|
|
|
|
Đại
tướng nhà Thục Hán
Sinh 176
tại
Phù Phong, Mậu Lăng, Thiểm Tây
Mất 222
tại
Hán Trung, Thiểm Tây
Tự Mạnh Khởi (孟起)
Thụy
hiệu Uy Hầu (威侯)
Tên
khác Cẩm Mã Siêu (錦馬超)
Mã
Siêu (chữ Hán: 馬超,
bính âm: Ma Chao, 176-222), tự Mạnh Khởi 孟起,
là một vị võ tướng của nhà Thục Hán vào cuối đời Đông Hán, đầu đời Tam Quốc
trong lịch sử Trung Quốc. Ông là hậu duệ của Phục Ba tướng quân Mã Viện đời Đông
Hán. Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, ông có biệt danh là "Cẩm Mã Siêu"
(nghĩa là Mã Siêu tuyệt mỹ hay đẹp đẽ, lấy từ chữ 錦
"Cẩm” có nghĩa là vải dệt hoa đẹp, gọi là gấm vóc) và là một trong ngũ hổ tướng
của nhà Thục Hán bao gồm Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng
Trung.
Mã
Siêu là vị võ tướng, một chiến binh Tây Lương dũng mãnh nổi danh trong lịch sử
thời Tam Quốc. Sử sách đã ghi nhận, ông có tài bắn tên, trong mỗi trận đánh
thường xung phong đi đầu.[1] Đặc biệt, thông qua tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa
của La Quán Trung, ông được biết đến vì sức mạnh và sự anh dũng, thiện chiến
trong chiến đấu.
Mã
Siêu từng hùng cứ tại Tây Lương sau đó đã khởi binh chống lại triều đình nhà Hán
và nhiều lần đánh bại Tào Tháo trong chiến dịch Đồng Quan. Cuối cùng, vì mắc mưu
ly gián của Tào Tháo nên bại vong, phải chạy về Lũng Tây. Ông tiếp tục lãnh đạo
những bộ tộc ở Lương Châu khởi binh chống lại triều đình tại Lũng Thượng, chiếm
được Kí Thành. Nhưng sau đó, các hàng tướng người Hán tạo phản, làm nội ứng cùng
với quân triều đình phản công chiếm lại Kí Thành.
Sau
thất bại tại trận Kí Thành, Mã Siêu phải chạy về Hán Trung nương nhờ Trương Lỗ,
một lãnh chúa cát cứ tại đây. Ông đã nhiều lần mượn binh Trương Lỗ để chống lại
Tào Tháo nhưng không thành. Bất bình vì không được Trương Lỗ trọng dụng, Mã Siêu
đã đầu quân cho Lưu Bị và trở thành viên tướng tiên phong trong chiến dịch đánh
chiếm Thành Đô, thủ phủ của Sứ quân Lưu Chương đang cát cứ ở đó. Cuộc tấn công
này đã kết thúc, Lưu Chương đầu hàng đồng thời chiến dịch vào Xuyên mở nước của
Lưu Bị thành công, từ đây nhà Thục Hán có đầy đủ cơ sở đầy đủ để ra
đời.
Sau
khi lập nhiều công lao cho nhà Thục và uy danh vốn có, Mã Siêu nhiều lần được
Lưu Bị phong tước và giao nhiều trọng trách quan trọng, ông được phong là một
trong Ngũ hổ tướng của Tây Thục. Cuộc đời chinh chiến của ông rất hiển hách, lập
nhiều chiến công vang dội, uy trấn cả vùng Tây Bắc Trung Quốc, được nhiều dân
tộc thiểu số ở đó mến mộ. Tuy vậy, gia đình ông phải chịu nhiều mất mát, tang
thương do chiến tranh.
1.Thân
thế
Mã
Siêu sinh năm 176 tại quận (Hữu) Phù Phong[2] huyện Mậu Lăng, vùng Lũng Môn nay
thuộc tỉnh Thiểm Tây. Ông là con trai trưởng của Mã Đằng, thứ sử Tây Lương.
Ngoài ra, ông còn có hai người em trai ruột là Mã Hưu, Mã Thiết và người anh em
họ là Mã Đại.[1]
Mã
Siêu xuất thân trong một gia đình "đời đời công hầu” là dòng dõi của Phục Ba
tướng quân Mã Viện, gia đình ông có mối quan hệ thân thiết với các lãnh chúa
quân phiệt cát cứ ở Tây Lương, bình sinh ông có sức khỏe, là con lai giữa người
Hán và người Khương[3] lại giõi võ nghệ, từ nhỏ đã theo cha chinh chiến, lập
nhiều chiến công hiển hách nên rất được lòng các dân tộc thiểu số ở vùng Tây Bắc
Trung Quốc. Ngoài ra triều đình cũng rất coi trọng Mã Siêu và lần lượt phong
nhiều chức tước cho ông.[1]
2.Chiến
dịch dẹp loạn
Năm
204, Thừa tướng Tào Tháo nhà Hán xuất quân đánh các sứ quân Hà Bắc là Viên Đàm,
Viên Thượng ở vùng Lê Dương. Để giải tỏa áp lực cho vùng Lê Dương, Viên Đàm phái
Quách Viên, Cao Cán tấn công vùng Hà Đông để phân chia binh lực Tào Tháo. Tào
Tháo cử quan Tư Lệ hiệu uý Chung Do trấn thủ Quan Trung để đồng thời đốc suất
các chư tướng ở Quan Trung cùng hợp sức đánh dẹp Cao Cán, Quách
Viên.[4]
Chung
Do gửi thư cho Mã Đằng, Hàn Toại khi đó đang có xung đột, phân tích lợi hại và
yêu cầu hai bên hòa giải và cũng đề nghị Mã Đằng xuất quân phối hợp thảo phạt
Quách Viên và Cao Cán. Thừa tướng Tào Tháo ở Hứa Đô cũng đã yêu cầu Mã Siêu với
tư cách là con trưởng của Mã Đằng về Hứa Đô. Tuy nhiên, Mã Siêu kiên quyết không
chịu đến kinh đô mà ở lại Tây Lương để tham gia các chiến dịch quân
sự.[1]
Mã
Siêu được Mã Đằng cử làm chỉ huy quân Tây Lương phối hợp với quân triều đình
theo Chung Do đi đánh Quách Viên, Cao Cán ở Bình Dương. Mã Siêu lĩnh mệnh dẫn
quân chiến đấu, Bàng Đức cũng được cử làm bộ tướng cho Mã Siêu đi theo ông trong
chiến dịch này. Để ghi nhận sự hỗ trợ này, triều đình nhà Hán đã phong Mã Siêu
làm Tư Lệ Hiệu uý Đốc quân Tòng sự[5] (ngang với chức vụ của Chung Do), làm tư
lệnh quân Tây Lương trong chiến dịch này.[1]
Trong
trận đánh này, liên minh giữa quân đội triều đình với sự hỗ trợ của quân Tây
Lương do Mã Siêu chỉ huy đã giao tranh quyết liệt với quân họ Viên. Mã Siêu lập
công đầu trong việc xông pha trận mạc, chém tướng và lập công đầu, đem lại thắng
lợi quyết định cho chiến dịch.
Lúc
đánh dẹp Quách Viên, chiến sự diễn ra ác liệt, quân họ Viên dựa vào cung nỏ
kháng cự quyết liệt với liên quân Tào – Tây Lương. Trong lúc chiến đấu hỗn loạn,
Mã Siêu bị tên có tẩm độc bắn trúng vào chân nhưng ông vẫn xông pha chém giết,
bất chấp thương thế trầm trọng, vẫn "cứ mặc kệ chân bị sưng tấy[6] mà chiến đấu,
phá được địch, chém lấy thủ cấp của Quách Viện”, anh dũng vô địch lập được công
đầu.[1][7] Chiến công này có ý nghĩa bản lề đối với sự nghiệp của Mã Siêu[cần
dẫn nguồn], qua trận chiến này uy danh của ông đã tăng lên đáng kể trong quân
đội Tây Lương, làm tiền đề căn bản để ông thay thế cha trở thành một thế lực cát
cứ tại đây[cần dẫn nguồn].
Việc
Mã Siêu làm tiên phong và xông pha chiến đấu, phá tan được quân nổi loạn, tiêu
diệt được chỉ huy phiến quân các sử sách đề thống nhất ghi nhận. Tuy nhiên việc
xác định ai người chém đầu Quách Viên sử sách chép không thống nhất với
nhau.
Tam
Quốc chí dẫn lại ghi chép của Điển lược thì viên chỉ huy Quách Viện do đích thân
Mã Siêu chém chết. Nhưng theo Tam Quốc chí thì người chém Quách Viên là Bàng
Đức. Tam Quốc chí đã hai lần khẳng định chi tiết này trong Mã Siêu truyện và
Bàng Đức truyện, theo đó, bộ tướng của Mã Siêu đã chém được Quách Viên, cắt lấy
thủ cấp, trong trận đánh này, Bàng Đức "làm tiên phong, tiến đánh Viên, Cán, đại
phá quân địch, đích thân chém đầu Viên”.[1]
Ngoài
ra, Nguỵ lược chép rất chi tiết về sự kiện này. Theo đó, "Đức chém được một thủ
cấp, không biết đó là Viên. Sau khi tan cuộc chiến, chúng nhân đều nói Viên đã
chết mà không tìm được thủ cấp. Viên, là cháu ngoại của Chung Do. Về sau Đức từ
từ bỏ cái túi xuống thì bên trong có một cái đầu rơi ra, Do nhìn thấy cái đầu ấy
liền khóc. Đức tạ lỗi với Do, Do nói: "Viên tuy là cháu ta, nhưng là kẻ quốc
tặc. ông hà cớ gì mà tạ ta?".[4] Tam Quốc chí phần Bàng Đức truyện cũng chép
rằng sau trận đánh này Bàng Đức được thăng chức từ Hiệu úy lên Trung Lang tướng
và sau đó được nhận tước Đô Đình hầu.
Sau
thắng lợi quan trọng này, triều đình nhà Hán lúc này do Tào Tháo thao túng đã
xuống chiếu phong cho Mã Siêu làm Từ Châu Thứ sử, sau đó lại tiếp tục bái ông
làm Gián Nghị đại phu.[1][8] Các chức tước này đủ đảm bảo địa vị pháp lý chính
danh cho Mã Siêu trở thành một lãnh chúa tối cao ở Tây Lương sau này[cần dẫn
nguồn].
Điều
đó cho thấy thái độ của triều đình trung ương đối với Tây Lương và Mã Siêu mặc
dù các chức tước này thực chất chỉ là hình thức vì Mã Siêu thực tế đang ở tận
"xó Tây Lương hẻo lánh” không thể tiếp quản Từ Châu được, và cũng không thể can
gián nhà vua, nói điều phải với vua khi ở ngoài biên ải.
3.Hùng
cứ ở Tây Lương
Để
đối phó với thế lực Tây Lương đang trỗi dậy, nhà Hán đã thực hiện chính sách hai
mặt. Một mặt thực hiện việc vỗ về, tưởng thưởng cho các lực lượng cát cứ ở đây
thông qua việc ban thưởng nhiều chức tước, các chính sách vỗ về này nhằm làm cho
các lực lượng ở Tây Lương mất cảnh giác để thừa cơ tấn công. Mặt khác, nhà Hán
cố tình kích động các thế lực cát cứ cấu xé lẫn nhau làm suy yếu lực lượng đồng
thời tìm mọi lý do để xuất quân trấn áp[cần dẫn nguồn].
Hai
thế lực lớn nhất ở Tây Lương hiện giờ là Mã Đằng và Hàn Toại. So với Hàn Toại
thì Mã Đằng tỏ ra là nhân vật nguy hiểm hơn đối với nhà Hán[cần dẫn nguồn] vì
ông ta đã xây dựng cho mình một lực lượng hùng hậu, uy tín cao đối với các dân
tộc thiểu số ở đây[cần dẫn nguồn].
Nhà
Hán đã tập trung đối phó với Mã Đằng, kích động các lực lượng cát cứ khác tập
trung mũi nhọn vào Mã Đằng. Tam Quốc chí còn cho biết Mã Đằng với Hàn Toại đã
kết nghĩa anh em nhưng sau đó hóa ra thành thù hận, cho quân xâm lấn lãnh thổ
lẫn nhau, giết hại vợ cho lẫn nhau… [1]
Với
những áp lực liên tục như vậy mặt khác vì tuổi đã cao và nhận thấy những hứa hẹn
của triều đình nên Mã Đằng cùng gia tộc hơn 200 người đã xin về kinh sư vào năm
Kiến An thứ 10 (năm 208 Công nguyên). Sau khi về kinh, Mã Đằng được bổ nhiệm làm
Vệ Úy (nhưng ông ta chỉ xin làm chức Túc vệ), triều đình lại tiếp tục phong chức
cho hai người em trai của Mã Siêu, Mã Hưu được phong làm Phụng xa Đô úy, Mã
Thiết làm Kỵ Đô úy. Ngoài ra gia thuộc họ Mã được dời khỏi Tây Lương chuyển đến
định cư huyện Nghiệp (cư trú tại Nghiệp Thành).[1][9][10]
Tuy
Mã Đằng đã quy thuận triều đình, chuyển về sống ở kinh thành nhưng Mã Siêu vẫn
quyết tâm ở lại Tây Lương, quyết tâm cát cứ tại Tây Lương. Trước đây Tào Tháo đã
từng cho mời Mã Siêu về kinh nhưng ông kiên quyết từ chối mà ở lại Tây Lương
tham gia chiến dịch dẹp loạn Quách Viên, Cao Cán.
