THIÊN THỨ HAI
THÂN NGÔ CHỐNG TÀO
Chương V
NHẬN SỨ MỆNH LÚC LÂM NGUY (LÂM NGUY THỤ MỆNH)
Trường Giang cuộn chảy về Đông
Thái ghềnh sàng lọc anh hùng nghìn năm
Tây biên lũy cũ giăng giăng
Lưu truyền Xích Bích hoả công thủa nào
Sóng dâng bờ bãi sôi trào
Cuốn bao tuyết trắng hoà vào mênh mông
Giang sơn vốn đẹp lạ lùng
Lại thêm bao khách anh hùng điểm tô.
(Xích bích hoài cổ - Tô Đông Pha)
Lưu Bị cũng cảm thấy bức bách,
Tào Tháo có thể mau chóng đánh đến Giang
Lăng, quân lực ở Phàm Khẩu chẳng thể đối chọi được, bởi thế đồng ý để Gia Cát
Lượng theo Lỗ Túc đi Giang Đông, thương lượng liên hợp tác chiến.
1. Đại quân Tào Tháo đã khởi binh, Lưu Biểu
bệnh tình càng trầm trọng
Sau khi bình định phương Bắc, Tào Tháo lại
muốn thừa thắng xốc tới, Nam chinh để thôn tính Kinh Châu; lúc này Lưu Bị đang ở
Tân Dã, tuyến đầu phòng thủ Kinh Châu. Người này chính là đối thủ anh hùng với
Tào Tháo, nếu không mau chóng trừ đi sẽ mỗi ngày có thêm thế lực, trở thành một
địch thủ đáng gờm.
Song một nguyên nhân quan trọng khiến Tào
Tháo chưa dám dộng binh là sự thiếu thốn nghiêm trọng về số quân. Bốn châu vừa
mới bình định là U, Ký, Thanh, Tinh, cần một sô lớn quân trụ giữ. Lại nữa các
chư hầu ở Quan Trung vẫn tùy thời mà uy hiếp Cổn Châu, đại bản doanh của Tào
Tháo. Sau khi bình định Viên Thiệu, Tào Tháo tuy nói phao lên rằng có trăm vạn
hùng binh, thực ra đa số đều là quân Viên Thiệu mới đầu hàng được biên chế lại,
tâm lý vẫn rất không ổn định, chẳng hoàn toàn tin cậy.
Sau sự kiện Đổng Thừa, Tào Tháo vẫn có ý
tránh vào yết kiến Hán Hiến đế bởi thế vẫn đóng đồn ở Nghiệp Thành, để Tuân Úc
phụ trách trông coi Hứa Đô giao thiệp với các công khanh nhà Hán. Do tránh những
chuyện nguy cấp chẳng ngờ cho đại bản doanh Cổn Châu và Hứa Đô đều là những
quân thân tín trụ giữ. Bởi vậy số quân có thể tự do điều động đã thiếu lại càng
thiếu hơn. Dù rằng rất muốn Nam chinh song hành động thực tế phải rất để tâm thận
trọng. Ông ta chỉ có thể không ngừng phái những người thân gần và cao cấp đi
làm gián điệp, thu mua và phân hoá các thế lực ở trong Kinh Châu, xem xét kỹ việc
trong thành Tương Dương, nhất là tình thế phát triển do kế thừa quyền lực mà dẫn
đến đấu tranh chính trị.
Mùa xuân năm 13 Kiến An, vấn đề sức khoẻ của
Lưu Biểu lại càng thêm nguy kịch, Lưu Kỳ đang đóng đồn ở Hạ Khẩu nghe được tin
tức chuyển đến phải vội về Kinh Dương thăm hỏi, song bị Sái Thị và Sái Mạo cùng
Trương Doãn ngăn cản. Lưu Kỳ vốn là người hiếu thảo, Lưu Biểu ỏ những khúc cuối
có thể thay đổi ý định ban đầu. Sái Mạo nói với Lưu Kỳ rằng: "Chúa công lệnh
cho công tử trấn thủ Giang Hạ phòng thủ Tôn Quyền, nhiệm vụ rất quan trọng, vì
sao chưa được lệnh chúa công, nghe tin nói bừa, đã vội rời bỏ nhiệm vụ. Nếu để
chúa công gặp công tử có thể bởi giận dữ mà bệnh tình càng thêm nguy kịch, công
tử hãy trở về Giang Hạ ngay đi!”. Lưu Kỳ chẳng thể làm gì được đành hướng về
phía Lưu Biểu đang nằm mà quỳ lậy, khóc lóc suốt đường trở về Giang Hạ.
