Tam Quốc Diễn Nghĩa » Hồi 17
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
T. Đình Thục Hán
Đại chiến Xích Bích
Quan Vũ
Quan Vũ
Mã Siêu
Hoàng Trung
Chu Du
Mã Tốc
Lưu Bị
Quan Vũ
Trương Phi
Lã Bố
Khương Duy
Bàng Thống
Cam Ninh
Cam Ninh
Chu Du
Chu Du
Đại Kiều
Đặng Ngải
Đặng Ngải
Điển Vi
Điêu Thuyền
Điêu Thuyền
Đổng Trác
Gia Cát Lượng
Gia Cát Lượng
Hạ Hầu Đôn
Hạ Hầu Đôn
Hạ Hầu Uyên
Hoàng Trung
Hoàng Trung
Hứa Chử
Khương Duy
Khương Duy
Lã Bố
Lã Bố
Lã Mông
Lã Mông
Lăng Thống
Lục Tốn
Lục Tốn
Lưu Bị
Lưu Bị
Lưu Tôn
Mã Đại
Mã Siêu
Mã Siêu
Mạnh Hoạch
Ngụy Diên
Pháp Chính
Quách Gia
Quan Bình
Quan Hưng
Quan Vũ
Quan Vũ
Tào Hồng
Tào Nhân
Tào Phi
Tào Tháo
Tào Tháo
Thái Sử Từ
Tiểu Kiều
Tôn Càn
Tôn Kiên
Tôn Quyền
Tôn Quyền
Tôn Sách
Tôn Sách
Tôn Thượng Hương
Tôn Thượng Hương
Triệu Vân
Triệu Vân
Trình Dục
Trương Bào
Trương Cáp
Trương Cáp
Trương Chiêu
Trương Liêu
Trương Liêu
Trương Phi
Trương Phi
Từ Hoảng
Từ Hoảng
Tư Mã Sư
Tư Mã Viêm
Tư Mã Viêm
Tư Mã Ý
Tư Mã Ý
Từ Thứ
Tuân Úc
Tuân Úc
Viên Thiệu
Vu Cấm
Viên Thuật & Lôi Bạc
 
Tam Quốc Diễn Nghĩa
Nguyên tác : La Quán Trung
Dịch giả : Phan Kế Bính
Click here for English version
 
Hồi 17
Viên Công Lộ cất bảy cánh quân;
Tào Mạnh Đức gặp ba ông tướng.
 

Viên Thuật ở Hoài Nam đất rộng lương nhiều, lại có ngọc tỷ của Tôn Sách gửi làm tin, có ý muốn tiếm xưng đế hiệu, hội cả các bầy tôi bàn rằng:

- Xưa Hán Cao Tổ chẳng qua là một người đình trưởng ở Tứ Thượng, thế mà lấy được thiên hạ. Từ bấy giờ đến nay đã bốn trăm năm, khí số đã hết. Trong bốn bể loạn tứ tung như vạc sôi. Mà nhà ta thì bốn đời làm đến tam công, trăm họ ai cũng trông ngóng. Ta muốn ứng vận trời, thuận lòng người, lên ngôi cửu ngũ, các người nghĩ thế nào?

Chủ bạ là Diêm Tượng can rằng:

- Xưa Hậu Tắc nhà Chu, chứa đức chất công; đến đời Văn Vương, thiên hạ chia ba có hai phần, còn phải thờ nhà Ân. Nay minh công gia thế tuy rằng quý, nhưng chưa được thịnh bằng nhà Chu. Nhà Hán tuy rằng suy, nhưng chưa đến nỗi tàn bạo như vua Trụ nhà Ân. Việc ấy quyết không nên làm.


Viên Thuật sai người đi triệu Trương Phạm đến hỏi ý kiến, Trương Phạm cáo bệnh không gặp, sai em là Trương Thừa đến gặp Viên Thuật.


Viên Thuật hỏi Trương Thừa: "Xưa nhà Chu suy vong, rồi đến Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công dựng cơ nghiệp. Nhà Tần bị diệt, nhà Hán lên thay. Nay ra đất rộng, dân đông, binh hùng, tướng mạnh muốn làm thao bọn họ có nên không?”


Trương Thừa đáp: "Muốn xưng đế thì dựa vào đức chứ không chỉ dựa vào đất rộng hay dân đông … Nếu lấy đức thu phục thiên hạ thì mới có thể xưng bá thiên hạ, nếu ngược lại thì sẽ không thể bền lâu.”


Thuật giận nói rằng:

- Ta họ Viên do từ họ Trần mà ra, mà họ Trần vốn là cháu vua Ðại Thuấn ngày xưa; thuộc về hành Thổ, lấy Thổ kế vào Hoả chính ứng vận trời. Vả lại có câu sấm rằng: Thay nhà Hán ấy là chỗ cao ở giữa đường. Tên tự ta là Công Lộ, thế thì chính ứng câu sấm ấy. Lại có ngọc tỷ truyền quốc, nếu ta không làm vua, thì hoá ra trái đạo trời mất. Ý ta đã quyết, ai còn can nữa ta chém.