Triều
đình nhà Hán buộc phải thừa nhận chính thức địa vị kế thừa của Mã Siêu đối với
gia tộc họ Mã ở Tây Lương. Bên cạnh các chức tước đã ban cho Mã Siêu sau chiến
công hiển hách, nhân việc Mã Đằng đã về kinh thành, Hán Hiến đế đã xuống chiếu
phong cho Mã Siêu là Thiên Tướng quân[11], đồng thời cũng phong tước Đô Đình hầu
cho ông, để ông nắm giữ những binh lính cũ trong doanh của Mã Đằng.[1] Như vậy,
về cơ bản Mã Siêu đã nắm hoàn toàn thực quyền về quân sự của gia tộc họ Mã, được
ban thưởng nhiều chức tước quan trọng, giúp ông hoàn toàn thay thế Mã Đằng để
trở thành một thế lực quân phiệt mạnh nhất ở vùng Tây
Lương.
Sau
đó ông ta không ngừng xây dựng lực lượng cát cứ, tập hợp lực lượng, liên kết
nhân mã. Mã Siêu được sự giúp sức rất lớn của võ tướng Bàng Đức, sau khi Mã Đằng
được vời về làm Vệ úy, Bàng Đức ở lại làm thuộc hạ của Mã Siêu. Ngoài ra, người
em họ của Mã Siêu là Mã Đại cũng tình nguyện ở lại Tây Lương phục vụ dưới trướng
của anh mình, góp sức cho Mã Siêu. Sức ảnh hưởng của ông hơn hẳn cha mình, ông
đã trở thành một thế lực quân phiệt mạnh nhất ở vùng Lương Châu. Tam Quốc chí
cho biết[12]: "Phiêu Kỵ quật khởi, liên kết các nơi, tập hợp thủ hạ, đứng đầu
Tam Tần"[13].
Dù
đã vươn lên trở thành một lãnh chúa cát cứ hùng mạnh nhất ở Tây Lương, nhưng dã
tâm của Mã Siêu không dừng lại ở đó, ông ta muốn gây ảnh hưởng để vươn thế lực
đến vùng Ích Châu, nơi được đánh giá là dồi dào về sản vật, dân đông, nhiều nhân
tài, lại ở cách xa với trung tâm quyền lực, không chịu ảnh hưởng của các cuộc
chiến tranh hay nói một cách khác là "ốc đảo hòa bình", thuận lợi để lập cơ
nghiệp lớn.
Mã
Siêu đã gởi thư đến cho lãnh chúa Lưu Chương ở Ích châu, tỏ ý muốn liên hợp với
Thục[14] kết thành thế môi răng. Tuy nhiên, một số thuộc hạ của Lưu Chương trong
đó có Thái thú Thục quận là Cương Thương đã biết được ý đồ này và phản đối kịch
liệt với Lưu Chương để ông này từ bỏ hẳn ý định liên kết với Tây Lương khiến cho
ý định của Mã Siêu không thể thực hiện được.
Tam
Quốc chí dẫn lại ghi chép của Ích Châu Kỳ Cựu Truyện :[15]
Đến
con Đằng là Siêu lại cùng Chương gửi thư cho nhau, có ý muốn liên hợp với Thục.
Thương bảo Chương rằng:
"Siêu
dũng mãnh mà bất nhân, thấy lợi không kể đến tình nghĩa, không thể kết làm môi
răng được. Lão Tử nói: 'Thế mạnh của quốc gia, không thể đem cho người.' Nay Ích
Châu này, dân nhiều tướng giỏi, sản vật đầy đủ, lại xa cách những kẻ hiểm ác có
lòng khuynh đảo phản phúc. Bọn Siêu vì thế mà nhòm ngó phía tây. Giả sử lôi kéo
thân gần bọn chúng, thì cũng như nuôi hổ, chẳng khác nào tự gieo mầm
hoạ.”
Chương
theo lời Thương, cự tuyệt Siêu.
Việc
Mã Siêu thay cha trở thành một thế lực cát cứ ở Tây Lương làm cho các thế lực ở
vùng Lương Châu trở nên cân bằng như cũ. Một bên là Mã Siêu cát cứ ở Tây Lương
bên kia là Hàn Toại – Thái thú Tây Kinh, hiện đang trấn giữ ở Kim Thành. Hàn
Toại có mối quan hệ thân thiết với các lực lượng khác trong vùng. Trong Tam Quốc
diễn nghĩa, những người chỉ huy các lực lượng cát cứ tại Tây Lương được mô tả là
bộ tướng của Hàn Toại.
Bên
cạnh việc cát cứ, li khai, Mã Siêu và các lực lượng khác đề ủng hộ Hán Hiến đế,
coi mình là chư hầu của nhà Hán và thực hiện việc cống nạp định kỳ đầy đủ cho
nhà Hán để triều đình không thể có lý để xuất quân trấn áp họ một cách danh
chính ngôn thuận.[cần dẫn nguồn] Kha Xuân Kiều, Hà Nhân Học, Sđd, trang
88[10]
4.Đại
chiến Đồng Quan
Mặc
dù vậy, vào mùa xuân tháng ba năm Kiến An thứ 16 (năm 211 sau Công nguyên), Tào
Tháo cử Tư lệ Hiệu uý Chung Do và Chinh tây Hộ quân Hạ Hầu Uyên đem quân đi đánh
Trương Lỗ đang trấn thủ ở Đông Xuyên, thảo phạt Hán Trung [16], lấy danh nghĩa
đánh Hán Trung, nhưng thực tế là muốn thôn tính đất Quan Trung. Đây là kế "đánh
Quắc để diệt Ngu’’.
Ý
đồ của Tào Tháo là, nếu muốn đến Hán Trung thì phải đi qua Quan Trung, đại quân
tiến về phía tây trên danh nghĩa là đi đánh Trương Lỗ, nhưng thực chất là gây
sức ép với Mã Siêu, Hàn Toại gây nghi ngờ triều đình đánh mình từ đó có thể kích
động sự chống đối của chư hầu đến lúc đó triều đình sẽ có lý do chính đáng để
xuất quân chinh phạt Tây Lương[10][17]
Sự
kiện triều đình phái Chung Do và Hạ Hầu Uyên đem quân đi đánh Hán Trung trong lộ
trình có mượn đường đi qua Quan Trung làm Mã Siêu và các lãnh chúa ở đây lo
ngại. Họ nhận định triều đình không đánh họ ở chỗ gần mà đánh Trương Lỗ ở xa,
nghi ngờ đây là kế "đánh Quắc để diệt Ngu”, Mã Siêu cùng Hàn Tọai với các tướng
lĩnh Quan Trung khởi binh chống lại triều đình.[10][18][19] Đây là sự kiện chính
dẫn đến trận chiến Đồng Quan, một dấu ấn quan trọng trong cuộc đời binh nghiệp
của Mã Siêu.
Tam
quốc chí chép laị sự kiện này như sau: Siêu đã nắm được toàn quân, bèn cùng với
Hàn Toại hợp quân, lại gặp được bọn Dương Thu, Lý Kham, Thành Nghi mới cùng câu
kết với nhau, tiến quân đến Đồng Quan và cho rằng chính Mã Siêu cùng các tướng
lĩnh ở Tây Lương làm phản triều đình. Có thể thấy, mặc dù toàn bộ gia tộc đang ở
triều đình nhưng Mã Siêu vẫn khởi binh phát động chiến tranh tại Đồng Quan
[1]
Trong
trận Đồng Quan, Mã Siêu và Hàn Toại cùng với tám tướng ở vùng Quan Trung hợp
thành liên minh Quan Trung để chống lại triều đình với hơn 10 vạn binh mã các lộ
quân. Quân đội triều đình nhà Hán do Tào Tháo thống lĩnh cũng đã cử nhiều tướng
tài tham chiến như: Hứa Chử, Hạ Hầu Uyên, Từ Hoảng, Trương Cáp, Tào Nhân, Chu
Linh…
Hai
bên tham chiến đã có những trận đụng độ quyết liệt ở Đồng Quan, Vị Thủy, Vị Nam,
Đồ Bản…. Trong trận chiến này, Mã Siêu tỏ ra anh dũng thiện chiến, túc trí đa
mưu, nhiều lần đánh bại quân Tào Tháo trong các trận đánh tại Đồng Quan, Vị
Thủy. Trong đó sử sách cho biết Mã Siêu đã cầm cự bất phân thắng bại với Tào
Tháo, "giữ vững Hà, Đồng”, thậm chí ba lần súyt bắt và giết được Tào Tháo trong
các trận Vị Thủy và Đồng Quan nếu không có sự xuất sắc của hổ tướng Hứa
Chử.[1][20]
Sự
dũng mãnh, thiện chiến và mưu trí của Mã Siêu đã khiến cho Tào Tháo phải bức xúc
thốt lên rằng[21]:
"Thằng
ranh họ Mã chẳng chết, ta chết không có đất mà chôn.”
Nhận
định này được nhiều nhà nghiên cứu dẫn lại trong các tác phẩm khi viết về đề tài
này.[22][23]
Tam
Quốc diễn nghĩa đã đặc tả lại những trận chiến này trong Hồi thứ 57 và hồi 58,
theo đó có đến sáu trận giao tranh làm vang danh Mã Siêu và làm cho Tào Tháo
phải "cắt râu vứt áo ở Đồng Quan, cướp thuyền tránh tên ở Vị Thủy”. Tam Quốc
diễn nghĩa cũng mô tả trận chiến tay đôi giữa Hứa Chử và Mã Siêu là một trong
những trận giao phong hấp dẫn và kịch tích nhất trong Tam
quốc.
Tam
Quốc chí cũng cho biết qua trận chiến Đồng Quan, viên tướng Hứa Chử được xưng
tụng là Hổ hầu thay cho Hổ si (Hổ dại, si ngốc) vì trong lúc chiến đấu Mã Siêu
có hỏi Tào Tháo rằng: "Hổ Hầu của ngài có ở đây chăng?" vì vậy cho đến nay thiên
hạ gọi đến danh hiệu này, đều bảo rằng đó là họ tên của Trử
vậy.[24]
Trong
trận chiến này, Từ Hoảng cũng đã hiến kế vượt sông Vị Hà để đánh bọc vào sườn
của liên quân Quan Trung, theo đó Tào Tháo sẽ vượt sông vị thủy chặn đường lui
của quân Tây Lương, Từ Hoảng và Chu Linh dẫn 4.000 quân bộ kỵ vượt sông Đồ Bản
đánh vào sườn nam của liên quân Quan Trung làm cho trận chiến càng trở nên quyết
liệt.
Quân
Tây Lương do Mã Siêu chỉ huy vẫn bất phân thắng bại với quân triều đình, nhiều
phen gây khốn đốn cho Tào Tháo. Cuối cùng, Tào Tháo dùng mưu xóa thư của Giả Hủ,
ly gián Mã Siêu, Hàn Toại, khiến họ nghi ngờ lẫn nhau, dẫn đến sự thất bại của
liên quân Quan Trung.
Trận
Đồng Quan kết thúc với sự thất bại của Mã Siêu. Ông bị Tào Tháo truy kích đến
tận An Định như vì "Bắc phương có việc” nên phải rút quân về. Mã Siêu phải chạy
trốn đến nhờ vả các tộc người Nhung, Triều đình xuống chiếu tru di tam tộc bắt
giết hết gia tộc của Mã Siêu.[1]
5.Tập
kích Lũng Thượng
Sau
khi chiến thắng trước Mã Siêu và bình định được vùng Lương Châu, Tào Tháo rút
quân về phía Đông. Trước khi đi, ông ta cắt cử các thuộc hạ thân tín trấn giữ
các cứ điểm ở vùng Lũng Thượng.
Quan
trấn thủ ở vùng Lũng Thượng là Dương Phụ cảnh báo với Tào Tháo về mối nguy hiểm
thường trực của Mã Siêu đối với an ninh của vùng Lũng
Thượng[25]:
"Siêu
có cái dũng của Tín, Bố[26], rất được lòng người Khương, Hồ. Ví như đại quân
quay về, nơi đây chẳng thể phòng bị nghiêm ngặt, các quận Lũng thượng sẽ chẳng
còn của quốc gia nữa.”
Tuy
vậy, tình thế buộc Tào Tháo phải rút quân về phía Bắc, bỏ lõng mặt trận ở Lũng
Thượng. Việc phòng bị không thể nghiêm ngặt như trước mà giao cho các viên quan
ở địa phương này phụ trách.