Lưu Bị lúc này đang tăng cường phòng thủ
Phàn Thành, đột nhiên được bí thư của Lưu Biểu là Doãn Tịch thông báo, bệnh
tình của Lưu Biểu đã nghiêm trọng mời Lưu Bị đến để bàn luận đại sự.
Sách "Ngụy thư” có chép:
Lưu Biểu bệnh nặng mang việc nước nói với
Lưu Bị rằng: "Nay con ta bất tài, chư tướng mỗi người một ý, chẳng thể hợp tác,
sau khi ta chết khanh hãy nắm lấy việc quản lý Kinh Châu”. Lưu Bị rất đỗi cảm động
chỉ biết an ủi ông ta rằng: "Các cháu đều là kẻ hiền tài xin ông hãy yên lòng
dưỡng bệnh”. Y Tịch khuyên Lưu Bị nhân cơ hội mà tuyên bố nắm quyền hành song
Lưu Bị thấy thời cơ chưa chín, nên miễn cưỡng mà làm, sẽ dẫn đến tranh giành
quyền lực nội bộ, lại là điều bất lợi. Bởi thế mới khéo léo từ chối rằng: "Lưu
Kinh Châu đãi tôi rất hậu, nếu y lời mà đoạt lấy quyền hành, người đời ắt sẽ cười
tôi là tham lam, tôi chẳng nhẫn tâm được”.
Bùi Tùng Chi khi chú giải Tam quốc chí cho
rằng, Ngụy thư chép thế là đáng ngờ, Lưu Biểu vốn yêu mến Lưu Tông, luôn có ý bỏ
con trưởng, tại sao khi Lưu Tông sắp trở thành người kế vị, lại giao việc nước
cho Lưu Bị như thế?
Song lúc ấy đã lan truyền tin Tào Tháo Nam
chinh bệnh tình của Lưu Biểu đã nghiêm trọng, Lưu Tông bị phái thân Tào bao
vây, xét về căn bản chẳng thể chống lại Tào Tháo, chẳng bằng ủy thác cho Lưu Bị,
lại có thể bảo vệ được sự an toàn cho mẹ con Lưu Tông!
Tháng 6 năm 13 Kiến An, Tào Tháo nhận được
tin tình báo ở Tương Dương, bệnh tình Lưu Biểu đã nhanh chóng nguy kịch, sinh mệnh
không biết lúc nào sẽ chấm dứt. Phái Thiên Tráng ở Tương Dương đã quyết định ủng
hộ Lưu Tông bởi thế hoàn toàn phong toả tin tức về bệnh trạng của Lưu Biểu đến
cả Lưu Kỳ ở Giang Hạ và Lưu Bị ở Phàn Thành đều không biết rõ sự thể ra sao.
Tào Tháo một mặt triệu tập hội nghị quân sự
ở Nghiệp Thành, nghe Tuân Du báo cáo về phòng thủ và quản lý bốn châu phía bắc,
một mặt phái sứ giả đến Hứa Đô hỏi ý kiến Tuân Úc. Tuân Úc cho rằng đây là cơ hội
nghìn năm có một, nên cấp tốc sửa soạn quân đội để nam chinh, ông ta cũng đề
nghị thêm với Tào Tháo, khá lấy đường tắt từ Uyển Thành và Diệp Thành cấp tốc
hành quân, để đối phương không kịp trở tay.
Được Tuân Du và Tuân Úc khích lệ, Tào Tháo
quyết định thực hiện một hành động quân sự liều lĩnh. Ông ta phái Vu Cấm, Lý Điển
phối hợp với Tuân Du trấn thủ bốn châu phía bắc mới giành được. Hạ Hầu Đôn phối
hợp với Tuân Úc quản lý, khu Tư lệ do Hiệu úy Chung Dao phụ trách. Lại phong Mã
Đằng đang thống lĩnh ở Quan Trung làm Vệ uý, Mã Siêu làm Thiên tướng quân, vỗ về
đủ mặt, để phòng bị quân Quan Trung thừa cơ tập kích.
Biên chế đội quân nam chinh như sau:
Nguyên soái: Tào Tháo
Tổng tham mưu trưởng: Giả Hủ
Tham mưu: Điền Trù, Lâu Khuê.
