QUYỂN HẠ
GIÓ THU THỔI QUA GÒ NGŨ TRƯỢNG
THIÊN THỨ BẢY
BẮC PHẠT TRUNG NGUYÊN
Chương XXV
NGẦM QUA TRẤN THƯƠNG
Tào Chân xem xét kỹ địa hình, phán đoán Gia
Cát Lượng đã không có lợi thế ở Kỳ Sơn, cuộc bắc chinh lần sau nhất định sẽ chọn
Trần Thương làm mục tiêu tấn công.
Bởi thế đặc biệt bố trí danh tướng Hác
Chiên chí dũng song toàn, trung thành với chức phận, phụ trách việc cố thủ ở
thành Trần Thương.
1. Kiểm thảo sai lầm, lại cùng xuất phát.
Năm Kiến Hưng thứ 5 khi bắc phạt lần thứ nhất,
năm đó sinh con trai cả của ông là Gia Cát Chiêm, Gia Cát Lượng kết hôn rất sớm,
gần về già mới có con, thực cũng là điều đáng tiếc. Sự kiện này cũng cho thấy
thời gian đó sức khoẻ của Gia Cát Lượng vẫn khá tốt.
Mùa xuân năm sau, chiến dịch Nhai Đình thất
bại, kết thúc hành động quân sự bắc phạt lần thứ nhất. Năm đó Trưởng sử Trương
Duệ thuộc phái Trưởng lão từ trần, Tham quân Tưởng Uyển thuộc phái Thiếu tráng
lại thân tín với Gia Cát Lượng được bổ nhiệm thay thế lại được phong làm Phủ
quân tướng quân. Nói cách khác Gia Cát Lượng dần dần đã nắm chắc được xu hướng ở
triều chính.
Tưởng Uyển quả nhiên có thể thực thi mọi kế
sách của Gia Cát Lượng, xử lý việc triều chính lấy yên dân làm gốc, khiêm nhường
giản dị, bài trừ lãng phí nhằm đủ quân đủ lương. Gia Cát Lượng mỗi lần cùng với
những người thân tín xung quanh nói về Tưởng Uyển, không khỏi khen rằng: "Tưởng
Uyển có chí lớn lại trung thành, cùng với ta dựng được vương nghiệp vậy”.
Không ít người cho rằng chủ yếu thất bại
Nhai Đình là tội lỗi của Mã Tắc, song Cơ Cốc đối trận với quân Lũng Tây một dạo
đã hàng phục, hiển nhiên là quân Thục đã có đủ lực lượng để đối đầu với Tào Ngụy;
Bởi thế đề nghị, nên tổ chức nhiều binh lực, để lại đánh chiếm Lương Châu.
Gia Cát Lượng lại không tán thành.
Quân ta khi ở Kỳ Sơn và Cơ Cốc, thanh thế
và thực lực một mảy may cũng không kém Tào Ngụy, song ở cửa ải quan trọng lại bị
đại bại, vấn đề không ở tướng sĩ tác chiến, mà là ta làm thống soái lại dùng
người không xứng đáng, chỉ huy nhầm lẫn mới đến như vậy! Bởi thế người phải kiểm
thảo chính là ta. Từ nay về sau, ta quyết định tinh giảm binh lực, thưởng phạt
nghiêm minh, triệt để cải thiện nhược điểm của quyết sách, đổi mới sách lược
đưa ra, nếu không quân có nhiều cũng chẳng dùng được. Từ nay về sau, phàm là
người trung với quốc gia, càng phải gắng gỏi phát hiện nhược điểm của ta, chẳng
nên khách khí để đưa ra đề nghị, mọi người đồng tâm hiệp lực, kẻ địch sẽ rất
mau chóng bị tiêu diệt, thắng lợi không lâu nữa sẽ thuộc về chúng ta.
Những lời nói này là "khuyên tướng sĩ cần
chỉ bảo cho khuyết điểm của mình” nổi tiếng, chính là chứng cớ hiển nhiên Gia
Cát Lượng đã khiêm nhường với mọi người, tiếp thu rộng rãi ý kiến quần chúng.
Từ đó có thể thấy cuộc bắc phạt lần thứ nhất
thất bại, vẫn chưa lay chuyển được quyết tâm khôi phục nhà Hán của Gia Cát Lượng,
trái lại vẫn tiếp tục được chuẩn bị. Đối với Gia Cát Lượng mà nói, điều rất
quan trọng là sách lược lần sau. Từ thực tế tiến công Lương Châu là chẳng thể
được, tiếp đến ắt phải nghĩ ra một con đường mà kẻ địch chẳng thể dự liệu đến,
điều này đối với Gia Cát Lượng chính là khó khăn rất lớn.
Thế rồi ông ta một mặt động viên người có
công, vỗ về gia quyến những tướng sĩ tử trận, một mặt tại luyện binh sĩ, chỉnh
đốn quân ngũ, để chuẩn bị lại xuất phát lần nữa.
2. Đông chiến tuyến xảy ra đại chiến, Lục Tốn
tìm cách phá Tào Chân.
Gia Cát Lượng sau khi rút về Hán Trung
không lâu, giữa Tào Ngụy và Đông Ngô, lại phát sinh một sự cố rất lớn.
Vào tháng 5 năm Kiến Hưng thứ 6, Ngô Vương
Tôn Quyền để giải trừ sự uy hiếp lớn ở chiến tuyến phía đông, quyết tâm đột
kích vào đội quân vũ trang của Thái thú Tào Hưu ở Dương Châu.