Nhân
cơ hội đó, Mã Siêu lúc này đang tị nạn ở lãnh thổ của dân tộc Nhung và xây dựng
lực lượng chờ ngày báo thù, phục hận lập tức đốc xuất quân đội của bộ tộc này
tấn công các quận, huyện của ở Lũng thượng để tái chiếm vùng này. Mã Siêu vốn có
uy tín đối với các dân tộc thiểu số ở vùng này nên khi hiệu triệu lực lượng và
phát động chiến tranh, các quận huyện Lũng thượng đều hưởng
ứng.
Năm
212, quân nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Mã Siêu đã tấn công quyết liệt vào các
thành trì của nhà Hán. Đặc biệt, quân nổi dậy đã tấn công và chiếm cứ được Kí
thành, giết chết Lương Châu thứ sử là Vi Khang, chiêu hàng hết quân lực và quan
lại ở đây.
Sau
khi chiếm cứ được Kí thành, lực lượng của Mã Siêu trở nên lớn mạnh hơn hẳn khiến
ông ta nghĩ đến việc khôi phục lại Tây Lương và tấn công vào nhà Hán một lần
nữa. Mã Siêu tự xưng là Chinh Tây tướng quân, tự lĩnh chức Tinh Châu mục, đốc
xuất việc quân ở Lương châu.[1] Dưới trướng của Mã Siêu còn có Mã Đại và Bàng
Đức, Bàng Đức được giao phụ trách việc phòng thủ Kí
Thành.[4]
Ngoài
ra, những người đề lại thân cận cũ của Vi Khang là Khương Tự, Lương Khoan, Triệu
Cù và Dương Phụ, người đã khuyến cáo Tào Tháo không nên buông lõng phòng thủ ở
Lũng Thượng cũng vì tình thế bắt buộc mà phải đầu hàng Mã Siêu. Vì cần có nhân
sự để tổ chức xây dựng lực lượng nên Mã Siêu đã chấp nhận và trọng dụng những
hàng tướng này. Tuy nhiên, những viên quan người Hán này vẫn không một lòng theo
về với Mã Siêu, không những thế họ còn câu kết với nhau lập kế hoạch chống lại
Mã Siêu.
Dương
Phụ và Lương Tự khởi binh đánh chiếm Lỗ Thành, một địa điểm quan trọng cạnh Kí
thành. Để tái chiếm lại Lỗ Thành, Mã Siêu buộc phải huy động toàn bộ lực lượng
của mình kéo quân đến tiến đánh Lỗ Thành. Mã Siêu tin tưởng giao ký thành cho
Lương Khoan, Triệu Cù canh giữ. Tuy nhiên, khi toàn quân của Mã Siêu rời khỏi Kí
Thành, Lương Khoan, Triệu Cù lập tức phản bội, kiểm soát Ký Thành. Lúc này Mã
Siêu đang tiến đánh Lỗ Thành và Lỗ Thành dưới sự chỉ huy của Dương Phụ và Lương
Tự phòng thủ vững vàng trước sức tấn công của Mã Siêu.
Không
công hạ được Lỗ Thành, Mã Siêu phải dẫn binh mã quay về Kí Thành để tổ chức lại
lực lượng, nghỉ ngơi nhằm tiếp tục phát binh đánh chiếm. Nhưng khi về đến Ký
Thành thì tình thế đã xoay chuyển, Lương Khoan, Triệu Cù đã kiểm sóat được Kí
Thành và ra lệnh đóng chặt cửa thành, không cho Mã Siêu nhập
thành.
Cùng
thời gian này, Tào Tháo cũng phái binh mã do Trương Hợp cùng Hạ Hầu Uyên tấn
công các dư đảng còn sót lại ở vùng Tây Lương sau trận quan độ, đánh dẹp phu tặc
Lương Hưng cùng rợ Đê ở Vũ Đô. Nhân cơ hội này, Trương Cáp dẫn quân tấn công và
"phá được Mã Siêu”.[27]
Mất
Kí Thành, chỗ đóng trú cho toàn quân, cũng như vấn đề hậu cần, lương thảo… Mã
Siêu lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan dẫn đến việc thất bại nặng nề tại
Lũng Thượng buộc ông cùng với Mã Đại, Bàng Đức đành phải chạy vào Hán Trung
nương nhờ lãnh chúa Trương Lỗ.[25]
Trong
tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa, tại Hồi 64, trận Ký Thành được mô tả khá tỉ mĩ,
nhìn chung các tình tiết chính trong tác phẩm này tương tự với ghi chép của các
sử sách, tuy nhiên Tam Quốc diễn nghĩa phần nào đã khắc họa rõ nét tính chất của
cuộc chiến này, theo đó góp phần lý giải hợp lý cho nguyên nhân quật khởi mạnh
mẽ nhưng cũng thất bại nhanh chóng của Mã Siêu trong cuộc
chiến.
Theo
đó, trong trận chiến này Mã Siêu vì nôn nóng trả thù, phục hận nên đã có những
quyết định tàn nhẫn gây bất bình cho nhân dân và các quan viên người Hán trong
vùng như: Giết chết Thái thú Vi Khang cùng với cả nhà hơn bốn mươi người khi ông
này đã đầu hàng, chém viên tì tướng Triệu Nguyệt của mình chỉ vì người này có
cha là Triệu Ngang đã chống lại Mã Siêu hoặc khi thua trận về đến Lịch Thành, Mã
Siêu vào thành (do quân giữ thành lầm tưởng là quân triều đình) đã điên cuồng
tàn sát nhân dân, ông ta giết từ cửa nam giết đi, nhân dân trong thành sạch
nhẵn, lại chém luôn mẹ của Khương Tự, bắt tuốt già trẻ cả nhà Khương Tự, Doãn
Phụng, Triệu Ngang giết sạch.[28]
6.Đầu
quân cho Trương Lỗ
Sau
thất bại trong cuộc chiến tái chiếm vùng Lũng Thượng, Mã Siêu mất hoàn toàn chỗ
dựa tại vùng này, không còn cách nào khác, ông cùng với gia đình và thuộc hạ
thân tín là Bàng Đức phải chạy trốn vào vùng Hán Trung, nương nhời dưới trướng
của lãnh chúa Trương Lỗ.[4]
Lãnh
chúa Trương Lỗ nhận thấy Mã Siêu là viên tướng tài năng, uy danh lừng lẫy, có
thể tận dụng ông cùng với bộ hạ cũ để tăng cường tiềm lực quốc phòng của mình
nên đã dung nạp Mã Siêu, bổ nhiệm ông làm Đô giảng Tế
Tửu.[25]
Không
những vậy, Trương Lỗ rất yêu mến Mã Siêu, có ý muốn gả con gái của ông cho Mã
Siêu. Nhưng việc Trương Lỗ quá ưu ái Mã Siêu khiến một số cựu thần của ông bất
mãn, ganh ghét. Có người[29] khuyên can Trương Lỗ rằng: "Người chẳng biết yêu
người thân thích, sao có thể yêu mến người khác được?”. Vì sợ mất lòng những bề
tôi cũ đành phải hủy bỏ cuộc hôn nhân này đồng thời thay đổi thái độ đối với Mã
Siêu, không trọng dụng ông, chỉ cho đóng quân ở ngoài biên ải. Tam Quốc chí chép
rằng: "Lỗ chẳng biết xét việc, không dùng Siêu, cho ở
ngoài”.
Về
phía Mã Siêu, khi đầu quân cho Trương Lỗ và được trọng dụng, Mã Siêu đã nhiều
lần gặp Trương Lỗ để xin hỗ trợ binh sĩ để ông dẫn quân bắc tiến lấy lại Lương
Châu. Vì nhiều lần Mã Siêu yêu cầu nên Trương Lỗ đất đắc dĩ phải cấp binh lính
cho ông ta nhưng việc tấn công phía Bắc của Mã Siêu không được việc.[1] Sử sách
không chép cụ thể một cuộc hành binh nào của Mã Siêu trong giai đoạn này, có thể
thấy việc Trương Lỗ chấp nhận yêu cầu của Mã Siêu chỉ đơn thuần là đồng ý về mặt
chủ trương vì cả nể, trong quá trình triển khai thực hiện thì không khả
thi.
Mã
Siêu lúc này rơi vào tình thế bất đắc chí, bị thất sủng và bị cô lập, gia đình
hiu quạnh, thuộc hạ thân tín quá ít ỏi. Tình cảnh của ông trong giai đoạn này
thật khó khăn, trái ngược với danh tiếng và tham vọng của
ông.
Tam
Quốc chí dẫn lại ghi chép của Điển Lược cho biết: Khi trước, lúc Mã Siêu chưa
khởi binh chống lại triều đình (nguyên văn chép là làm phản), vợ lẽ của Siêu là
Đệ Chủng (đoạn sau lại chép là Đổng) ở lại Tam Phụ[30] đến khi Mã Siêu thua
trận, Chủng cùng với con trai là Mã Thu chạy vào Hán Trung trước. Vào ngày Mùng
một Tết Nguyên đán, Đệ Chủng (hay Đổng) theo tục lệ chúc thọ Mã Siêu. Mã Siêu
phẫn uất đấm ngực đến thổ huyết và than rằng [1]:
"Nhà
ta trăm nhân khẩu, một sớm chết cả, nay chỉ có hai ta chúc nhau như vậy
sao?”
Trong
thời gian ở dưới trướng Trương Lỗ, Mã Siêu nhận thấy Trương Lỗ "chẳng thể cùng
bàn tính việc” cho nên Mã Siêu ôm nỗi buồn bực, thêm vào đó kế hoạch Bắc tiến
phục hận không triển khai được, ngoài ra viên tướng thân tín của Trương Lỗ là
Dương Bách hiềm tỵ, ganh ghét muốn hãm hại người tài, nhiều lần xàm tấu về Mã
Siêu chính vì vậy, khi nghe tin Lưu Bị vào Xuyên, hiện đang vây đánh Lưu Chương
ở Thành Đô, ông lập tức bí mật gửi thư xin hàng Lưu Bị để về đầu quân cho ông
này.
7.Theo
về với Lưu Bị
Lưu
Bị nhận được mật thư xin quy phục của Mã Siêu lập tức cử Lý Khôi đến Hán Trung
truyền đạt ý định của Lưu Bị và bàn định chi tiết với Mã Siêu. Mã Siêu nhận lệnh
của Lưu Bị và lên kế hoạch bỏ Trương Lỗ về với Lưu Bị. Tam Quốc chí chép: "Tiên
chủ sai Khôi tới Hán Trung giao hảo với Mã Siêu, Siêu bèn vâng
lệnh”.[31]
Năm
Kiến an thứ mười chín, Mã Siêu theo lối Vũ Đô chạy vào khu vực sinh sống của rợ
Đê để tạm trú sau đó bỏ sang đất Thục theo về với Lưu Bị.[1] Tuy vậy, vợ con của
Mã Siêu không thể theo ông trốn sang Thục mà vẫn phải lưu lại Hán Trung sống nhờ
vào chu cấp của Trương Lỗ. Sau khi Mã Siêu vào đất Thục không lâu thì Tào Tháo
dẫn binh tiến đánh Hán Trung. Trương Lỗ thất bại trong cuộc chiến này phải đầu
hàng Tào Tháo. Tào Tháo bắt được vợ con của Mã Siêu, liền lấy vợ lẽ của Mã Siêu
ban thưởng cho Diêm Phố, còn con trai Mã Thu thì giao cho Trương Lỗ, Trương Lỗ
phải tự tay giết đi [1].
Sự
kiện Mã Siêu bỏ Trương Lỗ sang đầu quân cho Lưu Bị được một số nhà nghiên cứu
cho rằng:[32] Năng lực dùng người của Trương Lỗ còn nhiều hạn chế chính vì thế
mới không thể sử dụng được Mã Siêu, ông ta chưa nhận thức được trong thuật dùng
người thì "Ngàn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm” mà Mã Siêu là một hổ tướng
trong thiên hạ, danh bất hư truyền, nay đã đến dưới trướng của Trương Lỗ nhưng
ông ta không biết cách trọng dụng, điều đó gây bất mãn cho Mã Siêu và sớm muộn
gì thì Mã Siêu cũng sẽ rời bỏ Trương Lỗ.
Ngoài
ra, trong thuật dùng người cần chú trọng đến nguyên tắc "đã dùng thì không nghi,
đã nghi thì không dùng”. Khi Mã Siêu về với Trương Lỗ, ông ta hoàn toàn vui
mừng, tin tưởng Mã Siêu, có ý định trong dụng ông, đã phong cho ông chức Đô
giảng Tế tửu, chu cấp cho gia đình Mã Siêu, cho ông chỉ huy quân Bắc phạt và còn
định gả con gái của mình cho Mã Siêu. Nhưng sau đó vì nghe lời xàm tấu của những
nịnh thần ghen ghét hiền tài, nên ông ta không còn tin tưởng Mã
Siêu.
Chính
vì vậy, dù đã giao trọng trách cho Mã Siêu mà Trương Lỗ vẫn không hoàn toàn tin
tưởng, lại nghe lời xàm tấu điều đó chứng tỏ Trương Lỗ không biết dùng người.