Lập tức đặt hiệu gọi là Trọng Thị, lập ra các quan, đài, sảnh[1]; cưỡi kiệu long phượng, tế thần Nam Giao, Bắc Giao, lập con gái Phùng Phương làm hoàng hậu, lập con trai làm Ðông cung, rồi sai sứ sang Từ Châu để xin cưới con gái Lã Bố về làm Ðông cung phi.


Nhưng nghe nói Lã Bố đem giải Hàn Dận vào Hứa Ðô và đã bị Tào Tháo chém rồi, Thuận giận lắm, liền cử Trương Huân làm đại tướng quân thống lĩnh đại quân hơn hai mươi vạn, rồi chia làm bảy đạo sang đánh Từ Châu: 1. Trương Huân đi giữa; 2. Thượng tướng Kiều Dị đi bên tả; 3. Trần Kỷ đi bên hữu; 4. Phó tướng Lôi Bạc đi bên tả; 5. Trần Lan đi bên hữu; 6. Hàng tướng Hàn Tiêm đi bên tả; 7. Dương Phụng đi bên hữu. Ðạo nào cũng thống lĩnh tướng đội, chọn ngày cất quân; lại sai thứ sử Duyện Châu Kim Thượng làm thái uý coi vận tiền lương cho bảy đạo quân. Thượng không nghe, Thuận giết Thượng, lấy Kỷ Linh làm đô cứu ứng sứ để tiếp ứng cho bảy đạo quân.



Thuận tự lĩnh ba vạn quân, sai Lý Phong, Lương Cương, Nhạc Tựu làm thôi tiến sứ, để đi lại cứu ứng quân bảy đạo.




Lã Bố sai người đi do thám, biết tin đạo quân Trương Huân đi theo đường cái lớn đến lấy Từ Châu; đạo Kiều Dị thì lấy Tiểu Bái; đạo Trần Kỷ lấy Nghi Ðô; đạo Lôi Bạc thì lấy Lương Gia; đạo Trần Lan thì lấy Kệ Thạch; đạo Hàn Tiêm thì lấy Hạ Phì; đạo Dương Phụng thì lấy Tuấn Sơn. Cả bảy đạo quân mã, mỗi ngày đi được 50 dặm, đi đến đâu cướp phá đến đó.



Bố nghe thám về báo thế, cho đi mời các mưu sĩ lại để bàn.

Trần Cung và cha con Trần Khuê cũng đến cả. Trần Cung nói:

- Cái vạ Từ Châu này chỉ là do cha con Trần Khuê gây ra, nịnh triều đình để cầu tước lộc, mà để vạ lây đến tướng quân. Nay nên đem hai người ấy chém đi, mang đầu sang nộp Viên Thuật, thì lập tức Thuật rút quân về ngay.

Lã Bố lập tức sai người lôi cha con Trần Khuê, Trần Ðăng ra chém, Trần Ðăng cười to lên nói rằng:

- Sao lại hèn thế? Bảy đạo quân Viên Thuật ta coi như cỏ rác mà thôi. Việc gì phải lo cuồng lên như vậy?

Bố truyền khoan chém rồi bảo Trần Ðăng rằng:

- Hễ mày có kế gì phá được giặc thì ta tha cho.

Ðăng nói:

- Nếu tướng quân nghe lời tôi, thì Từ Châu quyết không lo ngại gì cả.

Bố nói:

- Thử nói đi!

Ðăng nói:

- Quân Thuật tuy nhiều nhưng là quân ô hợp, không thân tín nhau. Nếu ta lấy chính binh mà giữ, lấy kì binh mà đánh, tất nhiên thành công. Tôi lại có một kế nữa: không những là giữ vững được Từ Châu lại còn bắt sống được Viên Thuật.

Lã Bố hỏi kế ra làm sao, Ðăng nói:

- Hàn Tiêm, Dương Phụng nguyên là cựu thần nhà Hán; nhân sợ Tào Tháo mà chạy; không có nơi nương tựa cho nên phải theo Viên Thuật. Thuật tất cũng khinh thường họ, mà họ hẳn cũng không vui lòng để cho Thuật sai khiến. Nếu bây giờ ta đưa thư cho hai người ấy, nhử họ làm nội ứng, rồi ta lại nhờ Lưu Bị làm ngoại hợp, chắc là bắt sống được Thuật.

Bố nói:

- Mày phải đem thư cho Dương Phụng, Hàn Tiêm nhé?

Ðăng xin vâng.

Bố liền dâng biểu đến Hứa Ðô, và đưa thư sang Dự Châu cho Lưu Bị, rồi mới sai Trần Ðăng dẫn vài quân kị, sang trước đường Hạ Phì để đón Hàn Tiêm.

Khi Hàn Tiêm dẫn quân đến, lập trại rồi, Ðăng vào yết kiến. Tiêm hỏi:

- Mày là người của Lã Bố lại đây làm gì?

