Rõ
ràng, Tào Tháo thông minh hơn nhiều.
Không
phải Tào Tháo không có thực lực, điều kiện để làm hoàng đế. Nếu như nói, chí
hướng ban đầu của Tào Tháo chỉ là làm một năng thần, hoặc là sau khi qua đời, có
được dòng chữ trên bia mộ: "Mộ của cố Chinh tây tướng quân Tào hầu”, vậy thì,
sau này Tào Tháo lại tự giác hay vô giác đi vào con đường thẳng tới ngôi vị đế
vương, cuối cùng chỉ còn cách đó một bước. Năm 196, Tào Tháo ép Hiến đế (một
cách khách khí) phải dời đô về huyện Hứa, đổi hiệu thành Kiến An, bắt đầu trở
thành nhân vật quyền thế nhất trong triều. Năm 208, phế bỏ tam công, Tào Tháo là
thừa tướng, nắm trọn đại quyền. Năm 213, Hiến đế xuống chiếu, đem mười quận Hà
Đông sách phong Tào Tháo là Nguỵ công, ban thêm cửu tích(1). Tháng bảy cùng năm,
Tào Tháo cho lập tông miếu xã tắc của Nguỵ quốc ở Nghiệp thành; tháng mười một,
Nguỵ quốc thiết lập thượng thư, thị trung và lục khanh, thực tế Tào Tháo đã trở
thành vua của một công quốc. Năm 214, Tào Tháo bắt đầu hưởng thụ đãi ngộ của
tước vương. Năm 215, Hiến đế cho Tào Tháo quyền phân phong chư hầu, nắm quyền
lực thái thú và quốc tướng. Năm 216, Hiến đế tiến phong Tào Tháo là Nguỵ vương,
thừa tướng Nguỵ quốc đổi là tướng quốc, tập tinh kỳ của thiên tử, ra vào xưng
cảnh tất(2). Về sau Tháo còn được hưởng những nghi lễ dành riêng cho thiên tử,
như mũ có mười hai chuỗi ngọc. Đến đây, Tào Tháo không chỉ nắm trọn chính quyền
nhà Hán, mà về hình thức đã giống như thiên tử nhà Hán, khác chăng chỉ là danh
hiệu hoàng đế.
Nhưng
Tào Tháo lại không cần.
Phải
chăng Tào Tháo không muốn? Không. Liệu có ai không hiểu làm hoàng đế là tốt, có
ai không muốn làm hoàng đế? Thời đó, đúng như lời Vương Xán nói với Lưu Tông
"nhà nhà muốn là đế vương, người người muốn là công hầu”. Tào Tháo chưa có điều
kiện chăng? Cũng không phải. Miền bắc Trung Quốc về cơ bản đã thống nhất, Hán
thiên tử đã chẳng còn gì, trong ngoài, trên dưới triều đình đều là người của Tào
Tháo, quân lính của Tào Tháo chỉ còn chờ Tào Tháo ra
lệnh.
Tào
Tháo bỏ không làm hoàng đế, tất nhiên, đó là mưu sâu chí xa của Tào Tháo và đồng
thời cũng là nỗi khổ tâm của Tào Tháo. Thì ra, Tào Tháo đã dựa vào cái gọi là
"hưng nghĩa binh, trừ bạo loạn, phò tá thiên tử, vương thất”. Bắt đầu khởi binh
từ năm 189, đánh Đổng Trác, Viên Thuật, giết Lã Bố, dụ hàng Trương Tú, đánh Viên
Thiệu, bình Ô Hoàn, diệt Lưu Biểu, đuổi Tôn Quyền, định Quan Trung, đánh Lưu Bị,
luôn với danh nghĩa tôn Hán, giương cao ngọn cờ đánh đuổi nghịch tặc. Sau khi để
Hiến đế dời đô, còn là "phụng thiên tử lệnh kê không thần
phục”.