Chính sự nghi kỵ của Trương Lỗ đã đẩy Mã Siêu về phía Lưu Bị và ông ta chỉ việc
giơ tay đón lấy viên hổ tướng này.
Trong
Tam quốc diễn nghĩa sự kiện Mã Siêu về với Trương Lỗ thì chép giống với sử sách.
Tuy nhiên, việc Mã Siêu đầu quân cho Lưu Bị có sự khác biệt. Theo đó, Trương Lỗ
đã giao hai vạn quân cho Mã Siêu tiến vào Tây Xuyên để giải vây cho Lưu Chương.
Mã Siêu tiến đến ải Hà Manh và đã kịch chiến một trận quyết liệt với Trương Phi
tại đây, hai bên đã đấu hơn hai trăm ba mươi hiệp[33], từ trưa đến chiều tối mà
vẫn bất phân thắng bại. Lưu Bị nhiều lần phải thốt lên biểu thị sự cảm phục đối
với Mã Siêu và có lòng muốn thu phục viên tướng này.[34]
Gia
Cát Lượng bèn lên kế sai người đem nhiều vàng bạc để mua chuộc Dương Tùng gièm
pha Mã Siêu khiến cho Trương Lỗ lệnh cho Mã Siêu lập tức lui binh. Nhưng một khi
sự việc chưa thành, Mã Siêu nhất định không chịu quay về, Trương Lỗ đã mấy lần
sai sứ giả mang quân lệnh đến nhưng Mã Siêu đều tìm cách chối từ. Nhân việc đó
Dương Tùng gièm pha với Trương Lỗ là Mã Siêu có ý làm phản. Trương Lỗ nghe lời
xúc xiểm của Dương Tùng sai Dương Vệ đóng chặt cổng thành đề phòng Mã Siêu làm
phản, hơn nữa cũng nghe lời Dương Tùng sai người đến đặt điều kiện với Mã Siêu,
hạn định trong một tháng phải làm được ba việc : một là phải lấy được Tây Xuyên,
hai là, phải lấy thủ cấp của Lưu Chưong, ba là, phải đánh đuổi được đại quân
Kinh Châu.
Không
còn cách nào khác Mã Siêu đành phải lui binh. Nhưng khi đến cổng thành biên
giới, Trương Vệ dứt khóat không mở cổng thành cho vào vì nghe Dương Tùng phao
tin rằng Mã Siêu có ý làm phản. Lúc này Mã Siêu trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng
nan, Gia Cát Lượng phái Lý Khôi trước đây đã có quan hệ với Mã Siêu, đến gặp Mã
Siêu và thuyết phục được ông đầu quân cho Lưu Bị.
Sự
kiện Mã Siêu đầu quân cho Lưu Bị được sử sách và các nhà nghiên cứu đánh giá đây
là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời binh nghiệp của Mã Siêu. Tam Quốc chí nhận
định rằng Mã Siêu đã "ngược đường về với đức, gởi gấm vào phượng, nương tựa vào
rồng”.[35]
Trong
Tam Quốc diễn nghĩa cũng hư cấu lời bộc bạch của ông[34]:
"Nay
mới gặp được minh chúa, ví cũng như quét đám mây mù mà trông thấy trời
xanh.”
Các
nhà nghiên cứu cũng đồng ý với ghi nhận này, đồng thời khẵng định thêm Mã Siêu
đã không phụ tấm lòng trông đợi của Lưu Bị, ngoài trận mạc lập được nhiều chiến
công hiển hách[32] và được Lưu Bị trọng dụng, tấn phong nhiều chức
tước.
8.Hổ
tướng nhà Tây Thục
Sau
khi bỏ Trương Lỗ về với Lưu Bị, Mã Siêu đã được Lưu Bị hoàn toàn tin cẩn giao
nhiều trọng trách quan trọng đồng thời cũng tấn phong nhiều chức tước cho ông.
Mã Siêu đã góp sức cho Lưu Bị xây dựng cơ đồ nhà Thục Hán, lập nhiều công lao và
trở thành Ngũ hổ tướng vang danh sử sách.
8.1.Đánh
Thành Đô
Mã
Siêu sau khi bất mãn với Trương Lỗ, hay tin Lưu Bị đang đánh Thành Đô liền bí
mật viết thư xin đầu quân, sau đó, ông bỏ vợ con chạy theo lối Vũ Đô, qua nơi ở
của rợ Đê để vào đất Thục, đến ngoại thành Thành Đô nơi Lưu Bị đang đóng quân.
Ông cũng dẫn quân đội của mình đến Thành Đô để trợ
chiến.[36]
Sử
sách chép lại, Lưu Bị đang vây đánh Thành Đô khi nghe tin Mã Siêu đến đầu quân,
cười lớn và nói rằng [1]:
"Ta
tất lấy được Ích châu vậy!”
Khi
Mã Siêu đến nơi, Lưu Bị sai người nghênh đón Mã Siêu trọng thể, đồng thời ông ta
cũng sai người lên kế hoạch phối hợp, hỗ trợ cho Mã Siêu tiến đánh Thành Đô,
giành lấy công đầu. Theo kế hoạch này, Mã Siêu không vội tiến binh đến thẳng
Thành Đô mà đóng đối diện để phô trương thanh thế và uy hiếp trực tiếp Thành Đô,
đồng thời Lưu Bị cũng bí mật điều binh mã của mình giao cho Mã Siêu thống lĩnh
để tăng cường lực lượng.[1]
Chiến
dịch tiến đánh Thành Đô diễn ra một cánh chóng vánh, Mã Siêu sau khi được tăng
cường lực lượng lập tức thống lĩnh quân đội thần tốc tiến thẵng đến Thành Đô
đóng quân ở phía Bắc trực tiếp uy hiếp thủ phủ của Ích châu. Chưa đầy 30 ngày
Thành Đô đã được thu phục, thành chủ Lưu Chương lập tức đầu hàng vô điều kiện,
nhân dân vùng Ích châu rúng động.[36]
Sử
sách ghi chép lại: Siêu đến nơi, hạ lệnh đóng quân ở phía bắc Thành Đô, Siêu đến
chưa đầy một tuần[37] mà lòng người ở Thành Đô tan lở cả… Siêu tiến binh thẳng
đến dưới chân thành. Người trong thành hoang mang sợ hãi, Chương lập tức ra
hàng.[1]
Tam
Quốc diễn nghĩa Hồi 65 có mô tả thêm: Có tin báo Mã Siêu mang quân đến cứu, hiện
đã đến mé bắc thành rồi. Chương bấy giờ mới dám lên thành đứng xem, thấy Mã
Siêu, Mã Đại ở dưới thành gọi to lên rằng: "Mời Lưu Quý Ngọc ra đây nói chuyện”.
Chương đứng trên thành hỏi xuống. Siêu trỏ roi lên bảo rằng: "Ta vốn phụng mệnh
Trương Lỗ lại cứu Ích Châu. Nhưng không ngờ Trương Lỗ nghe lời Dương Tùng dèm
pha, muốn hại ta, nên ta đã theo về với Lưu hoàng thúc. Ông cũng nên nộp đất xin
hàng, kẻo để nhân dân khổ sở. Nếu còn mê hoặc thì ta đánh thành đây!”. Lưu
Chương nghe xong, mặt xám như gió, khí uất đầy ruột, ngã quay xuống mặt
thành.
Tam
Quốc chí còn chép chi tiết về sự kiện lãnh chúa Lưu Chương quyết định đầu hàng
Mã Siêu:[38] Năm thứ mười chín, tiến vây Thành Đô mấy chục ngày, trong thành còn
ba vạn tinh binh, lương thực vải vóc chi dùng đủ một năm, quan dân đều muốn tử
chiến. Chương nói:
"Cha
con ta ở Ích châu hơn hai mươi năm, không có ân đức gì với bách tính. Ba năm nay
bách tính chinh chiến triền miên, xương thịt phơi đầy đồng, ấy là vì Chương vậy,
sao ta có thể an lòng đây!”
Bèn
mở cửa thành ra hàng, quần thần chẳng ai không sa nước
mắt.
8.2.
Bình Tây tướng quân
Lưu
Bị theo đó vào tiếp quản Thành Đô, tiếp nhận địa vị của Lưu Chương đồng thời
tiếp quản Ích châu bước đầu xây dựng cơ nghiệp của nhà Thục Hán. Đồng thời ông
cũng phong chức tước cho các bề tôi đã chung sức xây dựng cơ
nghiệp.
Tam
Quốc chí chép[39]: Tiên Chủ (Tức Lưu Bị)lại lĩnh chức Ích Châu mục, Gia Cát
Lượng làm bầy tôi tay chân, Pháp Chính làm mưu sĩ, Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu
làm nanh vuốt, Hứa Tĩnh, My Trúc, Giản Ung làm Tân hữu … đều được dùng tin dùng
ở vị trí xứng đáng, tận dụng hết được tài năng. Những kẻ sĩ có chí, chẳng ai
không tranh đua cố gắng. Qua đó có thể thấy Mã Siêu được trọng dụng ngang với
Quan Vũ và Trương Phi khi ở dưới trướng của Lưu Bị.
Không
những vậy, vì Mã Siêu đã lập công đầu trong việc đánh chiếm Thành Đô, đồng thời
Lưu Bị biết rõ danh tiếng và võ nghệ của Mã Siêu, nên đặc cách phá lệ phong ông
làm Bình Tây tướng quân.[40] Tam Quốc chí chép: "Tiên chủ lấy Siêu làm Bình Tây
tướng quân, đốc xuất Lâm Thư, nhận tước Đô đình hầu.[41]
Tuy
vậy, việc Lưu Bị hậu đãi Mã Siêu khiến cho một số tướng tá bất bình. Quan Vũ lúc
này đang ở Kinh Châu nghe tin Mã Siêu theo hàng, vì trước đây không quen biết Mã
Siêu nên đã tỏ ra bất bình và viết thư cho Gia Cát Lượng hỏi rằng "Siêu là bậc
nhân tài nào, có thể so được với ai”.
Gia
Cát Lượng biết rõ Quan Vũ bề ngoài đòi so tài với Mã Siêu nhưng thực tế thể hiện
sự bất mãn việc Mã Siêu vừa mới tới nhưng đã được trọng dụng. Để bảo đảm đoàn
kết nội bộ, động viên Quan Vũ an tâm trấn thủ Kinh Châu, ông đã viết một bức thư
phúc đáp với nội dung không hạ thấp Mã Siêu nhưng lại ca ngợi Quan
Vũ.[42]
Trong
thư có đoạn:[43]
Mạnh
Khởi kiêm tài văn võ, hùng liệt hơn người, là hào kiệt một đời, ví như Kình,
Bành[44], xứng đáng tranh tài cao thấp với Dực Đức[45], chẳng thể so sánh được
với ông râu dài tuyệt luân siêu quần vậy”.
Quan
Vũ xem xong thư vô cùng đắc ý, đưa thư này cho tân khách cùng xem.[42][43][46]
Việc tấn phong cho Mã Siêu xem như tạm ổn.
Trong
Tam Quốc diễn nghĩa, tình tiết này được diễn tả hoàn toàn giống sử sách, chỉ có
khác biệt nhỏ là Quan Vũ sai Quan Bình đến Thành Đô bẩm lại với Lưu Bị rằng ông
nghe danh Mã Mạnh Khởi võ nghệ tuyệt luân nên muốn vào Xuyên để đọ sức cao
thấp.
Nhìn
chung, Mã Siêu luôn được Lưu Bị ưu ái, phong tặng nhiều chức tước và danh hiệu,
chính vì vậy không tránh khỏi một số quần thần bất bình, mặt khác có một số thư
tịch cổ đã ghi nhận rằng trong thời gian đầu khi về với Lưu Bị thì Mã Siêu có
phần tỏ thái độ chưa được kính trọng Lưu Bị, điều đó làm các thuộc hạ của Lưu Bị
bất bình và phản ứng giữ dội.
Tam
Quốc chí trích dẫn ghi chép của Sơn dương công tái ký cho
biết:
"Siêu
nhân thấy Bị hậu đãi mình, khi nói chuyện với Bị, thường gọi tên tự của Bị, Quan
Vũ nổi giận, đòi giết. Bị nói: "Người ta cùng quẫn mới theo về với ta, các khanh
phẫn nộ vì việc người ấy gọi tên tự của ta mà đòi giết đi, sao yên được lòng
người thiên hạ đây!” Trương Phi nói: "Như thế, cần phải làm cho hắn giữ lễ mới
được.”
Hôm
sau đại hội, mời Siêu vào, Vũ, Phi đều chống gậy cầm đao kính cẩn đứng hầu, Siêu
tìm chỗ để ngồi, chẳng để ý gì đến Phi, Vũ, chợt thấy hai người nghiêm trang
đứng đó, Siêu thất kinh, nhân vì thế chẳng dám gọi tên tự của Bị lần nào nữa.
Hôm sau than rằng: "Ta nay mới biết mình kém cỏi vậy. Gọi hẳn tên tự của chủ
nhân ra, khiến cho Quan Vũ, Trương Phi đòi giết ta.” Từ đấy về sau rất lấy làm
tôn kính Bị.”