Ðăng nói:

- Ta là công khanh nhà Hán, sao lại gọi là người của Lã Bố? Như tướng quân trước làm tôi nhà Hán, bây giờ lại làm tôi thằng phản tặc, thế là công cứu giá Quan Trung ngày xưa hoá thành công cốc. Tôi trộm nghĩ lấy làm tiếc cho tướng quân. Vả lại tính Viên Thuật là đứa đa nghi, tướng quân theo hắn rồi sau hại tới thân. Nay không sớm liệu đi, sau hối không kịp nữa.

Tiêm than rằng:

- Tôi cũng muốn về với nhà Hán, ngặt vì không có đường về.

Bấy giờ Ðăng mới đưa thư của Lã Bố ra.

Tiêm xem xong nói rằng:

- Tôi xin lĩnh lời Lã Ôn Hầu. Xin ông cứ về trước, để tôi cùng Dương tướng quân sẽ trở giáo đánh lại Viên Thuật. Ông về nói với Lã Ôn Hầu hễ thấy lửa cháy làm hiệu thì đem binh đến tiếp ứng, tất là được.

Ðăng từ giã Tiêm về trình với Lã Bố.

Bố chia quân ra làm năm đạo: Cao Thuận dẫn một đạo tiến lên đến Tiểu Bái để chống với Kiều Dị; Trần Cung dẫn một đạo đến Nghi Ðô để địch với Trần Kỷ; Trương Liêu và Tang Bá dẫn một đạo đến Lương Gia để địch với Lôi Bạc; Tống Hiến, Ngụy Tục dẫn một đạo đến Kế Thạch để địch với Trần Lan; Lã Bố thì tự dẫn một đạo đi ra đường cái lớn để đón Trương Huân.

Mỗi đạo đem đi một vạn quân, còn thừa để lại giữ thành.



Lã Bố ra khỏi thành được ba mươi dặm đóng trại.

Quân Trương Huân kéo đến, liệu chừng địch với Lã Bố không nổi, lùi lại hai mươi dặm đóng đồn để đợi quân bốn đạo tiếp ứng.

Canh hai đêm hôm ấy Hàn Tiêm, Dương Phụng đem quân kéo lại đốt lửa làm hiệu, quân Lã Bố ùa vào trại Trương Huân. Quân Huân cuống cuồng.

Lã Bố thừa thế đánh dấn vào. Huân thua chạy.

Lã Bố đuổi vừa đến sáng, gặp quân Kỷ Linh tiếp ứng cho Trương Huân vừa đến.


Hai bên vừa sắp sửa đánh nhau, thì Hàn Tiêm, Dương Phụng hai đạo cùng đánh xổ đến.

Kỷ Linh cũng thua chạy nốt. Lã Bố đuổi theo đánh.

Bỗng thấy ở mé sau núi có một toán quân kéo ra.

Ở ngoài có một hàng cờ bay phấp phới, trong một đội quân mã, vác những cờ vẽ rồng vẽ phượng, cùng là kiếm vàng búa bạc, mao trắng, việt vàng; ở dưới thì tán tía lọng vàng. Viên Thuật mình mặc áo giáp vàng, nách đeo đôi đao, cưỡi ngựa đứng trước cửa trận, gọi mắng Lã Bố là đứa phản chủ.

Bố giận vác kích xông vào.

Tướng Thuật là Lý Phong, vác giáo ra địch.


Đánh nhau chưa được ba hiệp, bị Lã Bố đâm vào cánh tay.

Phong bỏ giáo chạy. Bố thúc quân vào đánh giết.

Quân Viên Thuật cuống cuồng chạy trốn.

Lã Bố dẫn quân đuổi theo, cướp giật được ngựa và áo giáp vô số.



Viên Thuật dẫn bại quân chạy, mới được vài dặm, sau núi có một toán quân kéo ra, chẹn ngang đường đi.

Một tướng đứng đầu toán quân ấy là Quan Vân Trường, gọi to lên rằng:

- Phản tặc, không chịu chết đi, còn chạy đâu?



Viên Thuật cắm đầu cắm cổ chạy, quân sĩ tán loạn bị Quan Công đánh một trận thật dữ dội.


Viên Thuật thu nhặt được ít tàn quân chạy về Hoài Nam.

Lã Bố thắng trận, mời Quan Công, Hàn Tiêm, Dương Phụng về cả Từ Châu, mở một tiệc yến to ăn mừng. Quân sĩ cùng được khao thưởng cả.




Hôm sau Quan Công từ tạ xin về.

Lã Bố tâu xin cho Hàn Tiêm làm mục ở Nghi Ðô; Dương Phụng làm mục ở Lương Gia.

Lúc Bố muốn lưu hai người lại ở Từ Châu, Trần Khuê nói:

- Hai người ấy không nên để ở Từ Châu. Cứ cho họ sang giữ ở Sơn Ðông thì tôi chắc chỉ trong một năm, bao nhiêu thành quách đất Sơn Ðông đều về tay tướng quân cả.