Quân đoàn Tào Nhân: Dẫn hai vạn quân thân
tín, làm đội chủ lực.
Quân đoàn Tào Thuần: Chỉ huy đội khinh kỵ
binh trực thuộc Tào Tháo, gọi là đội kỵ binh hổ báo.
Quân đoàn Trương Liêu: Từ Hoảng làm tiên
phong các đội quân thân tín có 5000 người mỗi đội.
Quân họ Viên có khoảng 13 vạn người, được sắp
xếp thành quân trực thuộc của Tào Hồng và Trình Dục, lại cả Nhạc Tiến nữa.
Thái thú Nhữ Nam là Mãn Sủng phụ trách
lương thảo và điều vận.
Hạ Hầu Uyên làm tổng quản hậu cần hành
chính.
Cuối tháng 7, quân Tào Tháo từ Uyển Thành
và Diệp Thành theo hai đường cùng tiến khẩn cấp, đầu tháng 8 được tin tình báo
rằng Lưu Biểu đã từ trần. Dẫu rằng không ít các lão thần và tướng lĩnh cực lực
phản đối ví như Văn Sính, Nguỵ Diên, song được sự giúp đỡ của Sái Mạo và anh em
Khoái Việt, Lưu Tông vẫn doạt được chính quyền, trong khi đó quân Tào đã xuất kỳ
bất ý đột nhập Kinh Châu, chỉ còn cách Phàn Thành không đầy 200 dặm.
Lưu Tông vẫn có ý liên hợp với lực lượng của
Lưu Bị bố trí việc phòng ngự ở Tương Dương, song Sái Mạo cực lực phản đối,
Khoái Việt lại cho rằng Tào Tháo mang quân đi với danh nghĩa triều đình, nếu
kháng cự là chống đối lệnh trên, bởi thế nên sớm đầu hàng. Lưu Tông không
thương lượng với Lưu Bị và Lưu Kỳ nữa mà phái sứ giả đến trực tiếp đàm phán với
Tào Tháo, rồi hạ lệnh cho các quận huyện và tướng lĩnh quân đoàn chuẩn bị đầu
hàng Tào Tháo vô điêu kiện.
Tào Tháo lệnh cho Lâu Khuê xử lý việc Lưu
Tông đầu hàng, lại bổ nhiệm cho Lưu Tông làm Thứ sử Thanh Châu để cách biệt với
Kinh Châu là nơi vẫn có thực lực. Ngoài ra các thủ trưởng quận huyện và tướng
lĩnh quân đoàn, vẫn giữ nguyên như cũ, chỉ có hơn 8 vạn thủy quân Kinh Châu do
Sái Mạo và Trương Doãn chỉ huy được tham gia đội quân nam chinh của Tào Tháo,
là một đơn vị tùy thuộc.
Chinh phục được Kinh Châu một cách nhanh
chóng và hoà bình, hôm sau Tào Tháo đã nhòm ngó Giang Lăng, chiếm cứ được nửa
phía bắc Kinh Châu, liền đó đều phong hầu cho toàn thể mười lăm cựu thần phe
Khoái Việt; Hàn Tung làm Đại hồng lư, Khoái Việt làm Quang lộc huân, Lưu Tiên
làm Thượng thư, Đặng Nghĩa làm Thị trung. Từ mấy việc trên mà xem, trong khoảng
gần hai năm, Tào Tháo đã vận dụng chiến thuật "dùng gian tế” ở Kinh Châu, đã nỗ
lực thu phục nhân tâm, và phát huy công hiệu rất lớn của phép dùng binh không
đánh mà khuất phục được người khác.
