Trong
cuộc sống có khoái lạc, cũng có đau thương, bất tất phải cố ý tu sức cho bản
thân mình. Chỉ cần dùng chân tâm, chân tính, chân cảm của bản thân thì có thể
đối diện với cuộc sống, lớn tiếng mà khóc, lớn tiếng mà cười. Dùng cái chân tình
biểu hiện cho chính mình, ấy mới có thể xem như là một con người…
Đối
lập với cái gian hùng của Tào Tháo là cái "kiêu hùng” của Lưu Bị, cũng có cách
xử lý mà không người nào làm được, ông ta dùng nước mắt để tranh thiên hạ. Lưu
Bị thích khóc đến nổi tiếng.
Lưu
Bị dưới sự trợ giúp của Từ Nguyên Trực, đóng quân Tân Dã, chiêu binh mãi mã,
tích trữ lương thảo, khí tượng ngày một thịnh. Nhưng Tào Tháo đã bắt chước bút
tích của Từ Mẫu đưa cho Nguyên Trực, khiến cho ông ta phải rời bỏ Lưu Bị. Lưu Bị
khóc rằng: "Nguyên Trực đi rồi, ta sẽ không biết làm thế nào?”, rồi ngưng nước
mắt mà ngóng theo. Từ Thứ vì điều này mà tâm tư nhiễu loạn, nước mắt lưng tròng,
khi sang phía Tào Tháo từ đầu chí cuối không đưa ra một kế sách
nào.
Lưu
Bị ba lần đến lều cỏ, gặp phải lời từ chối khéo của Khổng Minh, khóc rằng: "Tiên
sinh không xuất sơn, thiên hạ sẽ sống như thế nào?”. Lưu Bị nói đi nói lại, càng
động đến tâm sự sâu kín, tâm tư trăm mối, lúc đó "nước mắt thấm ra tay áo, làm
ướt hết cả vạt áo”.
Khi
Lỗ Túc Đông Ngô đòi Kinh Châu, Lưu Bị lại khóc, dày vò những thủ hạ của Lỗ Túc
không biết xử trí thế nào, cuối cùng không hoàn thành được nhiệm
vụ.
Khi
tin Quan Vũ bị sát hại truyền tới, Lưu Bị "thét lên một tiếng lớn, hôn mê ngã
vật xuống đất”, lệ thấm ướt vạt áo, ba ngày không ăn. Biểu hiện huynh đệ tình
thâm.
Lưu
Bị từ đầu chí cuối đều dùng nước mắt để cảm động văn thần võ tướng, khóc để
giành được một địa bàn lập nghiệp rồi cũng dùng khóc để có được vị trí vua đất
Thục.
Là
thủ hạ của một vị quân vương khóc rất nhiều, việc khóc của Gia Cát Lượng cũng
rất có bản lĩnh. Chí ít việc khóc của ông ta cũng có thể cùng Lưu Bị tạo nên
công trạng. Nhưng Lưu bị dù nói gì đi nữa, cũng có một chút vì quốc gia mà khóc.
Còn việc khóc của Gia Cát Lượng cũng chỉ là kiểu mèo khóc chuột, mượn sự thương
xót để giải hiềm nghi mà thôi.
Gia
Cát Lượng đầu tiên là khóc Chu Du. Năm 36 tuổi, vị đô đốc thủy quân của Đông Ngô
Chu Du đã bất hạnh tiêu vong, Gia Cát Lượng mang theo Triệu Tử Long và một số
người khác nữa đến phúng viếng. Chỉ thấy Khổng Minh tới trước linh sàng Chu Du,
bày lễ vật, tự rót rượu, đổ xuống đất rồi khóc lớn, vừa khóc vừa thuật lại Chu
Du sinh thời anh hùng, văn tài võ lược, rộng lượng chí cao như thế nào, rồi giúp
Tôn Quyền cát cứ Giang Đông, xây dựng sự nghiệp ra sao. Ông ta cực lực ca ngợi
tấm lòng trung nghĩa, khí chất anh hùng của Chu Du. Đứng trước quan tài của Chu
Du, ông đau đớn nói: "Hỡi ôi Công Cẩn, sinh tử vĩnh biệt!”. "Hồn phách có linh,
xin chứng giám cho tấm lòng của tôi: từ đây trong thiên hạ, sẽ không tìm thấy
đâu kẻ tri âm! Than ôi đau đớn thay!”. Ông ta nước mắt như suối, bi thương khóc
lóc không dừng, thực là cảm động lòng người. Những người có mặt trong buổi hôm
đó không ai là không bị nước mắt của ông ta làm cho cảm động, các tướng lĩnh
không có ai không bị tình cảm của ông ta cảm hóa.