Bố nghe Khuê, tạm cho hai người ra đóng ở Nghi Ðô, Lương Gia để đợi ân mệnh.

Trần Ðăng thấy vậy mới hỏi cha rằng:

- Sao cha không để hai người ấy ở Từ Châu, làm tay trong cho mình để giết Lã Bố.

Khuê nói:

- Thế ngộ hai người cùng hiệp sức giúp Lã Bố thì có phải hoá ra thêm nanh vuốt cho hổ không?

Ðăng phục cao kiến của cha.

Viên Thuật thua về Hoài Nam, sai người sang Giang Ðông, hỏi Tôn Sách cho mượn quân để báo thù. Sách giận mà nói rằng:

- Ngươi lấy không ngọc tỷ của ta, tiếm xưng đế hiệu, làm phản nhà Hán, xấc láo không biết đạo, ta đang muốn đem quân sang hỏi tội ngươi, đời nào lại đi giúp đứa phản tặc?

Bèn viết thư cự tuyệt Viên Thuật.



Thuật xem thư giận nói rằng:

- Thằng trẻ con miệng còn hơi sữa mà dám xấc à, ta phải đánh trước nó đi mới được.

Trưởng sử là Dương đại tướng ngăn can mãi Thuật mới thôi.

Viên Thiệu được tin Viên Thuật xứng đế lập tức sai người đưa thư nói Viên Thuật không nên làm việc trái ý trời mà hãy gắng sức để đánh Tào Tháo.

Viên Thuật gửi thư trả lời có ý chế nhạo khiến Viên Thiệu vô cùng tức giận muốn khởi binh tiến đánh Viên Thuật.

Mưu sĩ của Viên Thiệu là Điền Phong can: "Nay Tào Tháo thế lực đang mạnh, nếu huynh đệ tương tàn thì sẽ làm suy yếu nhà họ Viên, khi đó sẽ không còn sức lực để chống Tào”. 

Viên Thiệu nghe vậy mới thôi.

Tôn Sách từ khi đưa thư, sợ Viên Thuật đem quân đến, điểm binh giữ cửa sông. Chợt có sứ Tào Tháo đến, đem chiếu chỉ cho Sách làm thái thú ở Cối Kê, và sai khởi binh sang đánh Viên Thuật.

Sách bàn bạc với các tướng, muốn khởi binh, Trưởng sử là Trương Chiêu can rằng:

- Thuật tuy rằng mới thua, nhưng binh nhiều lương đủ, chưa dễ đánh được, không bằng đưa thư cho Tào Tháo, bảo hắn cứ sang đánh trước, rồi ta làm hậu ứng. Hai bên cùng hiệp lại đánh, quân Thuật phải thua, vậy ta chắc được vạn phần, vạn nhất có thua, có Tào Tháo cứu đỡ.

Sách nghe lời, sai sứ giả cứ như thế sang trình với Tào công.

Tào Tháo về đến Hứa Ðô thương nhớ Ðiển Vi lập miếu để thờ, rồi phong cho con Ðiển Vi là Ðiển Mãn làm Trung Lang, đem về phủ nuôi.


Bấy giờ có quân báo Tôn Sách sai sứ giả đem thư đến.

Tháo xem xong thư, lại có người báo rằng:

- Viên Thuật thiếu lương ra cướp ở Trần Lưu.


Tháo muốn thừa cơ sang đánh, sai Tào Nhân giữ lấy Hứa Ðô, còn bao nhiêu tướng sĩ bắt phải đi cả.



Quân mã bộ cả thảy mười bảy vạn người, xe lương hơn một nghìn chiếc, một mặt sai người ra hẹn với Tôn Sách, Lưu Bị, Lã Bố.


Khi quân đi đến địa giới Dự Châu, Lưu Bị dẫn quân ra đón. Tháo sai mời vào trại, Lưu Bị vào dâng hai cái đầu.


Tháo giật mình hỏi:

- Ðầu nào?

Lưu Bị nói:

- Ðây là đầu Dương Phụng, Hàn Tiêm.

Tháo hỏi:

- Sao lại giết hai người ấy?

Lưu Bị thưa:

- Lã Bố sai hai người quyền coi Nghi Ðô, Lương Gia và tâu xin cho được thực thụ chức mục hai nơi ấy. Không ngờ hai người thả quân cho ăn cướp của dân, ai cũng ta thán. Bởi thế tôi có làm một tiệc rượu, mời hai người đến bàn việc. Trong khi uống rượu, tôi ném chén làm hiệu sai Quan, Trương là hai em tôi đem hai người giết đi, bắt hết quân hàng phục. Vì thế nên nay lại thú tội với thừa tướng.






Tháo nói:

- Ông trừ hại cho nhà nước, ấy là công to, sao lại gọi là tội?


Tháo thưởng cho Lưu Bị, rồi hai bên cùng hợp binh lại, đến địa giới Từ Châu.

Lã Bố ra đón.