Đó
là vốn liếng chính trị của Tào Tháo và cũng là gánh nặng về chính trị của Tào
Tháo. Tào Tháo còn phải gánh tiếp phần gánh nặng đó. Vứt bỏ gánh nặng đó cũng
đồng thời là vứt bỏ ngọn cờ của mình. Không còn ngọn cờ đó, Tào Tháo sẽ dựa vào
cái gì để hiệu triệu thiên hạ, thu phục lòng dân?
Đúng
vậy, trong đấu tranh chính trị, ngọn cờ là quan trọng nhất. Viên Thuật mất cờ,
thân bại danh liệt; Viên Thiệu giương cờ không cao, nhà tan người mất; Tôn Sách,
Lã Bố, Lưu Biểu không cờ hiệu, cũng chẳng làm nên trò trống gì; Lưu Bị dựa vào
danh nghĩa là hoàng thúc, giương cao cờ, để từ không thành có, từ yếu thành
mạnh. Những bài học kinh nghiệm trước mắt, Tào Tháo không thể không
biết.
Vì
thế, Tào Tháo đã nhiều lần bộc bạch với người thiên hạ: Tào mỗ tuyệt không cướp
ngôi nhà Hán! Nhiều nhất là muốn làm Tề Hoàn công, Tấn Văn Công hoặc Chu công.
Thành vương lúc nhỏ, nếu không có Chu công, há chẳng bị Quản Thúc, Sái Thúc
thoán vị rồi sao? Như hiện nay, nếu không có Tào mỗ, thì không rõ "đã mấy người
xưng đế, mấy người xưng vương”? Đó là sự thực và rất phiền hà. Vì việc không cho
người khác làm, thì chính mình cũng không nên làm hoặc ít ra cũng đừng làm một
cách trắng trợn. Luôn đi "bắt giặc” lại thành giặc, chẳng phải là giặc lại hô
hào bắt giặc hay sao? Việc giặc hô hào bắt giặc, không phải Tào Tháo chưa từng
làm, nhưng việc cướp nước không giống như việc cướp dâu, không thể không nói tới
sách lược chính trị.
Hơn
nữa, trong thâm tâm Tào Tháo cũng đã rõ, Lưu Bị, Tôn Quyền và mấy người trong
triều đều không chịu an phận. Trong số họ có người muốn làm hoàng đế, có người
muốn làm công thần, có người muốn mượn gió lật thuyền, nhờ nước đục thả câu, chỉ
là họ không nói ra, không nói ra được, họ âm thầm lặng lẽ, chờ xem Tào Tháo làm
như thế nào. Đương nhiên, cũng có những người gọi là chính nhân quân tử thực
lòng thực bụng bảo vệ Hán thất. Họ luôn cảnh giác, chú ý mọi cử chỉ, lời nói
việc làm của Tào Tháo. Nếu có gì sai, họ liền hợp lại để công kích. Nếu hậu viện
bốc lửa thì cánh Lưu Bị, Tồn Quyền sẽ mừng rỡ, để rồi lửa đổ thêm dầu, thừa cơ
làm loạn, bắt tay với phái phản đối trong triều, tìm cách chống trả. Nếu như
vậy, thì thời cục sẽ rối ren, những thành quả thắng lợi sắp đến tay, bỗng dưng
sẽ mất sạch.
Tào
Tháo biết quá rõ lợi và hại. Tốt thôi, các người không nói, ta cũng không nói.
Các người vờ vĩnh, ta cũng vờ vĩnh. Tới lúc đó, xem ai là người không nhịn được?
Đấu tranh chính trị là một nghệ thuật, chỉn chu nhất sẽ là dưa chín cuống rụng,
cái gì đến rồi sẽ đến. Nếu khinh suất manh động quá sớm là hành động mù quáng,
bị dẫn dụ mà không lộ tài mới là cao thủ. Tào Tháo là cao thủ, biết kìm nén nhẫn
nhịn.