Gia
Cát Lượng giống như đám tang mẹ, khóc lóc kêu gào. Các tướng lĩnh Đông Ngô đều
bị tung hỏa mù. Họ nghĩ không ra rằng vì sao Chu Du chết. Không phải là người
trước mắt họ, nói lời mà không giữ, chua ngoa cay nghiệt thì Chu Du đâu đã chết
nhanh như vậy. Giờ đến đám tang khóc viếng, phân minh là không ai ăn hiếp Giang
Đông cả, có ý muốn hạ thấp Chu Du, trình hiện trước thế nhân một giả tượng rằng:
không phải là tôi, Gia Cát Lượng, thế này thế nọ mà là ông, Chu Du, nhỏ nhen,
việc ông tức khí mà chết hoàn toàn không liên quan tới tôi. Ông xem ông chết mà
tôi vẫn còn tới khóc viếng ông, ông phải nói tôi thật rộng lượng mới đúng! Đối
với một người đã chết mà ông ta vẫn không từ bỏ, lòng dạ Gia Cát Lượng quả thật
còn hơn lang sói.
Nghe
nói loài cá khi ăn thực vật, có một loài có biểu hiện rất giống con người: chảy
nước mắt. Loài cá quả thực là có biết chảy nước mắt, chỉ là chúng hoàn toàn khóc
không phải vì thương tâm mà là do lượng muối dư thừa trong cơ thể nó bài tiết
ra. Chức năng bài tiết của thận cá không được hoàn thiện như, trong cơ thể dư
thừa quá nhiều muối, cần phải dựa vào một tuyến muối đặc thù để bài tiết. Tuyến
muối trong cơ thể loài cá nằm rất gần vùng mắt của cá. Tuyến muối này có thể
giúp loài cá tiêu giảm bớt lượng muối trong nước biển, từ đó mà nước biển nhạt
đi. Vì thế, tuyến muối là dụng cụ làm nhạt nước biển của thiên
nhiên.
Nước
mắt của loài cá này hoàn toàn không phải là do tình cảm mà là một loại giả từ
bi, giả thương tâm, giả cảm thông. Loại nước mắt này chỉ là một tuyến ở vùng phụ
cận của mắt làm ra một trò đùa quái đản, chỉ cần khi cá ăn, loại tuyến phụ sinh
bài tiết ra một loại dung dịch muối của tự nhiên. Trong cuộc sống loại ngụy quân
tử giả từ bi này thật đáng mỉa mai!
Tiếng
khóc "ghi dấu kinh điển” của Gia Cát Lượng chính là lần khóc chém Mã Tốc. Gia
Cát Lượng ra Kì Sơn bắc phạt, ban đầu giành thắng lợi, giành được ba quận vùng
Lũng Tây, thanh thế làm chấn động Ngụy quân. Đột nhiên có tin báo, Tư Mã Ý xuất
quan, hành quân cấp tốc. Gia Cát Lượng liệu định chắc rằng Tư Mã Ý sẽ lấy Nhai
Đình, chặn yết hầu của quân Thục. Vì thế muốn phái một thượng tướng danh tiếng
đến trấn thủ ở Nhai Đình, không ngờ Mã Tốc muốn được nhận nhiệm vụ, cam kết "nếu
như thất bại, chém đầu cả nhà”. Mã Tốc vốn là một thư sinh, bàn việc binh trên
giấy còn khả dĩ, không hề có một chút kinh nghiệm thực chiến. Chỉ vì ông ta có
sự giao hảo riêng với Gia Cát Lượng, lại là một nhân vật thuộc phái Kinh Tương.