Tháo lấy lời ngọt ngào dỗ dành Lã Bố, phong cho làm tả tướng quân, hứa rằng: khi nào về Hứa Ðô sẽ đổi ấn khác.


Bố mừng lắm.

Tháo chia quân Lã Bố ở tả, quân Lưu Bị ở hữu, còn mình tự lĩnh đại quân ở giữa; sai Hạ Hầu Ðôn, Vu Cấm làm tiên phong.


Viên Thuật biết quân Tào đã đến nơi, sai Kiều Dị đem năm vạn quân làm tiên phong.


Hai bên gặp nhau ở giáp giới Thọ Xuân.

Kiền Dị tế ngựa ra trước, đánh nhau với Hạ Hầu Ðôn, chưa được ba hiệp, bị Ðôn đâm chết.




Vu Cấm thấy Hạ Hầu Đôn hạ được tướng giặc bèn thúc quân xông lên.


Quân Thuật thua chạy về thành.


Giữa lúc ấy lại có người báo rằng:

- Tôn Sách đem thuyền đánh mặt tây; Lã Bố đem binh đánh mặt đông; ba anh em Lưu, Quan, Trương dẫn binh đánh mặt nam; Tào Tháo thì dẫn mười bảy vạn quân đánh mặt bắc.




Thuật nghe báo vội vàng họp cả văn võ lại để bàn.


Dương đại tướng nói:

- Ðất Thọ Xuân luôn mấy năm nay nước lụt rồi nắng to, dân gian đói khát cực khổ. Nếu bây giờ lại cất quân thì nhiễu dân quá, tất dân oán mình, giặc đến khó lòng mà cự được, không bằng đóng quân ở Thọ Xuân, không đánh nhau với quân địch, đợi quân địch cạn lương tất nhiên sinh biến. Bây giờ bệ hạ hãy nên đem quân ngự lâm qua sông Hoài, trước là sang chỗ lúa chín, sau nữa là hãy tạm lánh thế mạnh của quân địch.


Thuật nghe lời, cho Lý Phong, Nhạc Tựu, Lương Cương và Trần Kỷ, cả thảy bốn tướng với mười vạn quân để giữ Thọ Xuân, còn bao nhiêu tướng giỏi, cùng là vàng bạc châu báu trong kho, thu xếp nhặt nhạnh hết đem qua sông Hoài Nam.



Quân Tào Tháo mười bảy vạn mỗi ngày ăn lương tốn lắm. Các quận lại mất mùa, chuyển vận không kịp. Tháo thúc quân đánh mau.

Lũ Lý Phong cứ đóng chặt cửa thành không ra. Quân Tháo đánh thành hơn một tháng, lương ăn gần hết.


Tháo đưa thư sang vay Tôn Sách được mười vạn hộc lương. Quan coi lương là Vương Hậu thấy ít quá không đủ phát cho quân, vào bẩm với Tháo, hỏi xem nên làm thế nào?

Tháo nói:

- Ðem hộc nhỏ mà phát cho chúng nó, tạm cấp cứu lấy một lúc.

Hậu lại hỏi:

- Thế ngộ quân sĩ kêu ca thì nói thế nào?

Tháo nói:

- Ta đã có cách.


Hậu vâng lệnh, lấy hộc nhỏ đong lương phát cho quân. Tháo trong bụng lo buồn, một đêm xách cây búa, dẫn theo vài tên tùy tùng, nhân lúc trời sáng ra ngoài quan sát.


Đi hết một vòng, chỗ nào cũng thấy quân ta thán rằng: "thừa tướng đánh lừa quân”.


Tháo thấy vậy mật cho người ra đòi Vương Hậu vào bảo rằng:

- Nay ta muốn mượn ngươi một cái, để dẹp yên lòng quân, ngươi đừng nên tiếc.

Hậu hỏi:

- Thừa tướng muốn dùng cái gì?

Tháo nói:

- Ta muốn mượn cái đầu ngươi để dẹp yên lòng quân.


Hậu thất kinh, kêu oan, Tháo lại nói:

- Ta cũng biết ngươi không có tội, nhưng không giết ngươi thì lòng quân sinh biến, sau khi ngươi chết, vợ con ngươi ta nuôi cho, ngươi đừng lo.


Vương Hậu muốn nói nữa, nhưng Tháo đã gọi ngay đao phủ vào lôi Hậu ra ngoài cửa chém rồi bêu đầu lên một cái sào dài, yết thị rằng: "Vương Hậu cố tình làm đấu nhỏ, để ăn cắp lương vua, nay chiếu quân pháp trị tội”. Bởi thế quân sĩ không oán gì nữa.

Hôm sau Tào Tháo hạ lệnh cho các tướng rằng:

- Hạn cho ba ngày, hễ không cố sức phá được thành, các tướng phải chém cả.


Tháo thân đến tận dưới thành, đốc thúc quân sĩ vận chuyển đất đá để lấp hào. Trên thành tên đá bắn xuống như mưa. Có hai tì tướng sợ hãi lui ra, Tháo rút ngay kiếm chém liền ngay ở dưới thành, rồi xuống ngựa để đỡ lấy đất lấp hố.