2. Lưu Bị khẩn cấp triệt thoái, mười vạn
dân lành kéo theo
Lưu Bị đang trụ giữ Tân Dã, nghe tin quân
Tào tràn xuống phía nam, bèn hạ lệnh cho toàn quân vào trong Phàn Thành chuẩn bị
chiến đấu, lại khẩn cấp báo cáo việc quân cho Lưu Biểu ở Kinh Dương. Song vẫn
không nhận được chỉ thị rõ ràng, khiến Lưu Bị rất băn khoăn. Gia Cát Lượng phán
đoán Lưu Biểu có thể đã mất, nếu chỉ có thực lực của mình chẳng thể trụ giữ nổi
Phàn Thành, liền đề nghị Lưu Bị phái sứ giả trực tiếp hỏi ý kiến Lưu Biểu, mặt
khác sắp xếp việc rút quân về phía nam. Lưu Tông thấy lừa dối không nổi, mới lệnh
cho Tống Trung thông tri việc Lưu Biểu đã mất để kịp chuẩn bị việc mang quân đầu
hàng. Bởi đại quân Tào Tháo lúc này đã tiến gần Phàn Thành, Gia Cát Lượng đề
nghị Lưu Bị khẩn cấp rút quân, mục tiêu là Giang Lăng, một điểm quân sự quan trọng
liền kề Trường Giang, lấy quân lương và công sự phòng ngự có sẵn của Giang
Lăng, liên hợp với quân chủ lực của Lưu Kỳ đang làm Thái thú Giang Hạ, có thế
giữ được nửa phần phía nam Kinh Châu. Trung tuần tháng 8, Tôn Quyền đang hùng cứ
Giang Đông, cũng biết được quân tình khẩn cấp là Lưu Biểu từ trần và đại quân
Tào Tháo đã nam chinh, lập tức phái Lỗ Túc sớm đến Giang Lăng, thăm dò thái độ
của Lưu Kỳ và Lưu Bị.
Lưu Bị đang ở Thượng Túc, lệnh cho quân sĩ
trực thuộc vượt qua Hán Thủy, có không ít quân dân vùng bắc Kinh Châu tự động
theo Lưu Bị chạy nạn về phía nam. Khi đến Tương Dương, Lưu Bị dừng ngựa hướng về
phía trong thành gọi Lưu Tông trả lời. Lưu Tông không dám ra mặt, song trong
thành Tương Dương có không ít quan lại và quân dân tìm đến Lưu Bị, Gia Cát Lượng
đề nghị Lưu Bị nhân cơ hội mà đánh chiếm Tương Dương giành lấy quyền lãnh đạo,
lại liên hợp với các quân đoàn ở đấy, cùng chống chọi với quân Tào, có thể chuyển
bại thành thắng. Song Lưu Bị không nhẫn tâm trong khi giặc dữ kéo đến, nội bộ lại
tàn sát lẫn nhau, vẫn giữ quyết định như cũ tiếp tục đến Giang Lăng ở phía nam
khi đi qua phần mộ của Lưu Biểu ở ngoài thành. Lưu Bị thay mặt cho quân sĩ ra bái
lậy khóc lóc không thôi, toàn quân thấy thế rất cảm động lại càng quyết tâm,
kháng cự với Tào Tháo.
Lúc ấy quân tiên phong của Trương Liêu và
quân Từ Hoảng đã tiến vào Tân Dã, cách Tương Dương chỉ khoảng 4 ngày đường.
Đầu tháng 9 quân Lưu Bị tiếp tục chặng đường
hơn 400 dặm rút về nam, đến huyện Tương Dương, dân tị nạn kéo theo đầy cả đường,
có đến hơn mười vạn người, xe chở hành lý lớn nhỏ có đến vài nghìn chiếc, chen
cả lối đi, mỗi ngày hành quân không được 10 dặm đường, còn hơn 300 dặm mới đến
Giang Lăng, với tốc độ như vậy ít ra phải mất một tháng mới đến nơi, nói chung
chẳng thể tránh được quân truy kích của Tào Tháo.
Lưu Bị bất đắc dĩ phải triệu tập hội nghị
khẩn cấp, đổi mới kế hoạch bố trí rút quân, ông hạ lệnh Quan Vũ dẫn hơn 1 vạn
thủy quân theo đường Hán Thuỷ mà xuôi dòng, đến Giang Lăng trước lo việc phòng
thủ, lại phái sứ giả đên Hạ Khẩu khẩn cấp trao đổi với Lưu Kỳ hẹn sẽ hợp quân ở
Giang Lăng. Trương Phi dẫn 2000 nhân mã theo chặn hậu dự phòng Tào Tháo tập
kích, Triệu Vân dẫn vài trăm người lo việc bảo vệ gia nhân. Còn tự mình với Gia
Cát Lượng, Từ Thứ, dẫn quân chủ lực bảo vệ dân tị nạn, cứ từ từ mà đi như cũ.