Chỉ vì cho ông ta một cơ hội kiến công lập nghiệp, Gia Cát Lượng đã không nghe
lời mọi người mà đề bạt Mã Tốc. Kết quả, Mã Tốc sau khi tới Nhai Đình đã chống
lệnh, không nghe lời can gián, lập trại ở trên núi, cuối cùng đã bị Tư Mã Ý
trước chặn đường thủy, lại phóng hỏa đốt núi, tuy Thục quân mấy lần cứu viện
nhưng rốt cục Nhai Đình vẫn mất.
Sau
khi Nhai Đình thất thủ, Gia Cát Lượng phải sửa chữa cục diện thất bại của mình,
thân là chủ tướng ông ta không thể đổ thừa trách nhiệm cho ai. Nhưng là một để
bảo toàn danh dự cho bản thân, nên đã đem toàn bộ sai lầm trong cuộc chiến đó
đẩy hết cho Mã Tốc, luôn miệng nói là thất bại Nhai Đình là một sự kiện trọng
đại trong chiến tranh. Mẫ Tốc không cách gì đã trở thành vật hy sinh của ông ta.
Gia Cát Lượng chém khi chém Mã Tốc có ba lần ông ta chảy nước mắt như loài
cá.
Lần
khóc thứ nhất là trách mắng sai lầm của Mã Tốc. Nói Nhai Đình là gốc của quân
Thục, ngươi đã lấy sinh mạng cả gia đình để lĩnh trách nhiệm nặng nề đó, nay mất
đất mất thành, tất sẽ bị xử chém. Lúc đó Mã Tốc cầu xin rằng sau khi giết chết
ông ta có thể ban ân tha chết cho con ông ta, Gia Cát Lượng bị lời khẩn cầu của
một người sắp chết làm cho cảm động, ông ta lập tức đáp ứng thỉnh cầu, đổng thời
chảy nước mắt nói: "Ta và Nhữ Nghĩa (tên tự của Mã Tốc) là huynh đệ, con của ông
cũng chính là con của ta, không cần dặn dò quá nhiều”. Ý là muốn Mã Tốc yên tâm
mà đi.
Mã
Tốc vốn có giao hảo với Gia Cát Lượng, nay vì lợi ích của bản thân, ông ta không
thể không giết Mã Tốc. Giờ đối diện với đề xuất cuối cùng của một người cha cho
con mình, lương tâm của ông ta cũng không hoàn toàn mất
đi.
Lần
thứ hai khóc là lần can gián của Tưởng Uyển. Trong cách nhìn của Tưởng Uyển:
"Nay thiên hạ chưa định, mà giết người mưu trí, chẳng đáng tiếc lắm hay sao?”.
Khổng Minh cũng biết rằng Mã Tốc cũng có chỗ khả dụng. Trước đây Mã Tốc đã vì
Khổng Minh hiến kế hai lần và cả hai lần đều giành được thắng lợi lớn: Lần thứ
nhất là bảy lần bắt Mạnh Hoạch, ông ta kiến nghị lấy công tâm làm đầu. Một lần
khác là lợi dụng kế phản gián, gây xích mích trong quan hệ giữa Tào Duệ và Tư Mã
Ý, kết quả là Tư Mã Ý bị biếm về quê. Gia Cát Lượng không phải không biết tài
năng của Mã Tốc Mã Tốc không chết nhất định trở thành cánh tay đắc lực của ông
ta, nhất định có thể giúp ông ta đối phó với một số người như Lý Nghiêm,… Nhưng
ngày hôm nay nếu như không chết, rất có thể địa vị của ông ta trong tập đoàn
Kinh Tương sẽ bị lung lay. Giết chết Mã Tốc cũng giống như chặt đứt một cánh tay
của ông ta. Lúc đó nội tâm của ông ta cực kì phức tạp mâu thuẫn, làm sao ông ta
không thương tâm cho được?
Lần
thứ ba là sau khi nhìn thấy thủ cấp của Mã Tốc, Không Minh lại không nén nổi sự
đau đớn nội tâm, khóc lớn không thôi. Lúc này Tưởng Uyển vẫn ngoan cường hỏi:
"Nay kẻ ấu trĩ thường mắc tội, đã xử theo quân pháp, thừa tướng hà cớ gì phải
khóc?”. Đây là lần đâu tiên Khổng Minh nghĩ tới thất bại do việc mình dùng người
không đúng gây ra, và lại sai lầm này là không thể thông cảm được. Gia Cát Luợng
từ sau khi Lưu Bị chết, gạt bỏ sự độc chiếm quyền bính của Lý Nghiêm,
….