Tào Hưu tên chữ là Văn Liệt, là cháu của
Tào Tháo lúc hơn 10 tuổi, tập hợp mấy chục hương dũng, đến Tiều huyện hưởng ứng
việc Tào Tháo cử binh đánh Đổng Trác, Tào Tháo thấy thế rất vui mừng thường
nói: "Đấy là ngựa thiên lý của nhà ta vậy”. Xem như con, lại từng để ông ta chỉ
huy đội cận vệ của Tào Tháo gọi là "Hổ báo kỵ”, có biểu hiện rất xuất sắc,
trong chiến dịch Hán Trung, Tào Hưu lại có lần lập kỷ lục đánh bại được danh tướng
Thục Hán là Trương Phi, nên rất nổi danh. Tào Phi sau khi xưng đế, bổ nhiệm làm
lĩnh tướng quân, lại phong làm Đông Dương Đình Hầu. Sau khi Hạ Hầu Đôn mất, Tào
Hưu được làm Trấn nam tướng quân trở thành quan lớn cao nhất về hành chính
phòng vệ kinh thành. Tôn Quyền sai tướng lĩnh mang quân đến đóng ở Lịch Dương,
dự tính uy hiếp sự phòng thủ của Tào Ngụy ở đông chiến tuyến, Tào Hưu tự mình dẫn
quân đánh phá, không lâu trong trận Đông Phổ, đã phá được đại quân của Lã Phạm là
danh tướng Đông Ngô, được phong làm Dương Châu mục, phụ trách phòng thủ ở chiến
tuyến thứ nhất ở chiến trường phía đông.
Tào Tuấn lên ngôi, Tào Hưu lại đánh bại được
đạo quân của đại tướng Đông Ngô là Thẩm Đức đóng đồn ở Vu Hoàn (tỉnh An Huy)
các tướng Đông Ngô như Hàm Tống, Địch Đan đều rối rít xin hàng. Tào Hưu bởi có
quân công được thăng làm Đại tư mã, vẫn giữ chức Dương Châu mục.
Bởi Tào Hưu thanh thế mau chóng bành trướng,
việc phòng thủ ở đông chiến tuyến của Đông Ngô gặp phải áp lực chưa từng có, phòng
tuyến mà Lã Mông và Chu Thái xây dựng nên cơ hồ hoàn toàn tan rã, khiến Tôn Quyền
lấy làm đau đầu không thôi.
Thuận theo khí thế Tào Hưu đang mạnh, Tôn
Quyền ngầm chỉ thị cho Thái thú Bà Dương là Chu Phường giả vờ đầu hàng, dẫn dụ
quân Tào Hưu đánh Ngô, sau đó sẽ chặn đánh, để thực hiện kế hoạch này, Tôn Quyền
tự mình đến Hoàn quận trông nom việc quân, điều Lục Tốn đang làm Tổng tư lệnh
chiên tuyến phía tây sang làm Đại đô đốc ở chiến tuyến phía đông chỉ huy hành động
quân sự lần này, lại lấy Chu Hoàn, Toàn Tông làm Tả hữu đô đốc, mỗi người chỉ
huy một đạo quân 3 vạn người tùy thời chuẩn bị tập kích Tào Hưu khi tiến vào
Hoàn quận.
Bởi tất cả đều thuận lợi, mà Tào Hưu có chỗ
cao ngạo, tự nhiên hoàn toàn tin rằng Chu Phường đầu hàng, ông ta lập tức dẫn 10
vạn bộ kỵ binh hỗn hợp, kéo xuống vùng Hoàn quận ở phía nam tiếp ứng cho Chu
Phường, dự tính sẽ vượt sông, tập kích vào đại bản doanh của Đông Ngô là kinh
thành Kiến Nghiệp.
Tào Tuấn nhận được báo cáo, sợ Tào Hưu vào
sâu vùng địch, có chỗ sơ hở, đặc biệt phái Tư Mã Ý đang chỉ huy quân Kinh, Dự,
tiến quân đến Giang Lăng để tiếp ứng, lại phái Giả Quì đánh vào trận địa Nhu Tu
khẩu ở Đông Quan, ba đường cùng tiến, để giảm nhẹ áp lực cho Tào Hưu.
Tào Hưu sau khi đến Hoàn quận, không thấy
Chu Phường tiếp ứng lại không ngừng bị Chu Hoàn và Toàn Tông đột kích biết ngay
rằng đã trúng kế. Nhưng ông ta cho rằng mình có binh lực hơn hẳn, nếu bởi thế
mà rút binh chẳng khác gì khiếp đảm, bèn quyết tâm cùng với quân Ngô tiến hành
một trận quyết chiến.
Chu Hoàn đề nghị với Tôn Quyền, mai phục ở
Giáp Thạch, Quải Xa, tập kích Tào Hưu, nếu thừa thắng sẽ đuổi dài lên phía bắc,
đến lấy Thọ Xuân, trực tiếp uy hiếp Tào Ngụy ở Hứa Đô và Lạc Dương. Tôn Quyền
trao đổi với Lục Tốn, Lục Tốn cho rằng rất mạo hiểm, Tôn Quyền khéo léo từ chối
đề nghị của Chu Hoàn.
Cũng có nhà sử học cho rằng, Lục Tốn sợ Chu
Hoàn lập được công lớn, cướp lấy ngôi đầu bảng, mới cố ý phản đối, nếu không kế
hoạch của Chu Hoàn đã có thể thi hành được.
Song Lục Tốn vốn là người khí chất, không đến
nỗi như thế, việc này cũng giống như Gia Cát Lượng và Ngụy Diên chọn đường bắc
phạt: Một người muốn đánh thẳng vào doanh lũy, dần dần sẽ đánh lâu dài, còn một
người thì gắng cầu an toàn, chủ trương đánh ngắn ở những nơi có thể.