Không ít quân tùy tùng và tướng lĩnh chỉ
huy nói với Lưu Bị rằng: "Theo kế hoạch hiện nay, cần mau chóng đến Giang Lăng,
hiện nay chúng ta tuy có mấy vạn người, nhưng người có thể cầm vũ khí thì ít, lại
thêm quá nhiều xe chở nặng làm trở ngại hành động, nêu bị quân Tào Tháo đánh đến,
biết xử trí thế nào?”
Lưu Bị kiên quyết nói: "Ta không phải không
biết sự nguy hiểm song người có tâm sáng lập sự nghiệp, rất cần "đắc nhân tâm”,
hiện nay mọi người đều theo ta mà đi, ta sao nỡ nhẫn tâm dứt bỏ họ cho đành?”.
Sau này vào thời Nam Triều, Tập Tạc Xỉ luận
về việc này có viết:
"Lưu Huyền Đức tuy thân phận đang lúc điên
đảo hoạn nạn, lại càng tuân thủ tín nghĩa, hình thế đã 10 phần nguy bách, mà vẫn
có thể nói không lỗi đạo; cẩn thận với Lưu Biểu bạn cũ, không bội ước với người
xưa, tình nghĩa cảm động cả ba quân. Bởi thế có không ít người một lòng nguyện
với ông ta chia sẻ tai nạn, người ấy sau này có thể sáng lập đại sự nghiệp, có
thể nói là đạo lý tất nhiên vậy!”.
3. Triệu Tử Long một ngựa cứu chúa, Trương
Dực Đức thét lớn lui binh
Trung tuần tháng 9, Tào Tháo đến được Tân
Dã, lập tức triệu tập hội nghị quân sự trong doanh trại. Theo tin tức của thám
mã cho biết rõ ràng, Lưu Bị đang cố gắng rút lui về Giang Lăng, một điểm quân sự
quan trọng ở giữa Kinh Châu. Giang Lăng có lương thực tàng trữ, đối với đội
quân viễn chinh Tào Tháo thực có giá trị, bởi thế không thể để Lưu Bị cướp được
chỗ quan trọng này, mà tăng cường lực lượng phòng thủ, Tào Tháo quyết định lựa
ra 5000 kỵ binh tinh nhuệ, tự mình cầm quân, lại phối hợp với quân "hổ báo” của
Tào Thuần, đi suốt ngày đêm, truy đuổi Lưu Bị.
Quân kỵ binh của Tào Tháo đi 300 dặm một
ngày, cuối cùng đến gần Tương Dương Trường Bản thì gặp đội hậu bị của Lưu Bị.
Trương Phi dẫn quân chặn hậu ráo riết chống đỡ song không thể ngăn nổi khí thế
của quân Tào nên mau chóng bị đánh tan. Quân của Lưu Bị tuy nhiều hơn so với
Tào Tháo, nhưng bất ngờ lại thêm phải bảo vệ dân lành, nhìn chung không thể chiến
đấu nổi. Quân kỵ binh của Tào Tháo xung sát dữ dội, quân Lưu Bị thua to, Trương
Phi chỉ biết lệnh cho quân chặn hậu bảo vệ Lưu Bị cùng Gia Cát Lượng, Từ Thứ sớm
rút về phía nam.
Giữa đám loạn quân, Triệu Vân phát hiện đội
quân đi theo gia quyến Lưu Bị bị đánh tan, bèn hạ lệnh cho toàn quân mau chóng
rút chạy, tự mình một ngựa trở lại phía bắc, chém giết dữ dội để truy tìm gia
quyến Lưu Bị. Không lâu gặp My Trúc đang hộ tống Cam phu nhân, Triệu Vân lệnh cho
My Trúc đuổi theo Lưu Bị, lại quay lại phía bắc tìm A Đẩu, con trưởng của Lưu Bị.