Vì
vậy, lúc Tôn Quyền dâng biểu xưng thần, thuộc hạ hết lời khuyên can, Tào Tháo
mưu sâu chí xa, chỉ nói một câu thật thâm thuý: "Khổng Từ từng nói, chỉ cần có
ảnh hưởng tới chính trị là đã tham chính, việc gì còn phải làm tới chức này chức
nọ? Nếu thiên mệnh trao cho ta, ta làm Chu Văn vương là được
rồi!”.
Lời
nói đầy tính sách lược, rất sinh động, đầy đủ ý tứ. Nó nói rõ, bản thân Tào Tháo
không có ý tiếm ngôi, nhưng cũng không loại trừ khả năng, con cháu sau này có
thể thay triều đổi đại. Còn như bọn Tào Phi có làm điều đó không, còn phải xem
thiên mệnh và khả năng của chúng. Làm được, ta là thái tổ, làm không xong, ta là
trung thần. Tào Tháo tính toán thật tuyệt.
Huống
hồ Tào Tháo còn là người thực dụng. Tào Tháo có câu danh ngôn: "Đừng mộ hư danh
mà chuốc lấy hoạ thực”. Chỉ cần bản thân có đầy đủ mọi thứ của thiên tử, còn cái
hư danh gây tranh chấp rắc rối kia thì thiết gì!
Sách
lược của Tào Tháo là chơi con bài hoàng đế.
Hoàng
đế là con bài hay, vừa hư vừa thực. Nói là hư vì lúc này hoàng đế, đừng nói tới
"cương nghị độc đoán” mà ngay cả bản thân cũng mất tự do, luôn phải nghe theo
người khác, khác gì con rối? Vì vậy, hoàng đế là con bài có thể nắm trong tay.
Nói là thực, vì không ai dám nói nó là giả, là không cần, mặc dù biết nó là giả,
là thứ đồ trang trí, giống như truyện cổ tích, không ai dám bảo hoàng thượng cơi
truồng. Mỗi khi hoàng đế ra chỉ thị, có hiệu lệnh, mọi người đều làm ra vẻ phục
tùng (có một sô việc đã được làm) không dám ra mặt phản đối. Vậy, đó là quân bài
có tác dụng, hơn nữa còn là vương bài.
Tào
Tháo vốn chưa đủ tư cách để chơi con bài này. Người có tư cách nhất là Viên
Thiệu.
Viên
Thiệu là tứ thế tam công, có địa vị chính trị quân đông đất rộng, có sức mạnh
quân sự. Nếu Viên Thiệu muốn nghênh đón thiên tử, người khác đành phải nhường.
Hơn nữa, Thư Thụ - mưu sĩ của Viên Thiệu cũng thường xuyên nhắc nhở điều này.
Nhưng tiếc là Viên Thiệu tầm nhìn hạn hẹp, chí lớn tài mọn. Các mưu sĩ khác bên
cạnh cũng đều là hư danh, nhìn không ra. Theo quan điểm của những kẻ thiển cận
đó, vương triều nhà Hán trải bao giống tố bão bùng, khí số đã hết, vậy khôi phục
Hán thất liệu còn có ý nghĩa gì? Đã không tính tới chuyện cứu thời độ thế, chỉ
cần nắm quyền qua chiến tranh chết chóc, thì việc nghênh đón hoàng đế là không
cần thiết. Để thứ bảo bối đó ở bên mình, để ngày ngày phải xin chỉ thị, việc
việc phải bẩm báo, thì phiền phức quá. Nghe lời hoàng đế, thì mình chẳng có vai
trò gì, không nghe lời thì lại trái lệnh, biết theo ngả nào? Còn Viên Thiệu thì
sao, cứ nghĩ đến việc Đổng Trác đã lập Hiến đế, lại thấy hận thấy ghét, nên đã
xoá bỏ ý nghĩ nghênh đón Hiến đế.
Thực
ra, đó là ý nghĩ thiển cận của đám ếch dưới đáy giếng. Nên nhớ, dù đó là ý kiến
của Mao Giới với Tào Tháo "phụng thiên tử lệnh những kẻ chưa thần phục”, dù là ý
kiến của Thư Thụ với Viên Thiệu "ép thiên tử lệnh chư hầu”, đều không thực lòng
muốn khôi phục Hán thất đã mục rỗng, mà chỉ là muốn biến Hiến đế thành lá bài để
sử dụng, chỉ cần lá bài này là vương bài, thì cần gì phải biết nó từ đâu tới?