Do bản doanh chính của Tào Ngụy như Lạc Dương,
Hứa Đô, Nghiệp Thành, đều ở đông về chiến tuyến phía đông như Tào Hưu, Tư Mã Ý,
Giả Quì, Mãn Sủng đều được chọn kỹ là tuấn kiệt đương thời, về mưu trí và thao
lược, hơn hẳn các tướng ở chiến tuyến phía tây như Tào Chân, Trương Cáp, Quách
Hoài, và Hác Chiêu, chiến thuật táo bạo của Chu Hoàn, thực ra là rất khó thi
hành thông suốt, đối với Lục Tốn sự phản đối chính là ở đấy.
Thượng thư Tưởng Tế dâng thư lên Tào Tuấn
nói: "Tào Hưu vào sâu vùng địch, đối đầu với tinh binh của Tôn Quyền, Lục Tốn bị
đại quân của Chu Nhiệm đuổi theo phía sau, xem ra hình thế khá bất lợi, nên mau
chóng có chuẩn bị”.
Tiền tướng quân Mãn sủng cũng dâng biểu nói
rõ: ‘‘Tào Hưu tuy khéo dùng binh, song ông ta vẫn chuyên chiến thuật kỵ binh ở
đồng nội, nay mang thân đên đất Hoàn lắm sông ngòi hồ đầm, dễ tiến mà khó rút,
nếu càng vào sâu thì càng khó khăn hơn. Bởi thế phải phòng ngự hữu hiệu”.
Không lâu Tào Hưu và Lục Tốn giao chiến ở
vùng Thạch Đình, Lục Tốn tự mình ở trung lộ chỉ huy giao chiến chính sự, lệnh
cho Chu Hoàn, Toàn Tông từ hai cánh trái phải tập kích vào quân Tào Hưu. Đạo
quân hỗn hợp bộ kỵ binh của Tào Hưu, thực tế không chuyên tác chiến ở sông hồ,
bởi thế mà bị đánh đại bại, phải rút về vùng Giáp Thạch, số tử thương đến hơn một
vạn người, vài vạn cỗ xe bò ngựa đều bị bắt, quân trang khí giới cơ hồ hoàn
toàn bị mất cả.
Khi đạo quân của Giả Quì tiến đánh Nhu Tu
Khẩu, phát hiện quân giữ không nhiều, lại cậy hiểm mà không ra đánh, bèn phán
đoán Đông Ngô nhất định tập kết ở đất Hoàn, Tào Hưu nếu vào sâu như thế, ắt bị
đánh bại. Bởi thế mau chóng đến chi viện, chưa đến nơi thì được tin Tào Hưu đã
bị đánh bại ỏ Thạch Đình, trước mắt đang rút về Giáp Khẩu.
Các tướng lĩnh của Giả Quì cho rằng đại thế
đã mất, nên mau chóng rút quân, để tránh bị tập kích. Song Giả Quì cứng cỏi nói
rằng: "Tào Hưu binh bại ở vùng địch, đường rút có thể bị ngăn cản, rõ ràng tiến
không thể thắng, rút chẳng thể hết khốn khổ. Quân Đông Ngô ắt toàn lực nghĩ đến
tiêu diệt chúng ta, chẳng thể đến động tĩnh xung quanh. Lúc này, chúng ta càng
phải mau chóng đến chi viện, nhân lúc xuất kỳ bất ý, chính là chiến thuật "đến
trước đoạt lấy tâm tư”. Nếu như sợ việc, Tào tướng quân có thể sẽ bị toàn quân
tan rã”.
Giả Quì lập tức đuổi đến Giáp Thạch, lại
dùng nhiều cờ trống để làm nghi binh, quân Đông Ngô quả nhiên không dám tiến gấp,
bại quân của Tào Hưu mới bởi thế mà thoát hiểm rút về phương bắc được.
Tào Hưu và Giả Quì vẫn không hoà thuận với
nhau, hai người rất ít nói chuyện, song trong nguy cơ lớn lần này, Giả Quì lại
kịp thời cứu được Tào Hưu cùng đạo quân của ông ta.
Tào Tuấn đối với việc đại bại nghiêm trọng
lần này, còn chưa chỉ trích, song Tào Hưu tự mình lấy làm xấu hổ lỗi lầm, không
lâu bị lên nhọt hậu bối, không chữa mà qua đời. Tào Tuấn lấy Mãn Sủng làm Lương
Châu mục, trông coi đạo quân Tào Hưu.
Để bổ sung binh lực tan rã của đông chiến
tuyên, sắp xếp lại đội quân Tào Hưu để lại, Tào Tuấn phải điều về không ít quân
lính từ Quan Trung, bởi thế khiến tây chiến tuyến xuất hiện lỗ hổng phòng ngự lớn.
Sau khi tiếp được tin tình báo như thế, Gia
Cát Lượng cho rằng cơ hội lại đến rồi.
3. Hậu "Xuất Sư Biểu” và câu đố thật giả.
Gia Cát Lượng vào tháng 8 phái nhiều nhân
viên tình báo, tăng cường chú ý sự tranh giành giữa Tào Hưu và Lục Tốn. Không
lâu Tào Hưu bại trận, phẫn uất mà chết, Gia Cát Lượng lại biết cơ hội đến, hạ lệnh
tích cực chuẩn bị công việc bắc phạt. Quả nhiên lập tức truyền đến tin tức Mãn
Sủng đã thay chân Tào Hưu, điều động số lớn binh lực từ Quan Trung đến bố trí tại
đông chiến tuyến.