Sử
gia Bùi Tùng Chi đã kịch liệt bác bỏ những ghi chép trên bằng những lập luận
phản bác rằng:
"Bởi
Siêu thế cùng mới theo về với Bị, chịu nhận tước vị, sao dám ngạo mạn mà gọi
thẳng tên tự của Bị ra? Vả lại khi Bị vào Thục, lưu Quan Vũ trấn thủ kinh châu,
Vũ chưa từng tới đất Ích châu. Việc Vũ nghe tin Mã Siêu quy hàng, đã gửi thư hỏi
Gia Cát Lượng rằng: "Siêu là nhân tài thế nào mà được đứng vào hạng ấy”, chẳng
đúng như việc chép ở chỗ này. Sao Vũ lại cùng với Phi cung kính đứng hầu được?
Phàm là người khi hành sự, đều biết việc gì nên làm, việc gì không nên, tất
chẳng dám làm vậy. Siêu nếu quả có gọi tên tự của Bị, tất được nhắc phải sửa
ngay. Cứ cho là Vũ đòi giết Siêu, Siêu vẫn chẳng hay, nhưng chỉ thấy hai người
đứng hầu ở đó, sao lại biết vì việc mình gọi tên tự của Bị, khiến cho Quan,
Trương muốn giết?".
Tuy
vậy, cũng cần thấy rằng với cá tính của Mã Siêu, uy danh, gia thế vốn có và
những chiến công hiển hách thì Mã Siêu có thể có những thái độ kiêu ngạo nhất
định như ghi chép của sử sách. Mặt khác, việc Mã Siêu được trọng dụng và cất
nhắc liên tục đã khiến cho nhiều tướng tá, quan lại dưới trướng của Lưu Bị bất
mãn là hoàn toàn có cơ sở.
Chính
việc các quần thần bất mãn và luôn dõi theo ông cũng góp phần làm cho ông dù nắm
binh quyền và có dã tâm nhưng cũng luôn phải dè chừng sự đối trọng, theo dõi và
luôn khước từ những đề nghị đảo chính mà luôn trung thành với Lưu
Bị.
Tam
Quốc chí có chép lại câu chuyện Mã Siêu tố cáo Bành Dạng mưu phản khi ông này
bày tỏ ý định với Mã Siêu dẫn đến cái chết của ông này.[47] Theo đó, Bành Dạng
là một viên quan bất mãn khi ở dưới trướng của Lưu Bị. Khi được điều chuyển ra
ngoài Thành Đô làm việc ở một quận nhỏ thì trong lòng không vui, bèn đến thăm Mã
Siêu.
Mã
Siêu hỏi Dạng rằng: "Ông tài năng đầy đủ, ưu tú hơn người. Chúa Công đối đãi rất
đặc biệt. Địa vị đang cùng với Khổng Minh, Hiếu Trực các người đều chân ngang
hàng cùng bước, lẽ nào lại phải ra ngoài nhận một quận nhỏ, làm lỡ làng niềm
trông ngóng của mọi người ngày nay vậy?"
Bành
Dạng trả lời rằng : "Lão Cách[48] lú lẫn ngang ngược, đáng để lại bàn đến
chăng!" và sau đó lại bày tỏ ý định với Mã Siêu rằng:
"'Ngài
ở ngoài, tôi ở trong, thiên hạ không đủ để an định hay
sao.”
Mã
Siêu vẫn bị theo dõi từ khi về với Lưu Bị, vẫn thường có ý lo sợ, nghe lời Dạng
rất kinh hoảng, lặng im không đáp. Dạng đi về, Siêu làm biểu kể rõ lời Dạng. Dựa
vào đó bắt Dạng giao cho Hữu ti. Bành Dạng ở trong ngục, trước khi hành quyết
còn trách Mã Siêu rằng: "Đến như lời nội ngoại[49] chỉ là mong khiến cho Mạnh
Khởi lập được công lao nơi các châu phương bắc, chung sức với Chúa Công, cùng
đánh Tào Tháo mà thôi, há dám có ý gì khác đâu? Mạnh Khởi giảng giải câu ấy
nhưng mà không phân biệt ý nghĩa bên trong, thật làm cho người ta phải đau lòng
vậy.[47]
8.3.Ủng
hộ Lưu Bị xưng vương và được tấn phong
Tháng
7 năm 219 Công nguyên, một trăm hai mươi viên văn võ dưới tay của Lưu Bị đã liên
danh dâng một tờ sớ cho Hán Hiến Đế, tôn Lưu Bị làm Hán Trung Vương. Gia Cát
Lượng sau khi thẩm định đã để cho Bình Tây tướng quân Mã Siêu đứng đầu danh
sách. Kế đó là các cựu thần của Lưu Chương, rồi mới đến Gia Cát Lượng và Quan
Vũ, Trương Phi … Thái độ coi trọng đó đã làm cho số người của Mã Siêu hướng về
Lưu Bị nhiều hơn và chứng tỏ tập đoàn Lưu Bị luôn có tinh thần đoàn kết cao
độ.[50]
Tam
Quốc chí chép đầy đủ thứ tự danh sách của những người này: Mùa thu, quần thần
tôn Tiên Chủ lên làm Hán Trung Vương, dâng biểu lên Hán Hiến Đế rằng: "Bọn thần
là Bình Tây tướng quân Đô Đình hầu Mã Siêu, Tả tướng quân Trưởng sử Trấn quân
tướng quân Hứa Tĩnh, Doanh tư mã Bàng Hi, Nghị tào Tòng sự Trung lang quân nghị
Trung lang tướng Xạ Viên, Quân sư tướng quân Gia Cát Lượng, Đãng Khấu tướng quân
Hán Thọ Đình hầu Quan Vũ, Chinh Lỗ tướng quân Tân Đình hầu Trương Phi, Chinh Tây
tướng quân Hoàng Trung, Trấn Viễn tướng quân Lại Cung, Dương Vũ tướng quân Pháp
Chính, Hưng Nghiệp tướng quân Lý Nghiêm tất cả một trăm hai mươi
người….[39]
Năm
219, sau khi Lưu Bị xưng Hán Trung vương, tổ chức bình công khen thưởng phong
cho năm vị Ngũ hổ tướng trong đó Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Hoàng Trung. Bốn
tướng quân tiền, hậu, tả hữu đời Hán là quân chức chính quy địa vị nổi bật. Bấy
giờ Lưu Bị cùng một lúc bổ nhiệm Quan Vũ làm Tiền tướng quân, Trương Phi làm Hữu
tướng quân, Mã Siêu làm Tả tướng quân, Hoàng Trung làm Hậu tướng quân.[7][42]
Như vậy nước Thục đã có Nước Thục có 5 vị đại tướng nổi tiếng: Quan Vũ, Trương
Phi, Mã Siêu, Triệu Vân, Hoàng Trung.
Tam
Quốc chí chép: "Tiên chủ xưng Hán Trung vương, phong Siêu làm Tả tướng quân, ban
cho Giả tiết”.[1]
Về
việc tấn phong lần này Gia Cát Lượng có ý kiến qua lại về việc bổ nhiệm Hoàng
Trung vì danh tiếng và uy vọng của Hoàng Trung từ trước đến nay không thể so
sánh ngang với Quan Vũ, Mã Siêu. Mã Siêu, Trương Phi ở Thành đô đều đích thị
nhìn thấy công lao của Hoàng Trung nên không ai trong số họ phản đối. Riêng Quan
Vũ thì Lưu Bị một lần nữa phải cử người giải thích.[42]
Tam
Quốc chí chép: Tiên chủ làm Hán Trung Vương, muốn dùng Trung làm hậu tướng quân.
Gia Cát Lượng thuyết Tiên chủ rằng: "Danh tiếng của Trung, không thể so với
Quan, Mã[51] mà nay lại được liệt ngang hàng. Mã, Trương[52] ở gần, đã chứng
kiến công lao của Trung, còn có thể khuyên bảo được; Quan chỉ nghe từ xa, sợ tất
chẳng bằng lòng, e rằng không thể khuyên bảo được”. Tiên chủ nói: "Ta tự có cách
phân giải”.[53]
Năm
221 Công nguyên, Lưu Bị sau khi xưng đế đã phong cho Mã Siêu làm Phiêu kỵ tướng
quân, phong thêm tước Uy Hương hầu (hay Sì Hương hầu), phụ trách chức Lương châu
mục để bảo vệ vành đai phía Tây của nhà Thục đối diện với khu vực của các dân
tộc du mục Tây Bắc Trung Quốc.
Tam
Quốc chí chép: Năm Chương Vũ nguyên niên thứ nhất, đổi thăng làm Phiêu kỵ tướng
quân, lĩnh chức Lương châu mục, lại phong thêm tước Uy Hương
hầu.
Lưu
Bị đã xuống chiếu ca ngợi công lao của Mã Siêu, nhấn mạnh trọng trách nặng nề
của ông. Chiếu viết rằng [1]:
Tướng
quân tín nghĩa lan toả đất Bắc, uy vũ sáng rõ tận Tinh châu, nay uỷ thác công
việc cho tướng quân, gánh vác trách nhiệm lớn lao, đốc trách kiêm quản trong vạn
dặm, biết đến nỗi thống khổ của muôn dân. Tuyên dương đức sáng của triều đình,
chăm sóc bá tánh gần xa, việc thưởng phạt phải thận trọng, dốc lòng vì Hán mà
tạo phúc, không phụ lòng kỳ vọng của thiên hạ”.
8.4.Qua
đời và được truy tặng
Năm
222, Mã Siêu bệnh mất, hưởng thọ 46 tuổi[54]. Trước khi chết, ông đã để lại bức
tâm thư cho Lưu Bị nói rằng cả nhà ông bị Tào Tháo giết gần hết nên gửi gắm cho
Lưu Bị chăm sóc cho em mình là Mã Đại là người cuối cùng của nhà họ
Mã.
Triều
đình nhà Thục Hán đã đáp ứng các yêu cầu của ông, Mã Đại được trọng dụng và bổ
nhiệm đến chức Bình Bắc tướng quân, lĩnh tước Trần Thương Hầu, con trai là Mã
Thừa được nối dõi chức tước, cơ nghiệp, con gái của ông được bố trí hôn nhân với
An Bình Vương Lý.
Tam
Quốc chí chép: Năm Chương Vũ nguyên niên thứ hai. Hai năm sau Siêu chết, khi ấy
mới có bốn mươi tuổi. Lúc chết, dâng sớ rằng:[1]
Trong
cửa nhà thần có hai trăm nhân khẩu, đã bị Mạnh Đức[55] giết sạch, chỉ còn người
em là Đại, gánh vác việc nối dòng huyết thống ăn lộc nối đời, xin ký thác nơi Bệ
hạ, dẫu nói cũng chẳng thể hết lời.
Mã
Siêu được triều đình truy tặng thuỵ hiệu là Uy hầu.[56] hàng năm, các Hoàng Đế
nhà Thục (Lưu Bị và Lưu Thiện) đều tổ chức truy thụy cho ông cũng như các Hổ
tướng khác.
Tam
Quốc chí có chép: Tháng chín mùa thu năm (Cảnh Diệu) thứ ba, truy thuỵ cố tướng
quân Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Bàng Thống, Hoàng Trung.[57] đồng thời sai
Dương Hí viết bài tán ca ngợi công lao của các
tướng.[58]
9.Gia
đình
Theo
sử sách thì Mã Siêu có ít nhất hai người vợ. Tam Quốc chí dẫn lại các thư tịch
cổ chỉ chép về người vợ lẽ của ông đã theo ông vào Hán Trung khi ông khởi binh
chống lại triều đình nhà Hán. Theo đó thì người vợ lẽ này được gọi là Đệ Chủng
và Đổng (chưa rõ là một người hay hai người). Sau khi Mã Siêu sang Thục, người
vợ lẽ này không thể đi theo nên phải ở lại Hán Trung nương nhờ Trương Lỗ. Sau
khi Trương Lỗ thất bại và đầu hàng Tào Tháo, Tào Tháo đã bắt được Đổng và ban
cho Diêm Phố.
Sử
sách còn cho biết thêm ông súyt nữa có một mối lương duyên với con gái của
Trương Lỗ khi ông này bày tỏ ý định muốn gả con gái của mình cho Mã Siêu. Tuy
vậy, cuộc hôn nhân này không thành vì Trương Lỗ nghe theo lời can ngăn của thuộc
hạ mà hủy bỏ lời tuyên bố này.
Theo
ghi chép của sử sách thì Mã Siêu có ba người con, hai người con trai là Mã Thu
và Mã Thừa, một người con gái[59] Mã Thừa là người con được kế thừa toàn bộ gia
sản và cơ nghiệp của Mã Siêu ở Thục. Mã Thu thì theo mẹ chạy sang Hán Trung khi
Mã Siêu chống lại triều đình, sau này bị Tào Tháo bắt được và giao cho Trương Lỗ
giết đi.