Trời trên cao, hoàng đế ở xa, nhưng vị hoàng đế kia nếu là con rơi, thì ở gần
một chút chẳng phải dễ thao túng, khống chế sao? Thỉnh thị hội báo, khấu đầu
hành lễ, đương nhiên là cần. Người có chút đầu óc sẽ hiểu, chỉ cần qua loa một
vài nghi thức thì nhất định Hiến đế sẽ phê chuẩn cho bằng hết. Lúc đó Hiến đế
mới mười sáu tuổi, hãy còn là trẻ con. Lúc đầu nằm trong tay Đổng Trác, về sau
lại do Vương Doãn và những người khác thao túng, chưa bao giờ cầm quyền thực sự.
Lý Quyết, Quách Tỵ giao tranh, hai quân đang đối đầu trong thành Tràng An, Hiến
đế phái người đến giảng hoà, nhưng không ai theo. Đường đường là một đấng thiên
tử, chưa nói đến hiệu lệnh thiên hạ, chỉ làm người hoà giải cũng không thành.
Một vị hoàng đế đáng thương như vậy, nếu đến chỗ Viên Thiệu, sẽ làm thiên tử thế
nào đây, để được sống tiếp cùng Viên đại nhân? Viên Thiệu cho rằng mình ở xa
hoàng đế được tự do, muốn nghĩ gì thì nghĩ, muốn làm gì thì làm. Cách tư duy của
Viên Thiệu chẳng khác mấy với bọn "cường nhân” là thảo khấu chiếm núi xưng
vương. Khác hẳn với các bậc anh hùng hào kiệt có chí lo cho thiên
hạ.
Không
thể để mất cơ hội, vì thời cơ sẽ không quay lại. Viên Thiệu còn do dự thì Tào
Tháo đã nẫng tay trên. Tào Tháo có Mao Giới bầy mưu tính kế, lại có Tào Chiêu
cùng những người khác dựng giàn bắc giáo, nhanh chóng có được con bài hoàng đế
trong tay. Lần này đến lượt Viên Thiệu trố mắt ra nhìn: Tào Tháo sau khi nghênh
đón Hiến đế dời đô về Hứa Xương, không chỉ không mất gì, không bị khống chế,
ngược lại, còn thu được không ít lợi lộc. Tào Tháo được cả một vùng đất rộng lớn
về phía nam sông Hoàng Hà, dân chúng vùng Quan Trung lũ lượt theo về. Quan trọng
nhất là, Tào Tháo có được nguồn vốn chính trị to lớn, không chỉ là anh hùng phục
dựng lại Hán thất, có được vị trí "dưới một người trên vạn người”, mà còn làm
cho mọi phái phản đối ở vào vị trí bất lợi, bất nhân bất nghĩa. Từ đó bất kể là
làm gì, sai khiến quan lại, mở rộng địa bàn, hay là đánh phá những kẻ khác ý,
dẹp bỏ kẻ thù chính trị, Tào Tháo đều có thể mượn danh nghĩa của hoàng đế, dù có
bất nghĩa cũng trở thành chính nghĩa. Còn bọn đối thủ thì sao? Chúng rất bị
động. Chúng muốn phản đối Tào Tháo, thì trước hết là phạm tội phản đối hoàng
thượng. Và dù có giương cao ngọn cờ "Thanh trừng cận thần xấu” cũng còn xa mới
bì được với Tào Tháo, có thể trực tiếp với danh nghĩa hoàng đế để xuống chiếu,
vừa nhanh gọn, lại vừa lý tình đầy đủ.