Bởi thế tướng sĩ lớn nhỏ, ai cũng phải cố lăn vào.


Trên thành chống cự không nổi, quân Tào tranh nhau lên thành, chặt gãy khoá cửa thành, ào ào kéo vào.

Lý Phong, Trần Kỷ, Nhạc Tựu, Lương Cương đều bị bắt sống.


Tháo sai đem cả bốn tướng ra chợ chém, đốt sạch cả đền đài cung miếu, và bao nhiêu những đồ phạm cấm trong thành Thọ Xuân, cho quân cướp lấy sạch.


Tháo bàn muốn tiến binh sang sông Hoài đuổi theo Viên Thuật. Tuân Úc can rằng:

- Mấy năm nay đói kém, lương thực khan thiếu, nếu lại tiến binh thì nhọc quân và hại dân, vị tất đã có lợi, không bằng tạm về Hứa Ðô, đợi sang xuân lúa chín, quân lương đủ dùng, bấy giờ ta sẽ liệu.


Tháo ngầy ngừ chưa quyết, chợt có kị mã đến báo rằng:

- Trương Tú nương nhờ Lưu Biểu, nay lại tung hoành lắm. Các huyện Nam Dương, huyện Giang Lăng lại làm phản, Tào Hồng chống với giặc không nổi, thua luôn mấy trận, nên sai đến cáo cấp.


Tháo đưa ngay thư cho Tôn Sách, sai vượt qua sông bày trận làm nghi binh để Lưu Biểu không dám tiến quân; Tháo thì ngay hôm ấy rút quân về, để bàn việc sang đánh Trương Tú.


Lúc đi, sai Lưu Bị lại về đóng đồn ở Tiểu Bái, cùng Lã Bố kết làm anh em, phải cứu giúp lẫn nhau, không được xâm phạm nhau nữa.


Lã Bố đem quân về Từ Châu, Tháo nói thầm với Lưu Bị rằng:

- Tôi sai ông đóng ở Tiểu Bái cũng là mẹo đào hố sẵn để bắt hổ đó. Ông nên cùng với cha con Trần Khuê bàn bạc, đừng để lầm lỡ điều gì, tôi sẽ làm ngoại viện.

Dặn dò xong rồi từ biệt nhau.

Tào Tháo dẫn quân về Hứa Ðô, có người báo rằng:

- Ðoàn Ổi đã giết được Lý Thôi, Ngũ Tập giết được Quách Dĩ, mang đầu lại dâng. Ổi lại bắt được họ hàng Lý Thôi, già trẻ hơn hai trăm người, giải vào Hứa Ðô đem nộp.


Tháo sai đem chia ra các cửa thành chém bêu đầu; nhân dân ai cũng hả dạ.

Vua lên điện hội tập các triều thần văn võ, mở tiệc yến thái bình ăn mừng, phong cho Ðoàn Ổi là đảng khấu tướng quân; Ngũ Tập làm đảng lỗ tướng quân, đều đem quân ra trấn thủ Trường An.

Hai người tạ ơn rồi trở ra.

Tháo tâu rằng:

- Trương Tú làm loạn, Tháo xin cất quân ra đánh.

Vua thân ngự loan giá tiễn Tháo.


Bấy giờ về tháng tư năm thứ ba niên hiệu Kiến An. Tháo lưu Tuân Úc ở lại Hứa Ðô, sai binh khiển tướng tự thống lĩnh đại quân kéo đi.

Khi quân đi qua một nơi lúa đã chín, dân thấy quân đến chạy trốn không dám ra gặt lúa.


Tháo sai người đi hiểu dụ hết cả phụ lão thôn quê cùng các quan sở tại rằng:

- Ta phụng chiếu vua, đem quân đánh giặc, trừ hại cho dân. Nay đang mùa lúa chín, bắt đắc dĩ phải khởi binh. Quân tướng lớn nhỏ đi qua những ruộng, ai dẫm lên lúa đều bị chém. Quân pháp thực nghiêm, nhân dân không việc gì phải lo sợ cả.


Trăm họ nghe lời hiểu dụ, chỗ nào cũng vui mừng ca tụng, kéo cả ra đường bái vọng.

Quan quân đi qua các ruộng lúa đều phải xuống ngựa, lấy tay đỡ từng bông lúa mạch, lần lượt truyền tay nhau mà đi, không ai dám dẫm bừa.


Tháo cưỡi con ngựa đang đi, bỗng có một con chim gáy ở trong bụi lúa bay vụt ra. Ngựa Tháo giật mình lồng lên, nhảy ngay vào trong đám lúa, xéo nát cả một vùng lúa mạch.


Tháo lập tức gọi hành quân chủ bạ truyền phải luận tội mình xéo lúa.

Chủ bạ nói:

- Sao lại có thể kết tội thừa tướng?


Tháo nói:

- Ta đặt ra phép, ta lại tự phạm, thì sao chúng phục?