Lúc ấy hai người con gái của Lưu Bị đã bị bắt, Giản Ung bảo vệ My phu nhân mang
theo A Đẩu chạy trốn, song bị quân Tào đuổi kịp, Giản Ung và My phu nhân đều bị
trọng thương, may mà Triệu Vân đến kịp đẩy lùi được quân Tào, bởi My phu nhân bị
thương nặng, không muốn đi nữa, Triệu Vân chỉ còn biết lệnh cho một quân sĩ đưa
Giản Ung đi, tự mình ở lại chỗ ấy nài nỉ My phu nhân. Song phu nhân muốn cứu lấy
ấu chúa, Triệu Vân không thể một mình bảo vệ được cả hai, bèn nhân khi Triệu
Vân không chú ý lao đầu xuống giếng tự vẫn mà liều chết. Liền sau đó, Triệu Vân
bọc ấu chúa vào trong áo, đơn thân độc mã phóng về phía nam, mong gặp được Lưu
Bị, giữa đường gặp không ít quân Tào chặn đánh, Triệu Vân hăng hái chống trả, đột
phá vòng vây trùng trùng, tấm chiến bào mầu trắng đều nhuốm đầy máu đỏ. Lưu Bị
và Gia Cát Lượng vừa đánh vừa chạy hối hả cuối cùng dừng lại sau cầu Trường Bản,
nơi hợp lưu của sông Chương Thủy và Tứ Thủy, tiến hành chỉnh biên đội ngũ. Bởi
vậy Lưu Bị lệnh cho Trương Phi mang 20 kỵ binh chặn hậu, để chặn địch, cùng tiếp
ứng cho tàn quân đang rút chạy. Không lâu, nhìn thấy Triệu Vân một ngựa bảo vệ ấu
chúa đang chạy lại, Trương Phi lập tức chạy đến giúp ông ta qua cầu. Triệu Vân
nói với Trương Phi, quân Tào đang đến gần nên mau chuẩn bị đối phó.
Trương Phi lệnh cho 20 kỵ binh quất ngựa chạy
trên cánh đồng mé sau cầu, làm tung cát bụi mù mịt, để làm nghi binh. Tự mình
ngồi trên mình ngựa cầm ngang ngọn giáo trấn giữ bên cây cầu, chuẩn bị nghênh
chiến truy binh của Tào Tháo.
Ở chỗ này nước sông chảy rất dữ chẳng thể
vượt qua, lại thêm cầu Trường Bản đã bị Trương Phi phá hoại, trừ khi mạo hiểm
vượt sông, còn chẳng có đường nào khác, bởi thế quân Tào kéo đến sau đó cũng
không biết phải làm gì.
Tào Thuần chạy đến tận nơi, chỉ thấy Trương
Phi cầm giáo đứng trụ, lớn tiếng quát rằng: "Ta là Trương Dực Đức đây, có gan
thì phóng ngựa sang đây quyết một trận sinh tử”. Tào Thuần thấy ông ta chẳng sợ
hãi như thế không rõ Trương Phi có quỷ kế gì, bởi vậy không dám liều lĩnh qua
sông.
Hai bên cách nhau hai phía cầu gẫy, cầm cự
kéo dài, khiến Lưu Bị rút lui kịp thời về nơi an toàn. Bởi tránh sự truy đuổi của
Tào Tháo, Lưu Bị quyết định vứt bỏ kế hoạch chiếm Giang Lăng, mà rút về Hạ Khẩu,
gặp được Quan Vũ với một vạn quân thủy đang ở Hán Tân Khẩu, thanh thế khôi phục
lại, nhìn chung ổn định được tình thế. Không lâu Thái thú Giang Hạ là Lưu Kỳ
mang một vạn thủy quân lên chi viện và ở lại đấy, hai bên tạm thời đóng đồn ở Hạ
Khẩu, sửa sang việc phòng ngự doanh trại.
Trận Tương Dương Trường Bản, Tào Tháo chẳng
những bắt được nhiều người và đồ quân dụng, đến cả hai người con gái của Lưu Bị
cũng bị Tào Thuần bắt giữ. Bà mẹ của Từ Thứ đi theo đoàn quân cũng bị bắt, Tào
Tháo nói Từ Thứ là người hiếu thảo, bắt mẹ Từ Thứ viết thư gọi Từ Thứ về quy
hàng.
Từ Thứ sau khi được thư, vội đến xin từ biệt
với Lưu Bị và Gia Cát Lượng, ông ta lấy tay chỉ vào trái tim mà nói với Lưu Bị:
"Tôi vẫn muôn giúp tướng quân dựng nên nghiệp bá, nay việc đến nỗi này, mẹ già
bị giam hãm, rối loạn cả đầu óc, chẳng thể làm gì xin hãy cho tôi được ra đi!”.
Lưu Bị và Gia Cát Lượng đều không muốn thế,
song cũng không biết làm như thế nào, đành để Từ Thứ đến trại Tào cứu mẹ già.