Như
sau này Viên Thiệu muốn đánh Tào Tháo, Thư Thụ, Thôi Diễm đều nói, "Thiên tử ở
Hứa”, công phá Hứa Xương, "là phạm vào điều nghĩa”. Gia Cát Lượng cũng nói, Tào
Tháo "ép thiên tử để lệnh chư hầu, điều đó là không thể giành”. Tào Tháo nhanh
chân hơn, được nhiều lợi hơn.
Viên
Thiệu hối hận, liền nghĩ ra biện pháp để bổ cứu. Viên Thiệu cho rằng Hứa Xương
đất trũng, Lạc Dương bị phá huỷ, yêu cầu Tào Tháo dời Hiến đế về Quyên Thành
(nay là huyện Quyên Thành, Sơn Đông) cách chỗ mình không xa, để cùng hưởng lợi
từ lá vương bài này. Đúng là nằm mơ được lấy vợ, toàn nghĩ ra chuyện hay. Tào
Tháo buồn cười và đã nghiêm chỉnh lấy danh nghĩa hoàng đế thảo một đạo chiếu thư
gửi cho Viên Thiệu, trách cứ Viên Thiệu: "Đất rộng binh nhiều mà chỉ lo cho
mình”, không thấy Thiệu ra quân cần vương, chỉ thấy Thiệu luôn luôn công kích
người khác. Viên Thiệu trộm gà không được lại mất toi gạo, chẳng kiếm chác được
gì lại bị ăn mắng, vô cùng tức giận, đành phải nuốt giận vào lòng, dâng thư biện
bạch. Như vậy, Viên Thiệu đã thua to về chính trị lẫn tâm
lý.
Thế
rồi, lúc Tào Tháo lấy danh nghĩa hoàng đế bổ nhiệm Viên Thiệu là thái uý, phong
Nghiệp hầu, Viên Thiệu liền chối từ. Vì thái uý tuy là trưởng quan quân sự cao
nhất cả nước, một trong tam công, nhưng địa vị lại thấp hơn tướng quân. Và đại
tướng quân lúc đó không phải ai khác, chính là Tào Tháo, người mà Viên Thiệu
luôn xem thường. Vì vậy, Viên Thiệu đã phẫn nộ nói với người khác, lẽ ra Tào
Tháo đã chết đến mấy lần rồi, lần nào ta cũng cứu hắn, bây giờ hắn lại giương
ngọn cờ thiên tử để ra lệnh cho ta, là cái giống gì thế? Đúng là tính khí trẻ
con và hẹp hòi! Ngược lại, Tào Tháo rất độ lượng, hiểu rõ lúc này chưa thể phản
lại Viên Thiệu, liền dâng biểu từ chức đại tướng quân để nhường cho Viên Thiệu.
Lúc này Viên Thiệu mới yên vì thấy mình không mất sĩ diện. Kỳ thực, Viên Thiệu
không ở trong triều nên có hiệu lệnh cũng chỉ quanh quẩn trong địa hạt của mình,
vậy là đại tướng quân hay tiểu tướng quân cũng chẳng khác gì nhau. Hơn nữa, đây
là chức vụ Tào Tháo nhường cho, vậy có gì là sĩ diện, ngược lại thấy rõ, tính
khí quá trẻ con.
Tào
Tháo được cả sĩ diện lẫn tình cảm. Đương nhiên Hiến đế cũng được lợi không ít.
Trước khi đến Hứa Xương, Hiến đế cùng các quan trọng triều đã gần như là kẻ ăn
xin. Lúc đó ở Lạc Dương, từ thượng thư lang trở xuống đều ra ngoài kiếm rau dại
ăn, có người đã chết vì đói hoặc bị loạn binh giết chết. Ở đây cuộc sống của họ
được cải thiện nhiều, Tháo luôn tỉ mỉ tinh tế, chẳng khác gì một quản gia. Điều
quan trọng hơn, Hiến đế đã có chỗ ở ổn định, không còn là thứ hàng hoá đặc biệt
không đáng một xu, qua tay hết người này đến người khác, không còn lo sợ một
ngày nào đó sẽ bị phế truất, bị sát hại. Hiến đế đã có thần hộ mệnh, được sống
những ngày yên bình. Hoàng đế rất nhát gan, sống như một con rối, một con rối
đáng thương, nhưng nếu rơi vào tay Viên Thiệu, chắc sẽ còn thê thảm hơn! Hiển
nhiên, quan hệ giữa Tào Tháo và Hiến đế chỉ là mối quan hệ đôi bên cùng có lợi,
Tào Tháo thực không đơn giản.
