành đứng giương mắt nhìn Tôn phu nhân dẫn A
Đẩu xuống thuyền về Đông Ngô.
Tôn Càn biết việc ấy, lập tức phái người khấn
cấp thông báo cho Triệu Vân đang trấn thủ ở Công An và Trương Phi đang tuần tra
ở Trường Giang. Do Trương Phi nay đây mai đó, nên không dễ tìm được.
Triệu Vân sau khi được thông báo, thấy tình
hình khẩn cấp, cũng không kịp trao đổi với ai, chỉ dẫn theo số ít tuỳ tùng, lấy
một con thuyền nhỏ mau chóng đuổi theo.
Tướng lĩnh phòng thủ bên sông không dám
ngăn cản Tôn phu nhân, huống chi bên cạnh còn có sứ giả Đông Ngô là Chu Thiện
và mấy trăm quân hộ vệ. Triệu Vân đuổi đến trấn Sa Đẩu thì gặp thuyền của Tôn
phu nhân.
Chẳng để ý đến sự uy hiếp của Chu Thiện,
Triệu Vân chỉ một mình đứng ở mũi thuyền, cố thuyết phục Tôn phu nhân đợi tin tức
của Lưu Bị rồi hãy về Đông Ngô. Song Tôn phu nhân dứt khoát cự tuyệt, Triệu Vân
đành phải xuống thang, yêu cầu để lại A Đẩu. Tôn phu nhân không nghe, Triệu Vân
vung kiếm đoạt lấy, Chu Thiện có ý muốn giết Triệu Vân, song Triệu Vân chỉ một
mình tả xung hữu đột, quân Đông Ngô không dám lại gần. Trong lúc nguy cấp, đột
nhiên thấy một số thuyền lớn từ phía thượng du lao đến, do Trương Phi cũng được
tin báo, biết Triệu Vân đã đuổi theo Tôn phu nhân, sợ Đông Ngô phái chiến thuyền
đến tiếp viện, bởi thế dẫn đội thuyền chủ lực đến tiếp ứng.
Do hai bên lực lượng chênh lệch, Tôn phu
nhân đành để A Đẩu lại cùng với Chu Thiện về Đông Ngô, đây là lần thứ hai Triệu
Vân cứu được ấu chúa khỏi vòng nguy hiểm.
Lưu Bị nhân đó báo cáo với Lưu Chương, tuyến
phòng thủ Đông Ngô đang có vấn đề, phải đợi Gia Cát Lượng đàm phán với Đông
Ngô, sau khi xác định căn cứ địa của mình, không có vấn đề, mới có thể yên tâm
lên phía bắc.
Chỉ có một việc ấy, cũng phải đợi đến mấy
tháng.
10. Lưu Bị phản bội hiệp ước, Ích Châu đổi
bạn thành thù.
Đến năm thứ 2, tướng giữ Bạch Thủy Quan là
Dương Hoài và Cao Bái vẫn nổi tiếng ở Ích Châu, thấy Lưu Bị không có ý mang
quân bắc phạt Trương Lỗ, bèn ngầm phái người báo cáo với Lưu Chương bày tỏ tình
hình như vậy, Lưu Bị có thể đi chệnh quỹ đạo, đề nghị lập tức đuổi Lưu Bị về
Kinh Châu, Lưu Chương cũng không biết làm thế nào, đành phái sứ giả mang mật
thư chỉ thị cho Dương Hoài phải cẩn thận giám sát mọi hành động của Lưu Bị.
Bức mật thư ấy lại bị Pháp Chính đang ở
trong quân Lưu Bị bắt được, ông ta lập tức đến trao đổi với Bàng Thống. Bàng Thống
cũng thấy sự tình đã gấp, sau khi cùng Pháp Chính nghiên cứu tình thế chung, đề
nghị với Lưu Bị kế hoạch ba điểm:
Kế sách thứ nhất, là không đếm xỉa đến
Dương Hoài và Cao Bái, trực tiếp ngầm tuyển lựa một đội cảm tử, tập kích Thành
Đô đoạt lấy quyền bính ở Ích Châu, đó là thượng sách.
Kế sách thứ hai, là bắt ngay Dương Hoài và
Cao Bái, giành quyền không chế Bạch Thủy Quan, lại tập hợp nhiều binh mã nhằm
hướng Thành Đô tiến đánh, đó là trung kế.
Kế sách thứ ba, là sớm rút về thành Bạch Đế,
sau khi củng cố phòng tuyến, sẽ liên hợp với quân Kinh Châu, tấn công mạnh vào
Ích Châu, đó là hạ sách.
Bàng Thống cho rằng, không nên do dự nữa nếu
không đội quân đánh Thục sẽ rơi vào nguy hiểm, có hối cũng không kịp.