Tháng 11 Gia Cát Lượng điều động số lớn
binh lực ở các nơi, nhằm bao vây trọng điểm quân sự Trần Thương (hiện nay thuộc
huyện Bảo Kê - tỉnh Thiểm Tây). Nghe nói trước cuộc xuất binh lần này, Gia Cát
Lượng lại một lần nữa dâng lên Hậu chủ bản Xuất Sư Biểu, người đời sau gọi là hậu
Xuất Sư Biểu.
Nhưng bản hậu Xuất Sư Biểu này, không thấy ở
chính sử Tam quốc chí. Bùi Tùng Chi có dẫn "Hán Tấn Xuân Thu” cho rằng, tờ biểu
này đã thấy rất sớm trong "Mặc ký” của Trương Nghiêm, bởi thế mà rất nhiều người
cho rằng bản Xuất Sư Biểu dứt khoát chẳng thể do Gia Cát Lượng viết, mà là người
khác mượn danh viết ra. Song vấn đề là rốt cuộc ai là người làm việc này? Tư Mã
Quang là tác giả cuốn "Tư trị thông giám” cho rằng, cách nói "cúc cung tận tụy,
đến chết mới thôi” trong tờ biểu sau này, rất tượng trưng cho tinh thần Gia Cát
Lượng trung trinh chẳng đổi đến chết không rời, bởi thế mà đối chiếu toàn văn,
ngay đến Hồ Tam Tỉnh chú giải "Tư trị thông giám”, khi khảo cứu cũng chưa từng
hoài nghi, mà khẳng định là tác phẩm của Gia Cát Lượng. Song cách nhìn nhận như
vậy, ít nhiều là sau đời Tống Nguyên, thiên kiến của những phần tử tri thức lấy
trung thành làm chính.
Để so sánh cụ thể với tiền Xuất Sư Biểu về
văn thể, nội dung, khẩu khí, nhằm làm rõ thật giả, xin đặc biệt ghi lại toàn
văn như sau:
"Tiên đế nghĩ Hán tặc không thể tranh ngôi,
vương nghiệp không thể rời đổi, nên uỷ thác cho thần thảo phạt giặc dã.
Bởi Tiên đế sáng suốt chiếu cố tài mọn của
hạ thần vẫn biết rằng thần thảo phạt là lấy kém cỏi đối địch với kẻ mạnh mẽ;
song rõ ràng nếu không thảo phạt vương nghiệp sẽ mất; chỉ ngồi mà đợi mất, chín
rồi mới thảo phạt, là điều mà thần chẳng nghĩ đến vậy.
Khi thần nhận lệnh, ngủ không yên giấc, ăn
không thấy ngon, chỉ nghĩ đến bắc chinh, nên trước phải xuống phương nam, tháng
5 vượt sông Lô, vào sâu xứ không cây, lo lắng từng ngày. Thần chẳng phải không
tự tiếc, chỉ lo vương nghiệp không định yên ỏ Thục Đô, cho nên mạo hiểm trước
khó khăn để phụng mệnh Tiên đế, mà chẳng kể đến những lời bàn vào bàn ra. Nay
quân giặc đang mệt mỏi ở phía tây, lại lo phòng thủ phía đông, theo binh pháp
phải chớp lấy cơ hội mà tranh thủ thời gian tiến gấp. Xin trình bày rõ sự việc
như sau:
"Hoàng đế tổ tông sáng như nhật nguyệt, mưu
thần uyên thâm, vượt qua chỗ hiểm mà sáng tạo, trước nguy mà sau yên. Nay Bệ hạ
chưa được như Hán Cao tổ, mưu thần không được như Trương Lương, Trần Bình, mà
muốn lấy kế lâu dài giành thắng lợi, ngồi định thiên hạ, thì thần chưa hiểu điều
thứ một vậy.
Lưu Diên, Vương Lãng chiếm cứ các châu quận,
kê sách bàn luận vỗ yên, dẫn đủ những lời thánh nhân, mọi người đều thấy khó mà
ngần ngừ, năm nay không đánh, sang năm cũng không đánh, đế Tôn Quyền ngày mỗi lớn
ở Giang Đông thì thần không hiểu nổi điều thứ hai.
Tào Tháo mưu trí hơn người dùng binh phảng
phất như Tôn Ngô mà còn khốn ở Nam Dương, nguy ở Ô Sào... sau mới tạm ổn định,
huống chi tài kém, mà muốn không qua nguy hiểm để định là điều mà thần không hiểu
thứ ba.
Tào Tháo năm lần đánh Xương Bá không xong,
bốn lần vượt Sào Hồ chẳng nổi, dùng Lý Phục mà Lý Phục lại mưu toan, uỷ nhiệm Hạ
Hầu mà Hạ Hầu bại vong. Tiên đế là xứng được với Tào Tháo về tài năng mà còn có
sơ xuất, huống chi như thần hèn kém sao có thể chắc thắng, đấy là điều mà thần
không thể hiểu thứ tư.
Kể từ lúc thần đến Hán Trung chỉ trong vòng
một năm, đã thấy mất Triệu Vân, Dương Quần, Mã Ngọc, Diêm Chi, Đinh Lập, Bạch
Thọ, Lưu Cáp, Đặng Đồng, chỉ kể những người thuộc hạ đã mất đến hơn 70 người,
còn nếu kể đến những người như Tám kỵ, Vỹ kỵ, Đột tướng, Tân tẩu... cũng mất
hơn 1000 người, những người ấy đều là tình anh em bốn phương gộp lại trong vài
chục năm, chẳng phải một châu mà có được, nếu như gộp mấy năm, thì tổn thất đến
2 phần 3, lấy gì để đối địch? Đấy là điều thần chưa hiểu thứ năm.