Tài
năng chính trị của Tào Tháo đã sớm bộc lộ, nhưng mọi người không nhìn
ra.
Trên
chính trường cuối thời Hán, ban đầu người ta thấy Viên Thiệu tương đối tốt. Viên
Thiệu dáng người đẹp, xử sự không tồi, được nhiều người đi theo. Vì vậy, Viên
Thiệu mới được tôn là minh chủ của các lộ chư hầu, quyết định liên minh diệt
Đổng Trác.
Kỳ
thực Viên Thiệu chỉ được cái tốt mã. Năm 189, Linh đế băng hà, để lại hai người
con, Lưu Biện mười bốn tuổi, Lưu Hiệp chín tuổi, về cơ bản không khống chế nổi
cục thế. Cục diện chính trị đang chao đảo, tránh sao được cuộc tranh giành phân
chia lại lợi ích và quyền thế, và cuộc tranh giành chỉ được hoàn thành sau những
mưu mô quỷ kế, những cuộc chinh biến nơi cung đình. Ai mạnh tay ác độc, người đó
sẽ được lợi. Vì vậy sau khi đại tướng quân Hà Tiến giết chết kẻ cầm đầu hoạn
quan là Kiển Thạc, Viên Thiệu khuyên Hà Tiến đã làm là làm tới, giết cho bằng
hết lũ hoạn quan, nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, nhưng Hà Tiến thấy khó, vì người em
gái của Hà Tiến là Hà thái hậu không đồng ý. Năm đó Hà thái hậu hạ độc Vương mỹ
nhân, mẹ đẻ của Lưu Hiệp, suýt nữa bị Linh đế phế truất, may nhờ có hoạn quan
xin cho thoát nạn, đương nhiên lúc này thái hậu không muốn xuống tay với hoạn
quan, thế rồi Viên Thiệu lại có ý kiến với Hà Tiến, khuyên nên triệu các mãnh
tướng ở khắp nơi, nhất là Tịnh châu mục Đổng Trác về kinh, hòng uy hiếp thái
hậu. Thực tế thì đây là ý kiến ngu ngốc. Đến như trăm họ cũng đều rõ "mời thần
thì dễ, tiễn thần thì khó”, nói chi tới một hung thần như Đổng Trác? E đó là dẫn
sói vào nhà. Vả lại đây cũng chưa phải là việc cần làm. Tào Tháo đã nói, muốn
giải quyết vấn đề hoạn quan, chỉ cần giết mấy tên hung hãn cầm đầu là xong. Chỉ
cần đến một tên ngục lại là được. "Cớ gì phải triệu các tướng từ bên ngoài về?”.
Kết quả, khi Đổng Trác còn chưa về kinh, Hà Tiến đã là quỷ dưới đao bọn hoạn
quan. Đổng Trác vừa vào kinh, hoàng đế đã bị phế, thái hậu bị đầu độc, Lạc Dương
trở thành một biển lửa, điêu đứng hoang tàn, đó đều là những việc tốt Viên Thiệu
đã làm!
