Tác
giả:
Đỗ Ngọc Thạch
Tứ đại danh tác chỉ bốn tác phẩm văn học cổ điển
được cho là danh tiếng nhất của Trung Quốc, xếp theo thứ tự: 1.Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung; 2.Tây du kí của
Ngô Thừa Ân; 3.Thủy Hử của Thi Nại Am và La Quán Trung (hiệu đính); 4.Hồng Lâu
Mộng của Tào Tuyết Cần.
Tam Quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung là đệ
nhất danh tác không chỉ của văn học Trung Quốc mà trải qua thời gian, nó đã vượt
qua những kiệt tác viết về chiến tranh của văn học thế giới để trở thành đệ nhất
danh tác của văn học nhân loại.
***
La Quán Trung (1330?-1400?): La Quán Trung tên là
Bản, tên chữ là Quán Trung, lại có biệt hiệu là "Hồ Hải tản nhân" người Thái
Nguyên (?).
La Quán Trung sớm nổi tiếng có tài văn chương, rất
giỏi về từ khúc, câu đối, lại viết cả các loại kịch, nhưng thành công nhất là về
tiểu thuyết. Ngoài việc là tác giả của cuốn tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa
và còn có người cho rằng: La Quán Trung cũng là một người tham gia soạn và chỉnh
biên tác phẩm Thủy hử. Nhiều sử gia văn học không chắc chắn rằng hai người này
là một, hay là tên Thi Nại Am được dùng làm bút danh của Thủy Hử vì tác giả
không muốn bị dính líu vào việc chống chính quyền Nhà nước phong kiến như các
anh hùng hảo hán trong tác phẩm Thủy hử. Cùng với Ngô Thừa Ân, Thi Nại Am, Tào
Tuyết Cần,…La Quán Trung là người đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết
lịch sử đời Minh-Thanh(1).
La Quán Trung xuất thân từ một gia đình quý tộc.
Tuổi thanh niên ông nuôi chí phò vua giúp nước; song lúc đó, triều đình nhà
Nguyên đang suy tàn, các lực lượng chống triều đình nhà Nguyên nổi dậy khắp nơi,
La Quán Trung bỏ đi phiêu lãng nên có biệt hiệu là Hồ Hải tản nhân. Là một nhà
Nho ưu thời mẫn thế, La Quán Trung suy nghĩ nhiều về thế sự và là một trong
những người "có chí mưu đồ sự nghiệp bá
vương"(2).
***
Tam quốc chí diễn nghĩa nguyên tên là Tam quốc chí
thông tục diễn nghĩa, là một tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung
viết vào thế kỷ 14 kể về thời kỳ hỗn loạn Tam Quốc (220-280), theo phương pháp
bảy thực ba hư (bảy phần thực ba phần hư cấu).
Tam quốc chí diễn nghĩa (thường gọi tắt là Tam Quốc
diễn nghĩa) về phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung,
nhưng thực ra bộ tiểu thuyết này trước sau đã trải qua một quá trình tập thể
sáng tác lâu dài của rất nhiều người. Trước La Quán Trung, từ lâu chuyện Tam
quốc đã lưu hành rộng rãi trong dân gian truyền miệng, các nghệ nhân kể chuyện,
các nhà văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch, đều không ngừng sáng tạo, làm
cho những tình tiết câu chuyện và hình tượng các nhân vật phong phú
thêm.
La Quán Trung đã viết bộ Tam quốc chí thông tục
diễn nghĩa chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của văn
học dân gian. Dĩ nhiên trong khi viết ông có tham khảo những bản ghi chép của
các nhà viết sử và các nhà văn khác, nhưng quan trọng hơn là phần thể nghiệm
cuộc sống phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của
ông.
Một trong những bản Tam quốc chí diễn nghĩa ra đời sớm nhất hiện nay còn giữ
được là bản in năm Nhâm Ngọ Gia Tĩnh (1522) gồm có 24 cuốn 240 tiết. Từ đó về
sau (gần 300 năm) nhiều bản Tam quốc đã lưu hành, nhưng nội dung đều không có gì
khác nhau lắm.
Đầu đời Thanh, hai cha con Mao Luân, Mao Tôn Cương
(người Tràng Châu tỉnh Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện Tam quốc. Công việc
tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18
(1679).
Mao Tôn Cương đã gia công, thêm bớt, nhuận sắc
những chi tiết nhỏ, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời
trùng hoặc những chỗ chưa thỏa đáng... và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240
tiết thành 120 hồi, lại đặt cho bộ Tam quốc cái tên là "cuốn sách đệ nhất tài
tử". Làm cho truyện càng hoàn chỉnh, văn kể trong sáng, gọt giũa, trên một mức
độ nào đó cũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Từ đó bản của Mao Tôn
Cương thay bản của La Quán Trung, tiếp tục được lưu truyền rộng
rãi.
Năm 1958, Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh đã
chỉnh lý lại nhiều, bằng cách dựa vào bản của Mao Tôn Cương hiệu đính rất kỹ
từng câu, từng chữ, từng tên riêng có đối chiếu với bản của La Quán Trung rồi
sửa chữa lại những chỗ mà bản của Mao Tôn Cương đã sửa hỏng, sửa sai với nguyên
bản của La Quán Trung, nhưng nói chung vẫn giữ nguyên bộ mặt của bản Mao Tôn
Cương. Còn những tên lịch sử đặc biệt như tên người, tên đất, tên chế độ ... nếu
cả hai bản trên đều sai, thì hiệu đính lại theo sử sách. Nên các lần in sau hầu
hết đều lấy theo bản in này.