Liền rút gươm toan tự vẫn. Các tướng vội vàng ngăn lại.

Quách Gia nói:

- Cứ như nghĩa sách Xuân Thu ngày xưa, thì pháp luật không áp dụng với người tôn quý. Thừa tướng thống lĩnh đại quân, sao lại tự sát?


Tháo dùng dằng một hồi rồi nói rằng:

- Có phải sách Xuân Thu có nghĩa thế, thì ta hãy tạm tha tội cho ta khỏi chết.

Rồi lấy kiếm cắt tóc mình vất xuống đất mà nói rằng:

- Cắt tóc để thay đầu!


Rồi sai người cầm nắm tóc ra, truyền bảo ba quân rằng:

- Thừa tướng xéo phải lúa, đáng lẽ chém đầu làm hiệu lệnh. Nay hãy cắt tóc để thay!

Quân tướng nghe thấy đều rợn tóc gáy, không ai dám sai phép quân.


Ðời sau có thơ rằng:

Mười vạn quân hùng lắm bụng sao?
Một người ra lệnh cấm thế nào?
Thay đầu, cắt tóc, nghiêm quân pháp,
Trí trá Tào Man ấy mới cao!

Trương Tú nghe thấy Tháo dẫn binh đến, đưa ngay thư sang Lưu Biểu, nhờ làm hậu ứng, một mặt cùng với Lôi Tự, Trương Tiên hai tướng, đem quân ra ngoài thành nghênh địch.


Hai trận quây tròn lấy nhau. Trương Tú cưỡi ngựa ra, trỏ vào Tháo mắng rằng:

- Ngươi là đứa giả nhân giả nghĩa, không biết liêm sỉ, sánh với cầm thú không khác gì!

Tháo giận lắm sai Hứa Chử ra.


Tú sai Trương Tiên ra tiếp chiến. Ðánh nhau được ba hiệp, Chử chém Trương Tiên chết.


Quân Tú thua to, Tháo đem quân đuổi đánh đến dưới thành Nam Dương. Tú vào thành đóng cửa không dám ra.

Tháo vây đánh thành, thấy hào rộng nước sâu, khó đến được gần thành, sai quân sĩ đổ đất lấp hào; lại dùng những đẫy vải dựng đất và những củi gỗ cỏ rác, chồng chất lẫn lộn cả ở bên thành, để làm bậc trèo vào; lại làm thang cao để dòm vào trong thành.


Tháo cưỡi ngựa đi diễu chung quanh thành ba hôm để nhìn xem địa thế, rồi truyền quân sĩ chất củi gỗ cỏ rác ở góc cửa tây, hội họp chư tướng, theo góc ấy trèo vào thành.



Giả Hủ ở trong thành, trông thấy quang cảnh như thế bảo với Trương Tú rằng:

- Ta biết ý Tào Tháo rồi, nay nên biến kế hắn thành kế của ta.

Thế thực là:

Ðã khôn gặp phải người khôn nữa;
Hay dối trêu ngay kẻ dối hơn.

Chưa biết kế Giả Hủ ra làm sao, xem đến hồi sau mới rõ.


Hàn Dận & Trương Chiêu & Trương Phạm & Vương Tắc & Dương Đại Tướng



Trần Cung & Trần Đăng


Trương Huân & Trần Khuê


Diêm Tượng & Kiều Dị


Nhạc Tựu & Trần Kỷ

 
Con hươu con hoẵng mà lạm mang cái lốt cọp, thì chỉ làm cái đích cho các tay cung thủ nhắm bắn. Viên Thuật vừa lạm xưng hoàng đế, tức thì thiên hạ cùng nổi lên mà đánh. Tào Tháo sở dĩ còn trù trừ chưa dám làm, vốn không phải vì coi thường ngôi thiên tử, chính là muốn làm vua mà không dám vậy. Huống chi, cái vui thỏa của sự làm vua, chỉ là cái quyền cai quản sai khiến thiên hạ. Thế mà cái thực quyền ấy đã về tay mình, vua chỉ còn cái “danh” mà thôi, thì mình cướp ngôi vua làm gì nữa? Tháo tính toán khôn ngoan lắm. Tháo bỏ cái “danh” mà lấy cái thực. Viên Thuật không có cái “thực” mà lại xướng lên cái “danh”. Tháo khôn mà Thuật dại lắm thay.