Đúng
là Viên Thiệu rất ngu xuẩn. Viên Thiệu đã dẫn một thế lực ác độc mà chính mình
cũng không chế nổi về kinh. Đó là việc không nên làm, dù họ "là quân nhân nghĩa”
hay "quân bá vương” cũng không nên! Hoạn quan vốn là những người không có địa
vị, lòng dân, không có chính quyền binh lực. Cũng đúng như Tào Tháo đã nói, sở
dĩ họ được thể, bởi họ gần gũi hoàng đế và được tín nhiệm. Nếu không được hoàng
đế sủng tín, thì họ chẳng là gì cả. Giết gà cần gì đến dao mổ trâu, và chúng ta
chưa có con dao đó. Dao ra khỏi vỏ là thấy máu. Không có gà để giết thì phải
giết trâu. Lũ Hà Tiến, Viên Thiệu chỉ là con bò ngốc, con trâu bướng bỉnh, đáng
phải giết thịt. Nếu không phải Viên Thiệu chủ trương giết bằng hết bọn hoạn
quan, bức bọn Trương Nhượng đến chỗ đường cùng, chó cùng rứt giậu, có lẽ Hà Tiến
đã không phải chết sớm. Làm chính biến nơi cung đình thì tay phải mạnh, bụng
phải ác, nhưng không phải là giết người thành thói, càng không phải giết bừa
bãi, giết người vô tội; đòn đánh mạnh nhất chỉ có thể nhầm vào kẻ địch hung hiểm
nhất. Trên thực tế, đấu tranh chính trị là nhằm thay đổi nhân sự, phân chia lại
lợi ích và quyền lợi, điều chỉnh quan hệ giữa người với người. Được nhiều người
ủng hộ thì thắng lợi càng lớn, vì vậy phải "đoàn kết số đông, đánh vào số nhỏ”.
Sao lại có thể giống như Viên Thiệu, không hỏi phải trái đúng sai, đã đòi giết
bằng hết? Như vậy là tự chuốc thêm địch, mà địch càng đông thì kết quả chẳng hay
ho gì.
Tào
Tháo không như vậy. Năm 200, Viên Thiệu đại bại trước Tào Tháo ở Quan Độ. Phần
lớn quân nhu, châu báu vàng bạc, bản đồ của Viên Thiệu đều rơi vào tay Tào Tháo,
bao gồm cả thư tín số người bên Tào Tháo, ngấm ngầm viết cho Viên Thiệu, giấy
trắng mực đen, chứng cứ như sơn, phàm những ai từng có thư từ đi lại với Viên
Thiệu đều kinh hoàng lo lắng, suốt ngày sống trong sợ hãi. Nhưng Tào Tháo đã hạ
lệnh cho đốt hết số thư tín đó. Tào Tháo đã giải thích: "Trong lúc Viên Thiệu
còn mạnh, ngay ta cũng chưa biết có giữ nổi mình không, trách gì mọi người!”.
Câu ấy lại càng được lòng người chưa nói tới số người còn đang nghi ngờ, đắn đo
chọn lựa, ngay cả những người không dính líu gì, đều rất cảm kích trước tấm lòng
khoan dung, độ lượng, cách đối nhân xử thế của Tào
Tháo.
Tào
Tháo nói rất hay, tính toán thật tinh tế. Tào Tháo hiểu rất rõ, một khi sự việc
bại lộ, không phải chỉ có một hai người bị xử lý. Vì trong tình trạng địch mạnh
ta yếu, thắng thua chưa rõ, thì ai chẳng muốn lo cho mình một đường rút? Khi đó,
sô người đứng núi này trông núi nọ không phải là ít. Đương nhiên không phải ai
cũng là gián điệp cho bên kia, chẳng qua là số đông muốn dính với cả hai bên,
nhưng thế nào là dính thế nào là không, đều chưa được phân rõ. Nhưng theo lý
luận phong kiến, không trung tức là phản nghịch. Chỉ cần có thư tín đi lại với
Viên Thiệu thi dấu hiệu nghi vấn là thông đồng với địch, có nhảy xuống Hoàng Hà
cũng không rửa sạch. Nếu như truy cứu từng người từng người một, thì e có đến
hơn nửa số người không giải thích nổi. Đã không truy cứu được, chi bằng làm ơn
làm phúc, không truy cứu nữa là xong. Hơn nữa, làm ơn làm phải cho trót, cho đốt
sạch mọi chứng cứ, mọi người yên tâm. Như thế này thì số người có bụng dạ khác
sẽ hối hận, sẽ ghi nhớ ân đức; số người vốn trung thành, càng thêm trung thành
tận tuy. Như vậy, hơn hẳn cách lôi một đống người ra trừng trị, làm suy yếu lực
lượng của chính mình.