Lưu Bị cũng biết rõ binh lực của mình, dẫu
có hành động thế nào cũng cần phải táo bạo. Ông ta cho rằng kế đầu rất mạo hiểm,
kế dưới lại khá trì hoãn, bèn quyết định vận dụng kế sách thứ hai.
May mà Dương Hoài chưa nắm được chỉ thị mới
của Lưu Chương nên không dám có hành động mạnh mẽ. Lưu Bị mời Dương Hoài, Cao
Bái đến để thảo luận quân tình, Dương Hoài không nghi ngờ gì, đến doanh trại của
Lưu Bị, lập tức bị bắt giữ, rồi bị tống giam; Lưu Bị đã nắm được quyền chỉ huy
quân sự không chế Bạch Thủy Quan.
Lúc ấy Lưu Bị nhận được thư của Tôn Quyền,
Tào Tháo bởi muốn báo thù trận đại bại ở Xích Bích đang chuẩn bị đại quân nam
chinh, hy vọng Lưu Bị mau chóng trở về Kinh Châu cùng bàn bạc kế sách phòng thủ
lớn.
Bởi việc Tôn phu nhân dứt khoát trở về Đông
Ngô, mối liên minh Tôn - Lưu đã bị phủ một bóng đen. Huống chi qui mô nam chinh
của quân Tào lần này không lớn, hơn nữa Quan Vũ đã bố trí phòng thủ, và ngăn chặn
thành công sự manh động của Tào Nhân, cho nên tình hình khẩn cấp này dẫu thế
nào cũng đã rõ, song Lưu Bị lại nhân đó mà mượn cớ. Lưu Bị lập tức phái sứ giả
báo cáo với Lưu Chương rằng môi hở răng lạnh, chẳng thể vứt bỏ được đồng minh,
muốn nhờ Lưu Chương viện trợ, để Lưu Bị có đủ thực lực đối kháng với Tào Tháo.
Còn vấn đề Trương Lỗ sẽ giải quyết như thế nào? Lá thư của Lưu Bị bầy tỏ Bạch
Thủy Quan đã tăng cường phòng thủ, Trương Lỗ chẳng qua là bọn giặc tự xưng,
trong một thời gian ngắn chẳng cần lo lắng, đợi sau khi vấn đề Tào Tháo được giải
quyết, sẽ bắc phạt vẫn chưa muộn.
Đối với Lưu Chương mà nói, lý lẽ như vậy là
rất khó thuyết phục, cơ hồ giống như vươn mỏ gà chẳng thể moi được gạo, làm sao
có thể cam tâm tình nguyện viện trợ cho Lưu Bị nhỉ? Song lại sợ Lưu Bị trở mặt,
đành phải cấp cho Lưu Bị 4000 quân, lương thực, xe cộ cứ theo yêu cầu mà giảm
đi một nửa. Việc này cho thấy sự do dự không quyết của Lưu Chương, sợ đắc tội với
người mà không dám thoái thác, nếu xét kỹ đủ thấy Lưu Bị vốn đã bội ước, đó là
một lý do phản lại những lời lẽ nghiêm chỉnh của ông ta.
Lưu Bị tự nhiên hiểu được cơ hội lợi dụng,
lập tức đùng đùng nổi giận mà rằng: "Ta vì Ích Châu mà đối kháng với cường địch,
chẳng ngại đường xa nghìn dặm mà đến giúp đỡ, nay ta gặp phải khó khăn, cần một
ít nhân mã và quân trang cũng không được, làm sao bảo ta cam tâm tình nguyện mà
bán cả sinh mệnh nhỉ?”.
Sự việc viện trợ này hiển nhiên cho thấy mối
quan hệ giữa Lưu Bị và Lưu Chương có chiều hướng xấu dần.
Vào lúc ấy, lại phát sinh bi kịch Trương
Tùng bị Lưu Chương bắn giết.
Trương Tùng vốn là người đưa ra kế sách mời
Lưu Bị vào Thục, nhìn thấy Lưu Bị đã nắm quyền ở phía bắc, thành công ở ngay
trước mặt, lại đưa tin muốn trở về Kinh Châu. Trương Tùng không rõ ra sao, vội
phái người đưa thư đến Lưu Bị và Pháp Chính, hỏi rõ sự việc tiến triển ra sao
và nhận làm nội ứng. Lá thư ấy lại rơi vào tay Trương Túc, ông ta rất kinh hãi
sợ liên lụy đến gia đình mình, bèn tố giác âm mưu của Trương Tùng và Lưu Bị với
Lưu Chương. Lưu Chương cũng rất kinh ngạc, lập tức bắt giữ Trương Tùng, chém cả
nhà, lại hạ lệnh tăng cường phòng thủ các nơi cửa ải, cũng tuyên bố cắt đứt
quan hệ với Lưu Bị.