Kết quả trận Tương Dương là rất lớn, thực
ra Tào Tháo sử dụng quân không nhiều trừ đội kỵ binh hổ báo đa số là quân họ
Viên và quân Kinh Châu mới biên chế (quân đoàn Văn Sính cũng ở trong số đó).
Song ông ta vận dụng chiến thuật chớp nhoáng, Lưu Bị về căn bản chẳng thể đánh
giá hết về quân lực. Bởi vậy, không đầy hai tháng Tào Tháo đã chiếm được Giang
Lăng, có được một nửa lãnh thổ Kinh Châu, thiên tài chỉ huy quân sự của Tào
Tháo, thực khiến người ta kinh sợ. Có thể tin ở trận này Gia Cát Lượng trẻ tuổi
đã có một ấn tượng sâu sắc về thực tế chiến đấu, giúp đỡ cho ông rất nhiều kinh
nghiệm trong những trận đánh sau này.
4. Lâm nguy nhận sứ mệnh, lặn lội để ngoại
giao.
Sau khi Tào Tháo đánh chiếm Giang Lăng, rất
kiêu căng tự mãn, ông ta trù trừ thoả mãn, sai người đưa đến cho Tôn Quyền một
phong thư: Ta phụng thánh chỉ để chinh phạt, cờ mao trở về nam, Lưu Tông chịu đầu
hàng, nay lệnh cho 80 vạn quân thủy, sẽ cùng với tướng quân đi săn ở Đông Ngô.
Đây là một phong thư vừa đe dọa vừa chiêu
hàng, Tôn Quyền lúc ấy cũng đến Sài Tang, một vị trí quân sự quan trọng tuyến đầu
bên sông Trường Giang, một mặt quan sát tình thế chiến dịch Kinh Châu, một mặt
khác tích cực chuẩn bị công việc phòng ngự. Sau khi tiếp được bức thư của Tào
Tháo, Tôn Quyền lập tức triệu tập hội nghị quân sự lâm thời, xung quanh việc
"dùng thư tín ra oai với quần thần, không vì thế mà sợ hãi”.
Tôn Quyền trẻ tuổi song rất bình tĩnh trước
sự việc này, thực ra ông ta đã sớm quan tâm đến hành động nam chinh chiếm Kinh
Tương của Tào Tháo, trung tuần tháng 8, đã từng phái Lỗ Túc đi Giang Lăng, nghe
ngóng thái độ Lưu Bị và Lưu Kỳ.
Khi Lỗ Túc đến Nam quận, nghe nói Tương
Dương đã bị chiếm, đại quân Lưu Bị đang rút về nam; lập tức vội đến Tương
Dương, gặp được Lưu Bị đã rút về Trường Bản, đều cùng đi đến Hạ Khẩu để gặp Lưu
Kỳ.
Sau khi đã thay mặt Tôn Quyền thăm hỏi Lưu
Bị, Lỗ Túc hỏi Lưu Bị có dự định gì, Lưu Bị cho rằng Giang Lăng tuy có thể mất,
song phần phía nam giáp Trường Giang chưa bị quân Tào chiếm lĩnh, bởi thế ông dự
định sau khi chấn chỉnh đội ngũ ở Hạ Khẩu, sẽ dẫn quân xuống phía nam theo lối
cuốn chiếu mà đi. Lỗ Túc hỏi ông ta có ai giúp đỡ, Lưu Bị nói: "Thái thú Thương
Ngô là Ngô Cự, với tôi có quan hệ cũ, dự định đến nhờ ông ta giúp đỡ”.
Lỗ Túc không tán thành, "Đất Thương Ngô ở
nơi xa xôi, Ngô Cự lại là kẻ tầm thường, chẳng thể nương nhờ được. Thảo Lỗ tướng
quân (chỉ Tôn Quyền) thông minh nhân ái, kính hiền đãi sĩ, kẻ anh hào ở Giang
Đông đều tụ về. Hiện nay đã có binh mã 6 quận Giang Đông, lương thảo đầy đủ, cơ
sở vững vàng. Bởi thế kế hoạch hợp lý hiện nay là kết giao với thế lực Giang
Đông, cùng gánh vác đại sự”.
Kế hoạch này với chiến lược thân Ngô đánh
Tào mà Gia Cát Lượng đề nghị ở "Long Trung Sách”, tình cờ mà hợp Lưu Bị tự
nhiên rất đỗi hứng thú, lại được Lỗ Túc chỉ dẫn, việc khó mà thành ra dễ.