Tam
Quốc diễn nghĩa thì hưu cấu vợ của Mã Siêu là Dương thị và ba đứa con nhỏ đã bị
Lương Khoan, Triệu Cù chém chết quăng thây xuống dưới chân Kí Thành khi Mã Siêu
thua trận về đến đây và ông đã uất lên suýt ngã ngựa.[28]
Thời
gian gần đây có nhiều nghiên cứu[60] phát hiện được những hậu duệ của Mã Siêu ở
Armenia. Nhà sử học nổi tiếng Trung Quốc Tô Trọng Tường công bố tìm thấy hậu duệ
của Mã Siêu ở Armenia - quốc gia liên lục địa giữa châu Âu và Tây Nam châu Á.
Theo ông thì truyền nhân của Mã Siêu là Mã Kháng đã thoát được họa tru di, trốn
đi và phục hưng họ Mã ở tận Armenia, hình thành nên gia tộc Mamikonean lừng
danh.[61][62]
Một
số thông tin khác cho rằng, Mã Siêu còn có một người em gái là Mã Vân Liễu
(tiếng Hán: 馬雲騄,
phiên âm tiếng anh: Ma Yunlu), sau này được gả cho danh tướng Triệu Vân, như vậy
Mã Siêu là anh rễ của Triệu Vân.
Theo
nghiên cứu của ông thì vào đầu thế kỷ thứ III, có một nhánh người Trung Hoa di
cư sang Armenia. Người đứng đầu tên Mamik (tức Mamgon hay Mã Kháng),[cần dẫn
nguồn] tự xưng thuộc hoàng tộc Trung Hoa, do đắc tội nên phải trốn sang Ba Tư
(Iran ngày nay). Hoàng đế Ba Tư cho những người lánh nạn vượt về phía Tây đến
Armenia.[62][63]
Theo
Lịch sử Armenia, Hoàng đế Armenia phân phong cho Mã Kháng ở vùng Dalung, hình
thành nên gia tộc Mamikonean và là một gia tộc hùng mạnh vào thời cổ trung đại
của nước này, đến nay vẫn còn rải rác ở vùng Tây Á. Gia tộc này có công lớn
trong việc bảo vệ lãnh thổ, chống Ba Tư, giúp Armenia trở thành quốc gia đầu
tiên trên thế giới lấy Ky tô giáo là quốc giáo vào đầu thế kỷ thứ V. Các hậu duệ
trong gia tộc này như Gardan Mamikonean, Garan Mamikonean... đã trở thành anh
hùng dân tộc của Armenia. Năm 1991, Armenia đã lập ra huân chương "Gardan
Mamikonean” tặng cho những người có cống hiến đặc biệt cho độc lập dân tộc. Tại
thủ đô Yerevan còn có tượng người anh hùng Gardan Mamikonean.[cần dẫn
nguồn][62]
Nhìn
chung, về phần gia đình thì Mã Siêu thực sự là người bất hạnh, gia tộc của ông
hơn 200 nhân khẩu đã bị Tào Tháo giết chết, vợ con của ông thì ly tán và chết
trong chiến tranh. Cuộc đời Mã Siêu nữa đời chinh chiến, gia đình ly tán, mất
mát, có thể coi cuộc đời binh nghiệp của ông là hình ảnh thu nhỏ cho xã hội
phong kiến quân phiệt đương thời.[7]
10.Trong
Tam Quốc diễn nghĩa
Trong
tác phẩm Tam Quốc Diễn nghĩa, Mã Siêu xuất hiện tại hồi thứ 10 và ông được miêu
tả hoặc nhắc đến trong 21 hồi trên tổng số 120 hồi của Tam quốc diễn nghĩa. Tuy
vậy, Mã Siêu chỉ là nhân vật chính trong các Hồi thứ 58, 59, 64 và 65. Các hồi
còn lại Mã Siêu được đề cập rất mờ nhạt, chủ yếu là mô tả một đoạn hội thoại hay
kể lại một sự kiện về ông, thậm chí một số hồi chỉ đơn thuần là nhận xét rất
ngắn.
Tên
của ông được nhắc lại lần cuối cùng tại hồi thức 91 và 92, lúc này ông đã mất.
Mã Siêu mất khi Gia Cát Lượng trở về thắng lợi sau chiến dịch bình Nam Man và
chuẩn bị cho chiến dịch Bắc phạt. Hồi thứ 92 mô tả ngắn gọn "Khổng Minh mang
quân đến Miện Dương, qua mộ Mã Siêu liền sai Mã Đại mặc đồ tang rồi thân vào tế
bái. Đoạn về trại, bàn định việc tiến quân".
Trong
tác phẩm này, Mã Siêu được miêu tả chi tiết về ngoại hình trong tiểu thuyết này.
Ở đây, Mã Siêu được xây dựng trở thành một trong những mỹ nam tử đẹp nhất trong
thời Tam Quốc. La Quán Trung mô tả và ước lệ hóa Mã Siêu trở thành một vẽ đẹp
gần như tuyệt mỹ của một trang nam tử trẻ tuổi. Theo đó, ông vừa có sự kết hợp
gần như là hoàn hảo của dung mạo, thể hình và phong độ, vừa có cái đẹp của một
công tử dòng dõi thế gia lại vừa có cái đẹp mạnh mẽ, kiêu dũng của những chiến
binh, dũng sĩ của các bộ tộc miền quan ngoại. Ngoại hình của ông được đề cập đến
ít nhất ba lần ở ba hồi khác nhau.
Tại
Hồi thứ 10 miêu tả "là một viên tướng trẻ tuổi, mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như
sao, mình hổ tay vượn, bụng beo lưng sói, tay cầm một ngọn giáo dài, mình cưỡi
con ngựa đẹp". Tại Hồi thứ 58: "mặt như nhồi phấn, môi tựa thoa son, lưng hổ,
tay vượn, thế hùng lực mạnh, mình mặc áo giáp bạc, tay cầm ngọn giáo dài, cưỡi
ngựa đứng trước cửa trận" và Hồi thứ 65: "đầu đội mũ chỏm sư tử, mình mặc áo
giáp bạc, bào trắng, thắt đai Hổ Phù, mặt mũi khôi ngô, sức lực hơn người" và
khua trống om sòm sau đó khi Lý Khối đến thuyết khách, ông ta "ngồi chễm chệ
trên trướng".
Cũng
trong Tam quốc diễn nghĩa, Mã Siêu được miêu tả là một hổ tướng sức địch muôn
người, được Tào Tháo và Dương Phụ ví như Lã Bố tái thế, Khổng Minh so sánh với
Kình Bố, Bành Việt. Sức mạnh và sự uy dũng của ông được thể hiện trong những
trận chiến mà ông tham gia, đặc biệt là hai trận đánh tay đôi với Hứa Chử - viên
hổ tướng mạnh nhất của quân Ngụy và Trương Phi - Một trong Ngũ Hổ tướng của Nhà
Thục, cũng như được hiện lên qua lời bàn về ông của các nhân vật khác nhau trong
tác phẩm này.
Tác
phẩm có nói đến trận chiến giữa Tào Tháo với Mã Siêu và hai trận đánh giữa Mã
Siêu với Hứa Chử, Trương Phi cho thấy sức mạnh của ông. Hai trận đánh tay đôi
của Mã Siêu với Hứa Chữ và Trương Phi là một trong những trận đấu tướng hay
nhất, hấp dẫn và kịch tính nhất trong Tam quốc.
Tuy
vậy, qua tiểu thuyết tam quốc diễn nghĩa Mã Siêu về cơ bản được xếp vào hạng hữu
dũng, võ biền và hay nóng giận (dù sau này khi theo về với Lưu Bị đã trở nên
điềm đạm hơn rất nhiều) chứ không thực sự là trí dũng song toàn, là một võ tướng
chỉ đơn thuần dựa vào sức mạnh và uy dũng giống như Lã Bố.
Nếu
trong Tam quốc, La Quán Trung ưu ái dành ba đoạn để miêu tả về sức mạnh và vẽ
anh tuấn của ông thì La Quán Trung cũng cho ba nhân vật khác nhau nhận xét về
tính cách, cơ trí của ông. Giả Hủ cho rằng Mã Siêu "chỉ là một đứa dũng phu",
Dương Phụ cho rằng "Siêu tuy khỏe nhưng không có mưu" và Bàng Đức-Bộ tướng thân
tín của Mã Siêu nhận xét khái quát về ông là người"có khỏe không có
khôn".
Cũng
trong tác phẩm này, Mã Siêu được miêu tả như một võ tướng có lối đánh thần tốc
và liều lĩnh luôn xung phong đầu tiên trong những trận giao chiến nhưng cũng là
người đích thân đoạn hậu, luôn rút lui sau cùng để bảo vệ cho quân lính an
toàn.[64]
Chính
vì chưa đủ tầm trí tuệ để tham gia vào cuộc tranh hùng đầy khốc liệt trong thời
kỳ này vì thế cuộc đời binh nghiệp của Mã Siêu luôn gặp nhiều thất bại, liên tục
bị mắc mẹo, bị bội phải, chiêu dụ. Kết quả là vừa không báo được thù cha lại vừa
làm sụp đổ cả cơ nghiệp do gia tộc để lại và cuối cùng từ một viên thống lĩnh
quân đội phải long đong đầu quân cho Trương Lỗ và sau đó bị gièm pha, chèn ép
phải về đầu quân cho Lưu Bị.
Theo
Tam Quốc diễn nghĩa, chiến dịch quân sự đầu tiên có sự tham gia của ông là vào
năm năm 193, thứ sử Tây Lương Mã Đằng liên kết với Chinh tây tướng quân Hàn Toại
dẫn 10 vạn quân về Trường An để dẹp loạn Lý Thôi. Lý Mông, Vương Phương là hai
tướng cũ của Đổng Trác nay dưới trướng của Lý Thôi kéo quân ra nghênh
chiến.
Mã
Siêu (khi đó mới 17 tuổi) đi theo cha tham chiến đã xuất trận, dũng mãnh đâm
chết Vương Phương sau chưa đầy mười hiệp đấu, bắt sống Lý Mông. Lý Thôi, Quách
Dĩ thấy Mông, Phương cùng bị giết cả bấy giờ mới nghe theo lời Giả Hủ giữ vững
các cửa thành, mặc bên kia khiêu chiến thế nào cũng không ra. Quả nhiên chưa
được hai tháng, quân Mã Ðằng, Hàn Toại cạn lương, hai tướng phải bàn nhau rút
quân về.
Năm
211, Tào Tháo lấy danh nghĩa Thiên Tử triệu Mã Đằng về triều. Mã Đằng bèn tìm kế
phản Tào Tháo nhưng kế hoạch bại lộ, Mã Đằng và hai con Mã Hưu, Mã Thiết bị Tào
Tháo giết. Mã Đại là cháu Mã Đằng trốn về được báo cho Mã Siêu. Mã Siêu tức giận
hợp cùng Hàn Toại và các bộ tướng của ông ta kéo 20 vạn quân xâm nhập quan nội,
thẵng tiến Hứa Đô để báo thù cho cha.
Quân
Tây Lương chiếm được Trường An, rồi chiếm luôn ải Đồng Quan. Tào Tháo kéo quân
đến ải Đồng Quan bị Mã Siêu đánh đại bại, nhờ Hứa Chử cứu thoát, từ đó chỉ cố
thủ. Sau đó, Mã Siêu còn liên tục đánh bại quân Tào trong nhiều trận giao chiến
tay đôi làm cho Tào Tháo phải "cắt râu, vứt áo ở Đồng Quan, đoạt thuyền, tránh
tên ở Vị Thủy”. Mã Siêu cho quân tấn công liên tục nhưng gặp lúc mùa đông sắp
đến, Hàn Toại bàn với Mã Siêu rút quân về. Tào Tháo nhân cơ hội đó thực hiện kế
phản gián, khiến Mã Siêu đánh nhau Hàn Toại. Nhân lúc quân Tây Lương rối loạn,
Tào Tháo phản công, đánh bại Mã Siêu. Mã Siêu cùng Bàng Đức, Mã Đại với hơn ba
mươi kỵ binh đột phá vòng vây chạy thoát.
Năm
213, Mã Siêu trốn về Lũng Tây rồi đem quân đánh chiếm Ký Thành. Mã Siêu trọng
dụng Dương Phụ là tướng cũ của Ký Thành. Sau đó, Dương Phụ bất ngờ đánh úp Mã
Siêu, lại gặp Hạ Hầu Uyên trợ giúp Dương Phụ nên Mã Siêu chống cự không lại,
cùng Bàng Đức, Mã Đại đến Hán Trung đầu hàng Trương Lỗ.
Trong
cuộc chiến này mặc dù thất bại nhưng Mã Siêu cũng được La Quán Trung tái hiện
như một vị tướng dũng mãnh và có phần tàn nhẫn. Một mình ông trong một trận đánh
đã giết chết cả bảy anh em của Dương Phụ khi họ xúm vào vây đánh ông, đâm bị
thương Dương Phụ đến năm vết.