Nay dân cùng binh mệt mà sự chẳng thể nghĩ,
chỉ nhọc nhằn với những sự tiêu phí, mà không kịp mưu toan bây giờ, muốn lấy đất
một châu mà cầm giữ lâu dài trước kẻ địch, thì là điều mà thần chưa hiểu được
thứ sáu.
Phàm việc khó làm là việc phải làm vậy, xưa
kia Tiên đế thua ở đất Sở, đương lúc ấy Tào Tháo lại ra tay, tưởng rằng định được
thiên hạ. Sau này Tiên đế đông từ liên minh với Ngô Việt, tây thì lấy Ba Thục,
lại cử bắc chinh, Hạ Hầu bại trận đến như Tào Tháo cũng thất thủ mà nghiệp nhà
Hán trưởng thành vậy. Sau này nữa, Đông Ngô phản bội, Quan Vũ thất thủ, Tỉ Qui
vấp ngã, Tào Phi xưng đế. Phàm những việc như thế, khó có thể chẳng rõ. Thần
cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi, nói đến sự thành bại rõ ràng, là điều mà
thần không lúc nào không nghĩ đến”.
Phong cách của hậu Xuất Sư Biểu về văn thể
và ngôn ngữ, đích xác có sai khác với tiền Xuất Sư Biểu, hai bản xem ra tựa hồ
chẳng phải cùng một cây bút viết ra. Có thể có người cho rằng bởi vì Xuất Sư Biểu
sau này là do Gia Cát Lượng nói miệng mà thư ký khác viết lại. Song về nội dung
hậu Xuất Sư Biểu, cũng có chỗ khiến người ta nghi ngờ. Trước hết, Tam quốc chí
của Trần Thọ và Chiêu Minh văn tuyển của Tiêu Thông đều có ghi lại bản hậu Xuất
Sư Biểu. Hiển nhiên là tác phẩm của Gia Cát Lượng, họ chưa từng có ghi chép về
hậu Xuất Sư Biểu, có thể về căn bản không biết có bản viết này, văn thể tiền Xuất
Sư Biểu giản dị, nội dung tràn đầy tự tin, song lời lẽ hậu Xuất Sư Biểu cho thấy
sự do dự, trong ngôn từ thấy đầy những không khí thất bại, một chút cũng không
giống khẩu khí chính thức của một biểu văn dâng lên hoàng đế cần có. Trước sau
chỉ có một năm, tâm trạng của Gia Cát Lượng chẳng thể có chuyển biến rất lớn
như thế. Có thể có người cho rằng Nhai Đình thất thủ đối với Gia Cát Lượng là một
đòn đánh rất lớn, song thấy rằng khi ông ta mới rút quân không lâu, có nói rằng
khuyên tướng sĩ gắng bảo ban cho khuyết điểm của mình, vẫn đầy khí thế cuốn đất
mà đi, vì sao không đến một năm đã ngã không dậy được? Huống chi sau một năm
nghĩ ngợi lẽ ra càng hưng phấn ý khí mới đúng, chẳng thể căn bản lại trầm lắng
xuống. Cân nhắc kỹ lưỡng, đích xác hậu Xuất Sư Biểu không giống với văn bút của
Gia Cát Lượng vậy.
Lại khiến người ta hoài nghi là về nội dung
cũng sai lạc không ít; nhất là chép sai thời gian Triệu Vân từ trần. Triệu Vân
là lão tướng hàng đầu của Thục Hán, ông ta còn sống hay chết, Gia Cát Lượng phải
rất rõ mới đúng. Theo sử liệu ghi chép, Triệu Vân mất vào năm Kiến Hưng thứ 7,
mà hậu Xuất Sư Biểu hoàn thành vào năm Kiến Hưng thứ 6 lại đề cập đến việc Triệu
Vân mất là rất không hợp lý. Thân làm Thừa tướng với một tướng lĩnh còn sống
nói là đã chết, khá chẳng phải là chuyện rất đáng cười ư? Trái lại vào tháng
11, Lang Lăng Hầu Vương Lãng của Tào Ngụy từ trần trong hậu Xuất Sư Biểu lại đề
cập ông ta đương sống, sự sai lầm nghiêm trọng về nội dung như vậy lẽ ra không
nên có. Tác giả Liễu Xuân Phan ở Đại Lục, cứ theo khảo cứu mà phán đoán, cho rằng
bản hậu Xuất Sư Biểu này là do người cháu của Gia Cát Lượng viết ra, đó là đại tướng
quân Gia Cát Khác ở Đông Ngô, là con trai Gia Cát Cẩn. Gia Cát Khác cá tính
mãnh liệt, nói quá sự thực, có tài hoa của cha và chú, lại không khoát đạt bằng
cha và chú, mà lại ham công danh quyền lực. Ôngta sau khi nắm quân quyền ở nước
Ngô, từng nhiều năm bắc chinh phạt Ngụy, vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của các đại
thần và tướng lĩnh Đông Ngô, bởi thế đã đặc biệt viết ra "Chinh Ngụy luận” để
phản bác những tướng lĩnh không tán thành bắc phạt, thiên nghị luận này về văn
thể và nội dung cực kỳ giống với hậu Xuất Sư Biểu, đích xác có khả năng Gia Cát
Khác đã mượn danh người chú Gia Cát Lượng nổi tiếng đương thòi viết ra bản hậu
Xuất Sư Biểu này, để cùng với bản "Chinh Ngụy luận”, tạo ra sự giúp đỡ hữu hiệu
cho chủ trương bắc phạt của ông ta.