Lỗ Túc lại đề nghị thêm với Lưu Bị, Hạ Khẩu
ở phía bắc Trường Giang, dễ bị Tào Tháo đánh từ đường bộ, chẳng bằng rời phòng
tuyến sang Phàn Khẩu ở phía bờ nam (nay là Hồ Bắc). Vào thời kỳ này Lỗ Túc mới
nói với Gia Cát Lượng về quan hệ giữa mình và Gia Cát Cẩn, hai người bởi thế
càng thêm thân thiết. Sau này, trong nhiệm vụ liên minh Tôn - Lưu rất gian khổ,
tình bạn giữa Gia Cát Lượng và Lỗ Túc, đã phát huy ảnh hưởng khá quan trọng.
Sau khi hoàn thành công việc đóng doanh trại
ở Phàn Khẩu, Gia Cát Lượng nói với Lưu Bị: "Việc rất đã gấp, xin được phụng mệnh
nhờ Tôn tướng quân cứu giúp”. Lưu Bị cũng cảm thấy tình thế rất gấp, Tào Tháo
có thể mau chóng từ Giang Lăng thuận dòng mà xuống, mà quân lực ở Phàn Khẩu chẳng
thể ngăn cản nổi, bởi thế đồng ý để Gia Cát Lượng theo Lỗ Túc đi Giang Đông,
trao đổi về việc hợp tác chiến đấu. Hai mươi năm sau Gia Cát Lượng có viết
trong Xuất Sư Biểu: "Sau này ngẫm lại, nhận việc trước lúc bại quân, phụng mệnh
giữa lúc nguy nan”, chỉ rõ việc này.
Lời bình của Trần Văn:
Phần "cửu biến thiên” trong "binh pháp Tôn
Tử” cỏ một đoạn viết: "Làm tướng có 5 điều nguy hiểm, có thể nói gộp lại, vào
chỗ chết có thể bị chém, tìm chố sống có thể bị bắt, tức giận có thể phải hối,
liêm khiết có thể phải nhục, yêu dân có thể phiền toái. Phàm 5 điều ấy, làm tướng
phải biết rõ, tai nạn lúc dùng binh, thua quân mất tướng, đều ở bởi 5 điều nguy
hiểm ấy, chẳng thể không xem xét kỹ”.
Nếu báo thù mà quyết tâm liều chết, sách lược
không thấy hết khó khăn tiến thoái, sẽ dẫn đến hy sinh vô vị.
Nếu kẻ làm tướng quá tin ở viện trợ sẽ khó,
thiếu quyết tâm của chính mình, sẽ rất dễ bị bắt.
Nếu gặp địch giữa trận, nôn nóng quá mức,
chưa xem xét kỹ lưỡng toàn cục sẽ mắc phải âm mưu của kẻ địch.
Nếu quan tâm đến danh dự nhiều quá, sẽ
không nhẫn tâm, cảm tình quá mức, chẳng thể kiên trì với suy nghĩ lý tính, dễ
rơi vào cạm bẫy của địch.
Nếu yêu mến trăm họ hoặc quân dân thái quá,
sẽ chẳng thể phát huy chiến đấu, ảnh hưởng đến hiệu suất tác chiến.
Năm điểm này đều là chứng bệnh mà các tướng
lĩnh dễ mắc phải, cũng sẽ tạo thành tai họa khi dùng binh, phàm là toàn quân
tan rã, đại tướng gặp nạn, đều bởi năm điểm này, chẳng thể không chú ý đặc biệt.
Quá cố chấp ắt sẽ dẫn đến chỗ mất tính đàn
hồi, với việc chỉ huy đại cục, kẻ trí dũng rất khó tránh những sai sót.
Nghiêm chỉnh mà nói, từ Phàn Thành rút quân đến
Tương Dương đại bại, Lưu Bị đã phạm không ít sai lầm về chỉ huy toàn cục, dẫn đến
chỗ bị Tào Tháo triệt để khoét sâu, đành chịu chạy thoát thân, đã là cái không
may trong cái may mắn. Kinh nghiệm về trận thảm bại này, đối với Gia Cát Lượng
trẻ tuổi sau này vạch ra sách lược, sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối với khuynh hướng
cẩn thận tuyệt đối.
Đánh máy: hoi_ls
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN, 2003 (Tái
bản lần II)
Nguồn: Vnthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 11 năm 2013