Năm
214, Mã Siêu nhận lệnh của Trương Lỗ tiến đánh ải Hà Manh để cứu viện cho Lưu
Chương đang bị Lưu Bị tấn công. Mã Siêu đến Hà Manh quan và có một trận giao
phong tay đôi kịch liệt với Trương Phi, sau Lưu Bị nhờ Lý Khôi theo kế Khổng
Minh đến dụ hàng Mã Siêu. Mã Siêu liền bằng lòng quy thuận, Lưu Bị đích thân đi
đón rước, đãi vào bậc thượng tân. Cuối cùng, Mã Siêu đem quân đến Thành Đô, buộc
Lưu Chương ra hàng, Lưu Bị chiếm được Ích Châu, phong Mã Siêu làm Bình Tây tướng
quân thống lĩnh toàn bộ kị binh.
Năm
219, Lưu Bị chiếm Hán Trung và giao tranh với Tào Tháo, Gia Cát Lượng cử Mã Siêu
(lúc này đang đóng quân ở Hạ Biện) cùng Ngụy Diên đem quân tấn công Tào Tháo khi
ông ta đang đóng quân tại Hán Trung. Tam Quốc diễn nghĩa cũng kể dưới trướng Mã
Siêu có tướng Ngô Lan và Nhâm Quỳ, hai tướng vì ham lập công đánh Tào nên đã bị
Tào Hồng đánh bại. Mã Siêu trách phạt, đồng thời ra lệnh quân sĩ giữ chặt cửa
ải. Sau đó khi quân Thục tấn công quân Tào, trong trận này Mã Siêu đã lập công
khi phối hợp với Ngụy Diên tập kích quân Tào Tháo và sau đó là cướp doanh trại
của quân Tào.
Sau
đó, Lưu Bị phong tước cho Mã Siêu, ông chính thức trở thành Ngũ hổ tướng, ngang
hàng với Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung. Tiếp đến, sau khi được
thăng chức Phiêu kỵ đại tướng quân, Mã Siêu được Gia Cát Lương cử cùng với Ngụy
Diên trấn giữ Hán Trung, đề phòng quân Ngụy xâm nhập. Cũng trong thời gian này,
Mã Siêu đã tố cáo và phá vỡ âm mưu làm phản của Bành Dạng, giành được sự tín
nhiệm của triều đình.
Hồi
81, khi Lưu Bị chuẩn bị đánh Đông Ngô, ông sai thừa tướng là Gia Cát Lượng trông
nom thái tử ở nhà giữ hai Xuyên và sai phiêu kỵ tướng quân Mã Siêu và em là Mã
Đại hiệp trợ với trấn bắc tướng quân Nguỵ Diên giữ Hán Trung để địch quân
Nguỵ.
Năm
Kiến Hưng thứ nhất (223), mùa thu tháng tám, quân Phiên do Phiên vương Kha Tỵ
Năng chỉ huy mười vạn quân Khương chiếm ải Tây Bình, uy hiếp nhà Thục, Gia Cát
Lượng đã cho mang hịch ra sai Mã Siêu giữ vững cửa ải Tây Bình, mai phục bốn đạo
quân tinh nhuệ, hàng ngày luân phiên nhau chống cự. Mã Siêu vốn gốc tích ở Tây
Xuyên xưa nay được lòng người Tây Khương lắm, ở đấy họ gọi Mã Siêu là thần oai
thiên tướng quân. Quân Tây Phiên ra cửa Tây Bình, thấy có Mã Siêu, vội vã rút
lui. Biên giới phía Tây của nhà Thục được giữ vững.
Khi
Khổng Minh Gia Cát Lượng thắng lợi trở về trong chiến dịch bình Mạnh Hoạch thì
nghe tin Mã Siêu mất, ông ta "thương tiếc lắm, khác nào gẫy mất cánh tay”. Sau
Khổng Minh mang quân đến Miện Dương, qua mộ Mã Siêu liền sai Mã Đại mặc đồ tang
rồi thân vào tế bái. Đoạn về trại, bàn định việc tiến
quân.
10.1.Đại
chiến Hứa Chử
Trong
trận chiến ở Đồng Quan, Mã Siêu nhiều lần suýt bắt được Tào Tháo nhưng lần nào
Tào Tháo cũng nhờ có Hứa Chử cứu thoát. Từ đó, Tào Tháo và quân Ngụy ai cũng gọi
Hứa Chử là "Hổ hầu".
Mã
Siêu kéo quân đến nghênh chiến. Hứa Chữ xin ra đánh và thề quyết bắt sống Mã
Siêu. Tào Tháo chấp thuận, bèn cho soạn chiến thư. Mã Siêu nổi giận phê vào thư
là thề giết chết "con hổ dại".
Hôm
sau đôi bên kéo nhau ra dàn trận. Siêu sai Bàng Đức làm cánh tả, Mã Đại làm cánh
hữu, Hàn Toại áp quân đứng giữa. Siêu vác giáo ghìm ngựa trước cửa trận, gọi to
Hứa Chử ra giao chiến.
Hứa
Chử đã múa đao tế ngựa chạy ra. Mã Siêu vác giáo xông lại đánh. Hai bên đấu nhau
hơn một trăm hiệp, chưa phân thắng bại, mà ngựa đã kiệt sức. Hai người đều phải
trở về thay ngựa, rồi lại ra trận đánh nhau non trăm hiệp nữa, vẫn chưa ngã ngũ
ra sao.
Hứa
Chử nổi xung lên chạy ngay về, cởi cả áo giáp và mũ, mình trần trùng trục, vác
giáo tế ngựa ra quyết chiến. Hai bên quân sĩ rất sợ hãi. Đánh được ba mươi hiệp,
Chử ráng sức giơ đao bổ xuống đầu Mã Siêu. Siêu tránh ngay được, đâm luôn một
giáo vào giữa rốn Chử. Chử vội vàng quẳng đao, túm luôn ngọn
giáo.
Hai
người ngồi trên ngựa giằng nhau, Chử khoẻ quá, bẻ ngọn giáo đánh rắc một cái gãy
ngay làm đôi. Mỗi người cầm nửa cán giáo gãy, giọt nhau lộn bậy. Tháo sợ Chử
núng thế, sai Hạ Hầu Uyên, Tào Hồng ra đánh giúp. Bên này hai cánh quân thiết kỵ
của Bàng Đức, Mã Đại thấy vậy cũng xô cả vào đánh tới tấp. Quân Tháo rối loạn.
Cánh tay Hứa Chử bị trúng hai mũi tên. Các tướng hoảng sợ rút về trại, Siêu đuổi
riết đến bờ sông. Quân Tháo thiệt hại quá nửa. Tháo sai đóng chặt cửa lại, không
ra nữa.
Mã
Siêu về đến Vị Khẩu, nói với Hàn Toại rằng: Tôi chưa thấy ai đánh nhau dữ dội
như Hứa Chử, quả thực là "hổ dại”.
10.2.Đại
chiến Trương Phi
Năm
214, Mã Siêu cùng Bàng Đức, Mã Đại trốn thoát đến Hán Trung đầu hàng Trương Lỗ.
Sau đó, Lưu Chương là thứ sử Ích Châu cầu cứu Trương Lỗ giúp đánh Lưu Bị khi ông
này đưa quân vào Xuyên, đe dọa cơ đồ của Lưu Chương.
Mã
Siêu bèn đề nghị được lĩnh binh đi cứu Lưu Chương. Trương Lỗ cấp cho Mã Siêu hai
vạn quân cùng Dương Bách và Mã Đại kéo đến ải Hà Manh tấn công Lưu Bị. Trương
Phi nghe tin Mã Siêu kéo đến trước ải bèn xin Lưu Bị cho mình ra đánh nhau với
Mã Siêu. Khổng Minh dùng kế khích tướng Trương Phi phải mời Quan Vũ tới mới
chống cự được.
Trương
Phi nóng giận, quyết tâm chiến đấu, ông viết quân lệnh trạng và được cử làm tiên
phong, Ngụy Diên cũng được đi theo. Huyền Ðức lãnh hậu đội tiếp ứng. Quân hai
bên gặp nhau, Dương Bách đánh cùng Ngụy Diên, Dương Bách thua chạy, Ngụy Diên
trông thấy Mã Ðại lại ngỡ là Mã Siêu nên xông vào đánh lại giả thua, Ngụy Diên
đuổi theo bị Mã Ðại quay lại bắn một mũi tên trúng tay, Ngụy Diên phải chạy về.
Vừa lúc đó Trương Phi xông lên đánh bại Mã Đại. Lưu Bị ra lệnh thu quân, bảo
Trương Phi dưỡng sức đánh Mã Siêu.
Mờ
sáng hôm sau, Mã Siêu đã ra trận. Huyền Ðức nhìn sang thấy Mã Siêu đội mão Sư
Tử, thắt đai Hổ Phù, bào trắng giáp bạc lóng lánh, cầm giáo giục ngựa đi lại như
bay nên Lưu Bị rất thích viên hổ tướng này và thốt lên rằng "Người ta nói "Cẩm
Mã Siêu”, quả nhiên như thế”. Lưu Bị thấy Mã Siêu đang hăng cứ giữ Trương Phi
lại không cho xuống, chờ tới quá trưa thấy bên trận địa Mã Siêu có phần rời rạc,
mới cho Trương Phi xuống đánh.
Mã
Siêu thấy Trương Phi xuống ải, vẫy giáo một cái, lùi quân lại độ hơn trăm bước,
dàn trận. Sau đó, hai tướng khiêu chiến với nhau rồi lao chiến đấu với nhau như
hai con hổ, quân sĩ hai bên chỉ biết đứng nhìn. Hai bên đánh nhau hơn trăm hiệp,
chưa ai kém ai một nước nào. Lưu Bị đứng xem than rằng: "Thế mới gọi là hổ
tướng”. Sau đó vì Lưu Bị sợ Trương Phi mệt sức, có rủi ro gì chăng, vội vàng
khua chiêng thu quân.
Hai
bên về trận địa nghỉ chốc lát rồi Trương Phi chỉ buộc một chiếc khăn lên đầu,
xông ra thách Mã Siêu đánh tiếp. Mã Siêu cũng lập tức ra ứng chiến. Lưu Bị sợ
Trương Phi yếu thế, cũng cưỡi ngựa xuống ải, đến thẳng trước trận đứng xem. Hai
bên lại giao tranh hơn một trăm hiệp nữa, hai con ngựa đều mệt lừ mà hai tướng
lại càng đánh càng hăng hơn trước. Lưu Bị lại ra lệnh thu
quân.
Hai
tướng lại về trận mình nghỉ rồi Mã Siêu thách Trương Phi chong đuốc đánh ban
đêm. Lưu Bị ngăn cản nhưng Trương Phi đang hăng máu nên tiếp tục ra trận. Thế là
quân hai bên lại hò reo vang trời dậy đất, trăm cây đuốc được đốt lên, đốt hàng
trăm nghìn bó đuốc, sáng vằng vặc như ban ngày. Hai hổ tướng lại xông vào nhau
tranh thủ một còn một mất, dưới ánh đuốc chập chờn rồi lại lóe
sáng.
Ðang
đánh được hai mươi hiệp, Mã Siêu nghĩ ra một mẹo, liền quay ngựa chạy, Trương
Phi đuổi theo thì Mã Siêu ngầm rút cây trùy đồng bên mình dùng thế Hồi mã thương
mà vụt lại. Trương Phi tuy đuổi mà vẫn đề phòng nên tránh kịp cây trùy nặng cả
ngàn. Cân truỳ đồng chỉ bay sạt qua mang tai. Trương Phi lại quay ngựa chạy về.
Mã Siêu lại đuổi theo. Bất ngờ, Trương Phi bắn một phát, nhưng Mã Siêu thị lực
như thần, nhanh như chớp ngã người tránh né. Sau đó hai tướng tạm buông nhau ai
về trận nấy.
Lưu
Bị đứng ra hòa giải, đề nghị hai bên ngừng chiến và sẽ không truy kích. Mã Siêu
đồng ý và tự mình đi chặn mặt sau cho quân dần dần rút lui về. Về sau, Lý Khôi
theo kế của Khổng Minh đến dụ hàng được Mã Siêu và cuối cùng Mã Siêu kéo đến
Thành Đô bắt Lưu Chương đầu hàng, Lưu Bị chiếm được Ích
Châu.
11.Trong
văn hóa đại chúng
Bên
cạnh sử sách và tác phẩm kinh điển Tam Quốc diễn nghĩa, hình ảnh của Mã Siêu còn
được công chúng biết đến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như
truyền hình, ca kịch, trò chơi điện tử và truyện tranh.
11.1.Truyền
hình, cải lương
Hình
ảnh của Mã Siêu được tái hiện qua nhiều bộ phim truyền hình dài tập của Đài
truyền hình Trung ương Trung Quốc như: Tam Quốc diễn nghĩa (1994) và Tam Quốc
(2010). Trong bộ phim truyền hình Tam Quốc diễn nghĩa (1994), hình ảnh của Mã
Siêu (do diễn viên An Á Bình thủ vai) được tái hiện khá giống với nguyên tác.