Lưu Bị nghe tin Trương Tùng bị giết, cũng lập
tức trả đũa, đem giết Dương Hoài và Cao Bái, chính thức ngả bài với Lưu Chương,
bắt đầu mở màn cuộc chiến tranh đoạt lấy Ích Châu.
Quân Lưu Bị tuy không nhiều song được chuẩn
bị chu đáo. Lại thêm được sự giúp đỡ của Pháp Chính và Mạnh Đạt, còn quân Ích
Châu của Lưu Chương hiển nhiên là không có ý chí chiến đấu. Sau khi chiếm được
Bạch Thủy Quan, Lưu Bị cử Hoàng Trung làm tiên phong, dẫn quân xuống phía nam
chiếm lấy Phù Thành. Từ hành động quân sự này mà xem, việc Lưu Bị đưa tin trở về
Kinh Châu, căn bản chỉ là giả dạng.
Lưu Chương điều Trương Nhiệm, lãnh tụ quân
Bản Thổ làm chỉ huy, phôi hợp với Lưu Quý thủ lĩnh quân thân tộc, cùng với quân
của Ngô Ý, Đặng Hiền, Lãnh Bào ở phái Đông Châu lên phía bắc bố trí phòng thủ.
Theo như cách sắp xếp của Lưu Chương, thấy có sự đoàn kết của các phe phái Ích
Châu quyết tâm chống lại Lưu Bị. Thực ra theo như phán đoán của Mạnh Đạt, các đại
quân Ích Châu cũng không ưa gì nhau.
Hoàng Trung đóng quân ở Miên Trúc, triển
khai thế trận, quân Ngô Ý sớm quay giáo, Trương Nhiệm thiếu chuẩn bị, bị đánh
tan tác, Phù Thành thất thủ. Trương Nhiệm đành rút về phía nam Phù Thành bố trí
phòng thủ, yêu cầu Lưu Chương tiếp viện. Chẳng ngờ Lưu Chương lại phạm phải một
sai lầm nghiêm trọng. Lần này ông ta phái quân Đông Châu do lão tướng Lý Nghiêm
chỉ huy đi cứu viện, Lý Nghiêm là người Nam Dương, là bạn của Pháp Chính và Mạnh
Đạt, đã có Kinh Châu nhiều năm, bởi thế đối với Lưu Bị có cảm tình đặc biệt. Do
tác dộng của những người quen cũ như Pháp Chính và Bàng Thống, Lý Nghiêm sau
khi đến Phù Thành, không đánh mà hàng, khiến tinh thần binh sĩ quân Ích Châu bị
giáng một đòn nghiêm trọng.
May mà Trương Nhiệm già dặn kinh nghiệm, lại
giỏi thao lực, ông ta lập tức chỉnh đốn quân trực thuộc của mình và quân Lý Quý
còn chưa có vấn đề gì. Thế rồi rút về Lạc Thành cùng với Lưu Tuần cố thủ ở đấy.
Thu phục được quân Ngô Ý và Lý Nghiêm, quân
Lưu Bị có thanh thế rất lớn. Song Trương Nhiệm cố thủ ở nơi hiểm trở, ngăn chặn
được quân Lưu Bị đánh xuống phía nam, bởi thế Lưu Bị lập tức làm theo kế hoạch
ban đầu, khẩn cấp điều động Gia Cát Lượng ở Kinh Châu, dẫn đội quân của Trương
Phi và Triệu Vân, từ phía đông Ích Châu nhằm thẳng Thành Đô, Gia Cát Lượng tiến
quân cuốn theo cuộc chiến tranh vào đất Thục.
Chẳng qua việc Tôn Quyền bị Tào Tháo đe dọa,
Kinh Châu có nguy cơ môi hở răng lạnh, song lại mang đại quân vào Thục, cho thấy
một điều rằng, việc Lưu Bị báo tin khẩn cấp vừa rồi thực đáng ngờ lắm vậy.
Lời bình của Trần Văn
Trong "Binh pháp Ngô Khởi” phần "luận tướng
thiên” có chép:
"Việc tác chiến quan trọng hàng đầu là phải
triệt để hiểu thấu tướng lĩnh của đối phương, sau đó dựa vào cá tính, tài năng,
đề ra kế hoạch đối phó với thủ đoạn của họ; nếu không tốn nhiều công sức như vậy,
làm sao có thể giành được thắng lợi dễ dàng.
Với tướng lĩnh phản ứng chậm chạp lại dễ
tin người khác có thể dùng mưu kế xảo trá mà dẫn dụ.
Với người tham lam mà không xem trọng danh
tiết, có thể dùng vàng bạc mà mua họ.