Gia Cát Khác cá tính mãnh liệt, thích làm
những lời văn bi tráng, trong hậu Xuất Sư Biểu có nói đến việc chẳng thể làm mà
vẫn làm, cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi, đích xác là có khả năng cùng một
ngòi bút viết ra. Lại thêm bản văn này, lần đầu thấy do Trương Nghiễm người
Đông Ngô sưu tầm được, cách nói của Liễu Xuân Phan như vậy là có thể hợp lý.
Nhìn chung đại bộ phận các nhà sử học tin rằng, hậu Xuất Sư Biểu chẳng phải tự
tay Gia Cát Lượng viết mà là một sáng tác của người sau.
4. Hác Chiêu cố giừ thành, Trần Thương thực
khó đánh.
Trần Thương là đất binh gia phải tranh
giành từ cổ đến giờ. Năm xưa Hàn Tín đánh vào Quan Trung thành công, chính là
đã "nói sửa sàn đạo, ngầm qua Trần Thương” chính là ở đây. Nằm trong vùng Tần
Lĩnh, duy nhất có thể dẫn đại quân đi qua chỉ có một con đường cái này. Lại
thêm địa hình che lấp rất hiểm trở, khi ngầm qua không dễ bị phát hiện: Một đặc
điểm ở đấy là bề ngang của Trần Thương rất bé, không chứa được quá nhiều quân, ở
ngoài thành đường núi gập ghềnh trắc trở, chẳng thể đóng trại, nên tuy trọng yếu
như thế, quân giữ lại không thể nhiều, chỉ có thể khi tình huống khẩn cấp phái
một đạo quân đến đó chi viện, về điểm này sự tiến công là có lợi. Song Trần
Thương địa thế lại hiểm yếu, dễ giữ mà khó đánh, ví như có số ít quân lực, cũng
có thể ngăn cản được số quân lính tấn công gấp mấy lần.
Trần Thương thuộc sự cai quản của quân khu
Quan Trung, thuộc phạm vi của Đại tướng quân Tào Ngụy là Tào Chân chỉ huy.
Tào Chân tên chữ là Tử Đan, là tướng lĩnh rất
ưu tú thế hệ thứ hai của họ Tào. Phụ thân của Tào Chân là Tào Thiện, từng theo
Tào Tháo khởi nghĩa chống Đổng Trác, bị chết tại trận, bởi thế Tào Tháo đối với
người con côi rất là thương yêu, xem như ruột thịt, Tào Chân được sự chỉ bảo ân
cần của Tào Tháo mà trưởng thành dần.
Tào Chân sau khi trưởng thành, rất thích
săn bắn, có một lần theo Tào Tháo đi săn, đang lúc gặp phải mãnh hổ xông tới, mọi
người đều chạy tứ tán, chỉ có Tào Chân đứng lại, lấy cung tên bắn chuẩn xác, hổ
già rống lên rồi ngã lăn, mọi người đều tán thưởng. Tào Tháo rất thích sự dũng
mãnh ấy, bèn để ông ta thay Tào Thuần, với Tào Hưu cùng chỉ huy đội quân "hổ
báo kỵ”.
Sau này Tào Chân luôn lập được công, khi Hạ
Hầu Uyên tử trận ở Hán Trung, tinh thần quân Tào xuống rất thấp, Tào Tháo rất
lo lắng. Tào Chân tình nguyện làm chinh phục hộ quân, cùng với Từ Hoảng luôn mấy
lần đánh bại được quân Lưu Bị, ổn định tinh thần trận tuyến quân Tào. Tào Phi
sau khi xưng đế, lại lấy Tào Chân làm Trấn tây tướng quân, trông nom việc quân ỏ
hai châu Ung, Lương, lại phong là Ung Lương hầu. Năm Hoàng Sơ thứ 3, đề bạt làm
Thượng quân đại tướng quân, giữ mọi việc quân trong ngoài, từng mấy lần đánh bại
quân bắc chinh của Đông Ngô, lại được phong Trung quân đại tướng quân.
Tào Phi khi lâm chung, cho vời Tào Chân
cùng Trần Quần, Tư Mã Ý giao cho phụ tá việc nước, lại lấy Tào Chân làm đại thần
phụ tá lớn nhất.
Tào Chân không những dũng mãnh lại giầu nghị
lực, khí chất lớn, lại thường thăm hỏi người khác. Mỗi lần chinh chiến đểu cùng
với tướng sĩ chịu đựng gian khổ, khi phần thưởng chẳng đủ thường lấy tài sản của
mình phụ thêm, bỏi thế rất được lòng quân sĩ. Vì vậy quân lính đều muốn cống hiến
hết mình.
Khi Gia Cát Lượng bắc phạt lần thứ nhất,
Tào Chân dốc đại quân bao vây chặn ở Cơ Cốc, với đại tướng hàng đầu Triệu Vân đối
trận. Tào Chân kinh nghiệm tác chiến không bằng Triệu Vân, song Triệu Vân cũng
chẳng chiếm được gì, sau cùng lại bị truy bức mà phải rút quân.
Ba quận Lũng Tây trước đó phản lại Tào Ngụy,
Tào Tuấn phái Tào Chân đến đó vỗ yên, tướng sĩ Lương Châu thấy Tào Chân đến,
không phản ứng gì mà lập tức quay lại, khá thấy tiếng tăm của Tào Chân trong
quân phát huy được tác dụng rất lớn.