Gia
Cát Lượng khóc Chu Du, khóc Mã Tốc là giả nhân nghĩa lấy lòng người, vừa ăn cướp
vừa la làng. Là một kẻ đầy mưu mẹo trên chính trường, ông ta rất giỏi vận dụng
những biểu tượng để ngụy trang cho chính mình. Tào Tháo ba lần cười cũng có ba
lần khóc. Ông ta khóc lần thứ nhất là khóc toàn gia đình mình bị Đào Khiêm giết
chết, ai không thương cha thương mẹ, Tào Tháo khóc, có thể nói là khóc một cách
thực tâm. Lần thứ hai khóc là khóc Điển Vi. Năm đó, Tào Tháo dẫn quân thảo phạt
Trương Tú, bị trúng kế của Trương Tú, thân bị bao vây. Điển Vi sau khi mơ thấy
cảnh đó, tỉnh dậy đã "ra sức hướng về hành quân”, đến chết cũng không lui, máu
chảy đầy đất mà chết nhờ thế mà Tào Tháo thoát hiểm. Tào Tháo sau khi chỉnh đốn
quân đội, đánh lui Trương Tú, lập tức làm lễ tế Điển Vi, tự thân mình khóc tế
ông ta. Hai năm sau, Tào Tháo lại dẫn quân tới Uyển Thành tấn công Trương Tú,
Tào Tháo đột nhiên khóc lớn, còn nói, ta từng đau đớn mất con trưởng, cháu yêu,
nhưng ta chỉ khóc đại tướng Điển Vi của ta. Đây cũng là lần Tào Tháo khóc để lấy
lòng người. Lần thứ ba khóc là khóc Quách Gia sau thất bại trong trận Xích Bích,
"Nếu có Phụng Hiếu ở đây, ta đã không cô độc đến thế này”. Lần khóc này là để
che đậy cho sai lầm của bản thân mình cũng là trách mắng bọn mưu sĩ vô năng,
đương nhiên ông ta không quên rẳng Tuân Húc từng nhắc nhở ông ta về kế trá hàng,
kế liên hoàn của Đông Ngô và cả chuyện gió Đông nữa nhưng là do Tào Tháo không
nghe. Lần khóc này là sự che đây ngụy trang cho sai lầm của bản thân ông ta mà
cũng là bộc lộ sự gian xảo giả dối của ông ta.
Tập
Tạp Xỉ bình Gia Cát Lượng nói: "Vì thiên hạ chủ trì đại cục, muốn đại thu lực
vật mà không lượng tài năng mà nhậm trọng trách, theo tài phó nghiệp; biết đó là
một lỗi nặng, không tuân sự nhắc nhở của minh chủ, giết người hữu ích, thật khó
mà gọi là người có trí được vậy”. Tập Tạp Xỉ cho rằng Gia Cát Lượng không đủ để
gọi là người có trí nhưng ông ta không nhìn thấy rằng tuy Gia Cát Lượng tuy
không phải là người có trí nhưng mà ông ta là bậc có mưu. Chỉ nhìn mấy lần ông
ta dùng nước mắt để tạo ra cái thanh danh hiền thần hiếu tử cũng có thể thấy là
đã đạt tới đỉnh cao của kẻ giết người không dao.
Trên
thế giới vốn không có hận thù vô duyên vô cớ, cũng không có tình yêu vô duyên vô
cớ. Là một con người có thất tình lục dục, phải sống trên trên cõi hồng trần tục
thế, không cách nào thoát khỏi những hỷ nộ ai lạc do cuộc sống mang lại. Trong
cuộc sống có khoái lạc, cũng có đau thương, bất tất phải cố ý tu sức cho bản
thân mình chỉ cần dùng chân tâm, chân tính, chân cảm của bản thân thì có thể đối
diện với cuộc sống, lớn tiếng mà khóc, lớn tiếng mà cười. Dùng cái chân tình
biểu hiện cho chính mình, ấy mới có thể xem như là một con người.