Với người dễ thay đổi ý kiến của mình, thiếu
mưu lược hoạch định, có thể dùng chiến thuật quấy nhiễu khiến họ mỏi mệt và bỏ
chạy.
Với các tướng lĩnh cao cấp, xa xỉ ngạo mạn,
trong khi các thuộc hạ thì nghèo khó, có thể dùng cảm tình mà ly gián họ.
Với người nhu nhược không quyết đoán, không
dứt khoát tiến thoái, không có chỗ dựa vững chắc, có thể dùng áp đảo thanh thế
mà đánh gục họ.
Với người hiểu được mà vận dụng những chiến
thuật này, ắt sẽ dễ dàng nắm bắt được nhược điểm của đối phương, giành được nhiều
thắng lợi”.
Lưu Bị lần thứ nhất tiến quân vào Ích Châu,
đã nắm được đầy đủ ưu thế này; Lưu Chương nhu nhược không quyết đoán, đối với
hình thế và tình hình hiển nhiên thiếu ứng phó sắc bén, bởi thế sau khi Trương
Tùng và Pháp Chính tác động, Lưu Chương rất dễ rơi vào cạm bẫy tự bán mình.
Song cũng thấy rất rõ ràng các văn võ đại
thần Ích Châu phản đối và ngăn cản âm mưu của Trương Tùng uà Pháp Chính cũng
không nhiều, ngoài Hoàng Quyền và Vương Lũy đã hết sức ngăn cản, tựa hồ đại bộ
phận tướng lĩnh quân sự và đại thần, đều "cách sơn quan hổ đấu” (đứng trên núi
xem hổ chọi nhau), mà chẳng quan tâm gì đến vận mệnh quốc gia của mình.
Nghiêm Nhan là một viên thượng tướng, cũng
chỉ ngồi một chỗ mà thôi. Danh tướng Trương Nhiệm tuy đứng ở chiến tuyến thứ nhất
song chưa có thể phán đoán những sai lầm của Lưu Chương để ngăn cản hữu hiệu.
Lý Nghiêm là lãnh tụ quân đoàn Đông Châu, chỗ dựa chủ yếu của Lưu Chương, theo
sự tác động của Pháp Chính và Mạnh Đạt không đánh mà hàng. Nhược điểm của các
tướng lĩnh Ích Châu tựa hồ đã hoàn toàn nằm trong tay Lưu Bị.
Pháp Chính, Mạnh Đạt, Trương Tùng đều là
danh sĩ Ích Châu, họ sở dĩ bán rẻ chủ củ, xét kỹ chẳng phải bởi công danh và hư
vinh; họ không tín nhiệm Lưu Chương, tuy chính quyền Lưu Chương đã kéo dài hơn
10 năm, song ông ta tựa hồ chỉ làm được những điều sai lầm. Không chỉ Pháp
Chính không thừa nhận ông ta, hy vọng tìm được người thay thế ông ta, những người
khác không biểu lộ ý kiến hoặc thấy gió quay lái thuận chiều, hiển nhiên cũng
thiếu tín nhiệm Lưu Chương.
Nói cho cùng Lưu Chương hoàn toàn không biết
thuộc hạ bất mãn với mình, vẫn chưa có thể trọng dụng được Pháp Chính và Mạnh Đạt,
sớm đã dẫn đến sự oán hận trong lòng họ, dẫn đến hành động quyết định đưa Lưu Bị
vào Thục; Pháp Chính hiểu rằng đấy không phải là một đại biểu duy nhất xứng
đáng, trách chi phải rơi vào cạm bẫy của người khác. Sự mơ hồ của Lưu Chương đã
dẫn ông ta đến chỗ mất mạng. Còn nhớ năm nào Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng: "Quả
nhân có tật hiếu sắc, thích săn bắn phải chăng sẽ ảnh hưởng đến bá quyền?”.
Quản Trọng thản nhiên nói rằng: "Chẳng phải!
Người làm vua mà không biết như thế nào là bầy tôi hiền tài, như thế nào là người
có dã tâm, mới ảnh hưởng đến bá quyền, nếu dùng người hiền tài mà không tín nhiệm,
cũng sẽ ảnh hưởng đến bá quyền”.
Người kinh doanh rất xem trọng "lý tính” nỗ
lực khắc phục nhược điểm, về cá tính của mình, lấy lợi hại mà phán đoán. Không
sợ làm sai, chỉ sợ do dự không quyết, hoặc làm sai cũng không biết mình làm sai
chỗ nào, đấy mới là chỗ đáng buồn trong kinh doanh.
Đánh máy: hoi_ls
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN, 2003 (Tái
bản lần II)
Nguồn: Vnthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 11 năm 2013