Tào Chân sau khi xem xét kỹ địa hình, phán
đoán Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn là bất lợi, nếu lần sau lại bắc phạt, nhất định sẽ
chọn Trần Thương làm mục tiêu tấn công, bởi thế đặc biệt sắp xếp danh tướng Hác
Chiêu trí dũng song toàn, trung thành với chức phận, trông coi việc cố thủ
thành Trần Thương. Gia Cát Lượng vẫn lấy Ngụy Diên làm tư lệnh tiền quân, dùng
mấy vạn binh lính bao vây Trần Thương. Thành Trần Thương lợi dụng vách núi làm
tường thành mà xây dựng nên, vũ khí đánh thành nói chung với hiệu lực đến như
thế nào, Ngụy Diên mấy lần đánh vào thành không thắng phải rút.
Gia Cát Lượng lấy cứng không được đành phải
dùng mềm. Bởi quân giữ Trần Thương chỉ có 2,3 nghìn người, mà quân lính đánh của
Ngụy Diên có đến 2,3 vạn người. Quân viện binh của Tào Chân từ Tràng An đến, ít
ra phải 20 ngày mới đến nơi được. Gia Cát Lượng bèn phái người bạn đồng hương của
Hác Chiêu là Cận Tường đến khuyên hàng, Hác Chiêu lại đáp rằng: "Tôi chịu ơn nước
và được Tào tướng quân trọng dụng chỉ có chết mà thôi”, dứt khoát cự tuyệt.
Gia Cát Lượng chẳng nài nép được, đành dùng
xe thang mây, mưu toan quyết vượt thành mà lên. Thang mây là loại thang vượt
thành rất dài, bên ngoài có bọc da trâu, da trâu này lại được tẩm dầu, kiên cố
khác thường, đao tên đều không làm gì được.
Thang mây nói chung đặt trên xe xung phong
nên được gọi là xe thang mây, xung phong là chiến xa lớn do ngựa kéo, trước xe
có một cột sắt lớn, là công cụ phá cửa thành.
Đương khi Ngụy Diên lấy thang mây tấn công
mạnh mẽ, Hác Chiêu cũng chẳng phải là cây đèn cạn dầu, ông ta sớm biết thang
mây này gắn với xe trâu, đao tên không thấu, song lại tẩm dầu đốt, cho nên đặc
biệt sợ lửa, thế rồi lệnh cho thuộc hạ từ trên tường thành bắn ra rất nhiêu tên
lửa và lăn xuống những quả cầu lửa, xe thang mây phút chốc bị thiêu hủy rất nhiều.
Hác Chiêu lại chuẩn bị đá buộc thừng từ trên thành quăng xuống, không lâu xe
xung phong hoàn toàn bị phá cả.
Bởi thành Trần Thương rất cao, cung tên nói
chung bắn không tới, Gia Cát Lượng bèn thiết kế những cái giàn cao trăm thước,
để binh sĩ lên đó dùng tên bắn vào quân phòng vệ ở trong thành. Hác Chiêu lệnh
cho binh sĩ náu sau ụ đỡ, chỉ cần quân Thục không đánh gần tường thành thảy đều
không đối kháng, Gia Cát Lượng đã lãng phí vài vạn mũi tên lại chẳng làm gì được.
Gia Cát Lượng lại lệnh cho vừa bắn tên, vừa lấy đất lấp ngòi, chuẩn bị dữ dội
đánh phá tường thành, Hác Chiêu lại lệnh cho trong thành củng cố tường lũy vững
chắc, khiến cho đại quân Thục Hán một chút biện pháp cũng không có. Gia Cát Lượng
lại hạ lệnh từ ngoài thành đào đường hầm vào trong, Hác Chiêu cũng hạ lệnh đào
hào ngang ở trong thành, ngăn cản địa đạo tiến vào bên trong, khiến cho công
trình địa đạo động viên đến vài vạn binh lính, cũng chẳng phát huy được công hiệu
phá thành chút nào.
Trận chiên tấn công và phòng thủ như vậy,
liên tục kéo dài, bởi Hác Chiêu sớm đã tiếp thu lệnh của Tào Chân, vốn có sự
chuẩn bị chu đáo. Bởi thế bất luận Gia Cát Lượng có trí tuệ đến đâu, Ngụy Diên
có dũng khí đến thế nào đều chẳng mảy may làm gì được ông ta.
Trái lại, Gia Cát Lượng lần này từ hành
dinh Hán Trung trực tiếp ra quân ải, tiến đánh Trần Thương, quân đội chưa sắp xếp
lại và bổ sung, bởi thế lương thực chuẩn bị về căn bản là không đủ. Cứ theo
đánh giá Gia Cát Lượng, binh lực phòng thủ Trần Thương không quá vài nghìn người,
nếu như dùng chiến thuật đột kích thì cần dăm ba ngày là có thể phá được. Chỉ cần
chiếm được Trần Thương, sau đó tăng cường phòng thủ phía bắc, rồi sẽ bổ sung
lương thực cũng chẳng xem là muộn. Nếu không việc sắp xếp và bổ sung cho tiền
tuyến gác lại khá lâu, ắt sẽ tiết lộ quân cơ, đến lúc đó sẽ khó phát huy được
công hiệu đột kích bất ngờ.
Chẳng ngờ Tào Chân sớm đã chuẩn bị, lại
thêm Hác Chiêu anh dũng vô cùng, vài vạn quân của Gia Cát Lượng phải tạm thời
bó tay không có cách gì, lại bởi số quân quá đông, lương thực tiêu hao mỗi ngày
rất lớn, mới có khoảng 20 ngày, lương thực khí giới bổ sung trước mắt đã thiếu
thốn nghiêm trọng.