Hoặc có người hỏi rằng: Ba vị chúa ba nước Thục, Ngụy, Ngô về sau này cùng xưng Hoàng đế và cũng giữ được ngôi. Chỉ có Viên Thuật xưng đế là không thành, vì sao lại như thế? Xin thưa rằng: Người có thể làm vị Hoàng đế không phải là người xưng ngay đế hiệu từ đầu, mà phải xưng về sau. Muốn làm vị Hoàng đế thống nhất thiên hạ ắt phải đợi bốn bể bình định, bốn phương thần phục, rồi phải có quần thần khuyên nài, mới lên ngôi, có chư hầu suy tôn. Và nhiên hậu còn phải khiêm nhường đôi lần, ba lần… từ chối mãi không được… bấy giờ mới lập đàn tế Nam Giao, đổi chính sóc, tức là nhận ngôi báu. Càng chầm chậm mà được, càng vững bền ngôi báu vậy. Muốn làm Hoàng đế kế thống ở riêng một cõi đi nữa, cũng phải đợi tới khi các nước nhỏ đã bị thôn tính về tay mình. Còn lại một hai nước lớn, nhưng có biên cương vững chắc rành rẽ, không thể tranh giành với mình ở bên ngoài. Bên trong thì nhân dân an cư lạc nghiệp, vui lòng theo mình, bấy giờ mình mới từ tước (chư) hầu lên ngôi Vương, rồi từ Vương lên ngôi Đế. Cứ theo thứ bậc mà lên dần. Rồi đó, có thể chuyền cho con cháu, tức là làm nên cái nghiệp “tái thế bất bại” vậy.

Chứ xem như ở năm Kiến An đầu tiên, Tào Tháo tuy chuyên quyền nhưng Hán Hiến Đế còn tại vị, lại thêm “quần hùng” đang vững chân đứng khắp nơi như Lưu Bị, Tôn Sách, Viên Thiệu, Công Tôn Toản, Lã Bố, Trương Tú, Trương Lỗ, Lưu Chương, Mã Đằng, Hàn Toại… mà chưa người nào dám lạm đoạt danh vị nghi trượng. Như thế, một viên thái thú như Viên Thuật ở Thọ Xuân mà dám tiếm đoạt danh hiệu chí tôn, thì tránh sao cho thoát cái tai họa diệt vong?

Người yêu quân lính mà không yêu dân thì không thể làm tướng được. Người biết yêu tướng mà không yêu dân thì không thể làm vua chúa được. Cho nên ai giỏi điều khiển binh lính, ắt có thể trị được binh mình, và trị luôn được cả binh lính người khác nữa. Như Vu Cấm là một tướng giỏi vậy (biết yêu dân, trị binh mình và trị binh Thanh Châu của Hạ Hầu Đôn). Giỏi khiến tướng ắt có thể trị được các tướng của mình và kiêm trị cả các tướng của người khác nữa. Như Lưu Huyền Đức là vị chúa giỏi vậy. Biết yêu dân, trị được tướng mình và trị được cả Dương Phụng, Hàn Tiêm là hai tướng của Lã Bố. Quân Tào Tháo đi đánh Trương Tú, thì xuống ngựa, lấy tay rẽ lúa mạch mà đi qua, như thế cũng đủ biết Tháo xứng đáng làm tướng. Quân Viên Thuật đi đánh Từ Châu, thì cướp bóc dân chúng mà tiến, như thế đủ rõ Thuật không đủ tư cách làm vua. “Dân là gốc của nước”. Trong quyển này, ý nghĩa ấy đã được nhắc tới ba lần.

Trong thâm tâm, Tháo rất sợ Bị, mà cũng rất sợ Bố, cho nên khi Bị hợp với Bố thì Tháo tìm cách hợp riêng với Bị để chia rẽ hai người. Đến khi họ đã chia rẽ rồi, lại vì lý do chưa thể đánh diệt, mà phải khiến họ tái hợp nhau. Nhưng bề ngoài công khai khuyên hợp, mà bề trong lại ngấm ngầm kết liên với một người, để rồi cuối cùng chia rẽ hẳn. Lúc đầu thì dùng chước “nhị hổ tranh thực” rồi đến mưu “khu hổ thôn lang”, cuối cùng là kế sách “quật khanh đãi hổ”… Luôn luôn Tháo nghĩ tới chuyện phá hoại hai người. Lã Bố không hiểu như thế, nên để cho Tháo thao túng. Lưu Bị tuy biết rõ, nhưng phải tạm thời nghe theo. Và chính Tào Tháo cũng biết rằng: “Lưu Bị tất nhiên phải biết, nhưng phải làm như không biết gì đấy thôi”. Thật là thú vị.

Tào Tháo suốt đời chuyên dùng cái phương pháp “mượn”. Nào “mượn” thiên tử để sai khiến chư hầu; nào mượn chư hầu đánh chư hầu, đến lúc uốn an lòng quân lại mượn thủ cấp người khác, lúc muốn nghiêm quân lệnh thì “tự mượn” ngay búi tóc của mình. Cái “mưu mượn” càng kỳ, cái “thuật mưu” lại càng ảo. Tháo quả là tay “thiên cổ đệ nhất gian hùng” vậy.
CHÚ THÍCH
1.Cũng như các bộ thượng thư.
 
Hồi 16
Đầu trang
Hồi 18
 
BÌNH LUẬN BÀI NÀY
 
  Tên người bình luận ( * )
  Email
  Tiêu đề bình luận ( * )
Nội dung bình luận chi tiết ( * )    
 
 
Gửi đi
 
Soạn lại