Ở
đây rõ ràng Tào Tháo thể hiện tố chất thiên tài của nhà chính trị. Nếu nói, Tào
Tháo, thể hiện sự thông thái, biết nhìn xa của một nhà chính trị trong chuyện
triệu Đổng Trác về kinh, hay lập Hợp Phì hầu làm đế(3), thì với sự việc vừa miêu
tả, Tào Tháo đã bộc lộ tính cách anh hùng đại lược của nhà chính trị. Tào Tháo
hiểu rõ, bất luận là đấu tranh quân sự hay đấu tranh chính trị, bằng chứng quan
trọng nhất là chính nghĩa, nguồn vốn quý báu nhất là nhân tài. Muốn lôi kéo nhân
tài, trước hết phải lấy chữ thành để đãi người, thứ đến là chữ tín để có người,
thứ ba là biết khoan dung. Con người ta muốn hình muốn vẻ. Trên đời này làm gì
có đội ngũ chỉ một mầu? "Nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì
ai theo?”, đôi khi còn phải vờ vĩnh là hồ đồ. Có vờ hồ đồ mới khoan dung người,
biết khoan dung mới được lòng người, được lòng người mới được thiên hạ. Tào Tháo
hiểu được đạo lý đó, nên Tào Tháo mới thắng.
Viên
Thiệu tầm nhìn không xa, lòng dạ lại hẹp hòi. Trước trận chiến Quan Độ, mưu sĩ
Điền Phong đã nhiều lần khuyên can, không nên mạo muội xuất quân, Viên Thiệu đâu
có nghe, còn cho nhốt Điền Phong lại. Về sau, lức tin bại trận về đến Nghiệp
thành, có người vào ngục thăm Điền Phong và nói: "Thế này thì huynh lại được
trọng dụng”. Điền Phong lắc đầu nói: "Tôi chết là cái chắc!”. Quả nhiên khi về
đến Nghiệp thành, Viên Thiệu đã cho giết Điền
Phong.
Rõ
ràng là Điền Phong biết người biết lòng, liệu việc như thần. Điền Phong quá rõ
về con người Viên Thiệu, chí lớn tài sơ, bảo thủ cố chấp, bề ngoài thì khoan hậu
nho nhã, trong lòng thì nghi kỵ bạc bẽo. Nếu như thắng trận, trong lòng vui vẻ,
thì còn khả năng sẽ cho thả Điền Phong, một mặt để tỏ rõ sự khoan dung đại
lượng, mặt khác là tiếc thay cho vị "giáo viên phản diện”, để chứng minh là anh
minh vĩ đại. Nay bại trận, từ xấu hổ thành giận dữ, giận dữ phải trút sang cho
người khác, lấy đầu người khác để xả giận, giết người nói đúng để che giấu sai
lầm của mình. Người như vậy, còn muốn làm hoàng đế, lấy thiên hạ, chẳng phải nằm
mơ giữa ban ngày sao?
Chú
thích
(1)
Cửu tích là chín loại vật khí đế vương làm cho đại thần được ân sủng nhất. Vương
Mãng trước lúc chiếm ngôi từng được ban cửu tích (Tác
giả).
(3)
Năm 188, thái thú Kỷ châu Vương Phần và một số người khác âm mưu phế truất Linh
đế, lập Hợp Phì hầu, kéo Tháo vào cuộc, Tào Tháo nghiêm khắc cự tuyệt, về sau sự
việc bại lộ, Vương Phần tự vẫn (Tác giả).
Xin
chân thành cảm ơn bạn Mõ Hà Nội (Nguyễn Học) và Mọt Sách đã đánh
máy và gởi đến thư viện VN Thư quán tác phẩm LUẬN ANH HÙNG của tác giả DỊCH
TRUNG THIÊN