Lại thêm tin tình báo địch hậu cho thấy Tào
Chân đã phái đạo quân Phí Diện, cùng đi với đạo quân của Trương Cáp do Tào Tuấn
trực tiếp chỉ huy sẽ mau chóng đến Trần Thương. Xem xét kỹ tình hình lực lượng
ta và địch, Gia Cát Lượng tạm thời rút quân về Thành Đô. Lúc này đội quân tiên
phong của Phí Diện do Vương Song dẫn đầu đã đến ngoài thành Trần Thương, nghe
nói Gia Cát Lượng rút quân, Vương Song cậy mình dũng mãnh cự tuyệt sự khuyên
can nài nỉ của Hác Chiêu, cứ dẫn quân đuổi theo. Gia Cát Lượng sớm đã hạ lệnh
cho Ngụy Diên chặn hậu, mai phục ở Tán Quan, Vương Song không xem xét kỹ dẫn
toàn quân rơi vào vòng mai phục. Ngụy Diên hô một tiếng, bốn bên mai phục xông
lên, chém chết Vương Song tại trận.
Vương Song là mãnh tướng người Hồ, thân dài
9 thước ta, sức địch vạn người, vẫn là đại tướng tiên phong của Tào Chân rất
tin cậy, chẳng ngờ lại bị chết giữa lúc cơ hồ đã toàn thắng ở chiến trường này.
Chém chết Vương Song, đó là thu hoạch duy
nhất đáng kể trong cuộc bắc phạt lần thứ hai của Gia Cát Lượng.
Song hành động bắc phạt lần này, quy mô
không lớn, ngoài bộ tham mưu Gia Cát Lượng cũng đến tiền tuyến, thực sự động dụng
đội quân mà Ngụy Diên vẫn chỉ huy, khắp quân đoàn chưa có sắp xếp lại, nghiêm
chỉnh mà nói chỉ có thể kể là hành động tiếp tục lần bắc phạt thứ nhất. Bởi thế
không ít nhà sử học không cho rằng đấy là hành động bắc phạt lần thứ hai.
Lời bình của Trần Văn
Trong "Thiên chiến uy” của Úy Lạo Tử, có
nói đến nguyên tắc cơ bản tác chiến cầu thắng, đặc biệt nhấn mạnh đến tính quan
trọng của tinh thần binh sĩ.
"Người khéo dùng binh, chiếm đoạt được người
ta mà không để bị chiếm đoạt, muốn đoạt được then chốt là ở tinh thần vậy. Nói
cách khác, người khéo dùng binh, phải hiểu được tinh thần binh sĩ đánh địch, mà
không bị kẻ địch mài mòn tinh thần binh sĩ của mình, về tinh thần binh sĩ của kẻ
địch, phải khéo vận dụng 5 điều nhận thức sau:
Thu thập tình báo, nghiên cứu phân tích kỹ
lưỡng, để đưa ra chiến lược tốt nhất.
Khi thống soái giao nhiệm vụ tác chiến phải
cụ thể, chẳng thể sơ lược, khiến tâm chí toàn quân có thể tập trung vào một
hành động mà thôi.
Kế hoạch tấn công phải chu đáo, chuẩn bị phải
hoàn chỉnh, chớ mang tâm lý cầu may.
Thi hành phòng ngự, ắt phải nghĩ đến trước,
chưa thể thắng mà đợi địch thì có thể thắng, đại bản doanh chẳng thể để kẻ địch
lợi dụng sơ hở, như vậy kẻ địch mạnh thế nào cũng bó tay chẳng có sách gì.
Vận dụng chiến thuật tại chỗ phải hoạt bát,
thưởng phạt phân minh, lại phải triệt để thực hiện công bằng.
Phải đạt được 5 điều ấy, trước hết hiểu đầy
đủ tình hình kẻ địch, căn cứ vào đấy mà lựa chọn hành động, việc đại sự, quân sự
quốc gia, kế sách phải căn cứ vào sự thực khách quan để phân tích, chẳng có thể
chủ quan phán đoán hoặc dự đoán sai lạc. Chuẩn bị đầy đủ binh sĩ ắt sẽ dũng cảm
chiến đấu, tinh thần binh sĩ ắt sẽ nâng cao. Chuẩn bị nhầm lẫn, tinh thần binh
sĩ ắt sẽ mai một, sẽ khó thoát khỏi vận mệnh thất bại.
Hành động bắc phạt lần thứ hai của Gia Cát
Lượng tuy là lợi dụng lúc chiến bại của Tào Hưu, quân Tào sắp xếp hỗn loạn mà
có hành động đột kích; song về tình báo, hiển nhiên thu thập không đầy đủ hoàn
thiện, dẫn đến sai lầm sách lược tác chiến toàn thể một cách nghiêm trọng, chẳng
những không thể giành được thắng lợi đột kích, hơn nữa sai lầm còn dẫn đến chỗ
nguy hiểm cùng đường. Lại quan sát về phía Tào Ngụy, bởi Tào Chân sớm đã dự liệu
lần sau sẽ có tấn công vào Trần Thương, bởi thế mà khiến Hác Chiêu giữ thành phải
làm việc chuẩn bị chu đáo, khiến cho Gia Cát Lượng có binh lực gấp 10 lần, bị bức
đến chỗ không gặt hái được gì mà phải rút lui.
Đánh máy: hoi_ls
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HOÁ - THÔNG TIN, 2003 (Tái
bản lần II)
Nguồn: Vnthuquan - Thư viện Online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 1 tháng 11 năm 2013