Trong Tam quốc (2010) hình ảnh của Mã Siêu (do diễn viên Trần Dịch Lâm thủ vai)
được làm mới với mô típ của một chiến binh hoang dã hơn là một tướng quân trẻ
tuổi.
Ở
Việt Nam, hình ảnh của Mã Siêu cũng được tái hiện qua các vỡ cải lương như "Mã
Siêu báo phụ thù” của đoàn cải lương Minh Tơ vào năm 1989, với sự góp mặt của
tài tử Vũ Luân (trong vai Mã Siêu), Kim Tử Long (trong vai Đổng Thừa), Tài Linh
(trong vai Lý Tiểu Oanh), Chí Linh... Vở cải lương này cũng được giới thiệu đến
đông đảo công chúng và sau đó được tái bản và biểu diễn nhiều
lần.[65]
11.2.Trò
chơi điện tử
Mã
Siêu cũng là hình mẫu của các nhân vật trong các trò chơi điện tử đa dạng lấy
bối cảnh thời Tam Quốc.[66][67]
Trò
chơi đầu tiên có sự xuất hiện của Mã Siêu là trò Destiny of an Emperor (DoaE)
trên hệ máy Nintendo (NES) của hãng Capcom ở Nhật Bản. Người chơi ở Việt Nam
thường gọi dân giã là Tam Quốc chí. Đây là game theo thể loại hành động, nhập
vai hay đi cảnh. Trong Game này, Mã Siêu được xây dựng là một nhân vật có ngoại
hình hoàn toàn khác với Tam Quốc diễn nghĩa như: trọc đầu, râu ria xồm xoàm, mặc
áo giáp đen, bào xanh, tay cầm dao….
Một
trò chơi điện tử khác của Đài Loan là Sango Fighter trên hệ máy PS thì Mã Siêu
cũng được tái hiện.
Trò
chơi khác khá nổi tiếng là trò Dragon Throne – Battle of Red Cliff. Đây là trò
chơi trên máy tính cá nhân và theo thể loại chiến thuật, dàn trận. Trong Game
này, Mã Siêu được thiết kế giống với nguyên tác với khuôn mặt tuấn tú, áo giáp
và mũ đặc trưng của Trung Hoa. Nhân vật này xuất hiện trong ba màn, tuy nhiên
người chơi chỉ có thể điều khiển được nhân vật này ở màn "Occupie
HanZhong”.
Một
trò chơi nổi tiếng khác có xuất hiện Mã Siêu là mộtloạt seri game Dynasty
Warriors của hãng Koei ở Nhật Bản. Đây là trò chơi trên hệ máy Play Stations
(PS) với thể loại là Game hành động, nhập vai. Trong Game này, Mã Siêu xuất hiện
từ phiên bản DW2 đến DW7 và DW Orochi. Hình ảnh của ông được miêu tả một cách
phù hợp với Tam Quốc diễn nghĩa và có những đường nét cách tân hiện
đại.
Trong
Game này, Mã Siêu được xây dựng là một chàng thanh niên ở tuổi 20, có dung mạo
tuyệt đẹp và đựoc trang bị một bộ áo giáp tinh xảo. Đòn đánh cơ bản là Hồi mã
thương. Tuy vậy phiên bản DW6 thì có phần khác với các phiên bản trước đó khi Mã
Siêu được xây dựng như một chiến binh Châu Âu với mái tóc vàng rực, sử dụng một
thanh kiếm bản rộng và một ngọn thương vàng (khi lên
ngựa).
Ngoài
ra các game như Tam Quốc phân tranh, DW online…. Đều xây dựng hình ảnh Mã Siêu
theo nguyên tác Tam Quốc diễn nghĩa và có ảnh hưởng rõ rệt của Dynasty Warrior.
Đồng thời trò chơi Kessen II cũng có tái hiện hình ảnh về
ông
11.3.Trong
truyện tranh
Trong
các truyện tranh về đề tài Tam Quốc, Mã Siêu cũng được đề cập đến trong các nội
dung liên quan. Trong bộ truyện Tam Quốc chí của tác giả kiêm họa sĩ Hồng Kông
Lý Chí Thanh, Mã Siêu được vẽ lại theo đúng với nguyên tác Tam Quốc diễn nghĩa,
là một vị hổ tướng khôi vĩ, khoác bộ giáp oai vệ.
Một
manga nổi tiếng của Nhật bản về đề tài này là bộ truyện Chú bé rồng của tác giải
Yoshito Yamahara cũng tái hiện hình ảnh của Mã Siêu. Trong bộ truyện này, Mã
Siêu lần đầu xuất hiện ở Hứa Đô và đã có cuộc chạm trán với Kokichi, nhân vật
chính của truyện. Ông được mô tả như một vị hổ tướng dũng mãnh, cao lớn, có tài
cưỡi ngựa và có tuyệt chiêu múa đao nhanh như cánh quạt máy bay, đồng thời cũng
là người mã thượng, vui tính.
Một
bộ truyện khác của Trung Quốc cũng có đề cập về ông là Hỏa Phụng Liêu Nguyên
(tên tiếng anh là: The Ravages of Time) của tác giả Trần Mưu. Trong tác phẩm
này, Mã Siêu xuất hiện trong trận đánh thành Trường An (theo cha là Mã Đằng vào
kinh), ông được miêu tả là một thiếu niên trẻ tuổi, có sức mạnh vô địch, trên
khuôn mặt có vẽ nhiều hoa văn đen trắng. Trong truyện này, ông cũng là người đã
cứu Lã Bố khi ông này bị trúng phục kích trong một trấn
đánh.
11.4.Trên
mạng Internet
Vào
năm 2009, Báo tuổi trẻ cười (bản điện tử) đã tổ chức một diễn đàn với chủ đề: Ai
mạnh nhất Tam Quốc?. Đã có nhiều bình luận về nhân vật Mã Siêu, theo đó đều đánh
giá cao về ông ta là người có sức mạnh siêu quần. Có ý kiến cho rằng: Mã Siêu là
1 tướng đến sau Quan, Trương, Triệu nhưng cũng có uy tín rất lớn với lân bang.
Ông đã nhiều lần đánh cho Tào Tháo thất điên bát đảo. Trước khi đến với Lưu Bị,
ông nổi danh ở đất Thục, rất có uy tín đối với các tộc người thiểu số phía Nam
đất Thục. Nên sau khi chiếm Kinh Châu, nhằm ổn định tình hình phía Nam, Khổng
Minh đã phái ông trấn giữ phía Nam đất Thục. Thực tế cho thấy, trước khi ông
mất, phương Nam không xảy ra bạo loạn, tạo ra tình hình ổn định cho nhà Thục. Vì
vậy trong những chiến dịch Bắc phạt sau này ta không thấy ông xuất hiện. Sau khi
ông mất, mới xảy ra chiến loạn tại miền Nam đất Thục, với Man vương Mạnh Hoạch,
làm Khổng Minh phải đau đầu.[68]
12.Tài
liệu tham khảo
Tam
Quốc diễn nghĩa, Nguyên tác: La Quán Trung, dịch giả: Phan Kế
Bính
Tam
Quốc chí, Trần Thọ, chú thích: Bùi Tùng Chi
Tướng
soái cổ đại Trung Hoa, tập 1, Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân,
Nhà xuất bản Lao động và Xã hội, năm 2006
Những
nhân vật quân sự nổi tiếng thế giới, Kha Xuân Kiều, Hà Nhân Học, Nhà xuất bản
Thanh niên, năm 2003
Trí
tuệ Tam Quốc, Đỗ Anh Thơ, Nhà xuất bản Lao Động và Xã hội, năm
2009
Trí
tuệ Mạnh Đức Tào Tháo, Đỗ Anh Thơ, Nhà Xuất bản Lao động và Xã hội, năm
2009
Trí
tuệ mưu lược Gia Cát Khổng Minh, Luyện Xuân Thu, Nhà xuất bản Công an nhân dân,
năm 2006
Mười
đại Thừa tướng Trung Quốc, Lưu Kiệt (chủ biên), người dịch: Phong Đảo, Nhà xuất
bản Văn học, năm 2009
|
Mã
Siêu - Một trong ngũ hổ tướng của Lưu Bị |
13. Chú
thích
1^ a b c d e f g h i j
k l m n o p q r s t u v w x y Tam Quốc chí, Mã Siêu truyện, quyển 36
2^ quận Phù Phong có
hai bộ phận, Hữu Phù Phong và Tả Phù Phong
3^ Tam Quốc chí cho
biết ông nội của Mã Siêu là Mã Túc từ thời Hoàn Đế đã đến vùng Lũng Tây, sống
cùng với rợ Khương ở đó và lấy con gái rợ Khương, sinh ra Mã Đằng
4^ a b c d Tam Quốc
chí, Bàng Đức truyện, quyển 18
5^ Một số bản dịch là
Tư đãi Giáo uý
6^ Nguyên văn mà chữ
nang nang, có nghĩa là cái bọc, điều đó cho thấy vết thương đã nhanh chóng sưng
tấy vì mũi tên có tẩm thuốc độc
7^ a b c Trịnh Phúc
Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, Sđd, trang 675
8^ Là chức quan có
quyền can gián nhà vua, nói lên điều hay, lẽ phải với nhà vua, đàn hạch, chất
vấn nhà vua
9^ Trịnh Phúc Điền,
Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, Sđd trang 672
10^ a b c d Đỗ Anh
Thơ, Sđd, trang 135
11^ Chữ Thiên này có nghĩa
là "một bên”, chứ không phải là "trời” vì vậy Thiên tướng quân phải được hiểu
là vị tướng dứng tháp tùng hai bên tả, hữu chứ không phải là tướng nhà trời
12^ Tam Quốc chí, Thục
thư quyển 15, Dương Hi truyện
13^ Tam Tần: Hạng Vũ
diệt Tần, phong Chương Hàm làm Ung Vương, Tư Mã Hân làm Tắc Vương, Đổng Ế làm
Định Vương, gọi chung là Tam Tần. Đời sau thay đổi gọi Thiểm Bắc, Quan Trung,
Thiểm Nam là Tam Tần đây là địa bàn của Mã Siêu
14^ Tức vùng Tứ Xuyên
của Lưu Chương
15^ Tam Quốc chí, Thục
thư quyển 8, Hứa Tĩnh truyện
16^ nay thuộc phía Nam
tỉnh Thiểm Tây
17^ Kha Xuân Kiều, Hà
Nhân Học, Sđd, trang 88
18^ Trịnh Phúc Điền,
Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, Sđd, trang 672
19^ Lỗi chú thích: Thẻ
[ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên autogenerated14]
20^ Tam Quốc chí, Thục
thư, quyển 5, Gia Cát Lượng truyện
21^ Tam Quốc chí dẫn
lại ghi chép của Sơn Dương công tái ký
22^ Trịnh Phúc Điền,
Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, Sđd, trang 673
23^ Quang Thiệu, Quang
Ninh, trang 129
24^ Tam Quốc chí, Hứa
Chử truyện, quyển 18
25^ a b c Tam Quốc
diễn nghĩa, Mã Siêu truyện, quyển 36
26^ Tức là Hàn Tín và
Anh Bố, những danh tướng và công thần khai quốc của nhà Hán
27^ Tam Quốc chí,
Trương Cáp truyện, quyển 17
28^ a b Tam Quốc diễn
nghĩa, Hồi 64
29^ Tam Quốc diễn
nghĩa chỉ đích danh người đó là Dương Bách
30^ Tức ba quận là
Kinh Triệu (thủ phủ là Tràng An), quận Phù Phong phía bên phải Tràng An tức Hữu
Phù Phong (thủ phủ là Hàm Dương) và quận Phùng Dực ở bên trái Tràng An tức Tả
Phùng Dực (trung tâm là Đại Lệ)
31^ Tam Quốc chí, Thục
thư quyển 13, Lý Khôi truyện
32^ a b Luyện Xuân
Thu, Sđd, trang 153-157
33^ Một hiệp ở đây
được tính là mỗi một lần binh khí chạm nhau
34^ a b Tam Quốc diễn
nghĩa, Hồi 65
35^ Tam Quốc chí, Thục
thư, quyển 15, Dương Hí truyện
36^ a b Lưu Kiệt, Sđd,
trang 465
37^ Theo lịch cổ của
Trung Hoa, một tuần gồm 10 ngày, một tháng gồm ba tuần là hạ tuần, trung tuần
và thượng tuần
38^ Tam Quốc chí, Thục
thư, Lưu Chương truyện, quyển 1
39^ a b Tam Quốc chí,
Thục thư quyển 2, Tiên chủ truyện
40^ Quang Thiệu, Quang
Ninh, Sđd, trang 129
41^ Trước đây triều
đình nhà Hán đã phong cho Siêu tước này. Lúc ấy tước của Mã Siêu cao nhất, hơn
cả Trương Phi, Quan Vũ, chỉ kém mỗi Lưu Bị
42^ a b c d Quang
Thiệu, Quang Ninh, Sđd, trang 130
43^ a b Tam Quốc chí,
Quan Vũ truyện, quyển 36
44^ Tức Anh Bố, Bành
Việt là tướng giỏi của nhà Hán
45^ Tức Trương Phi
46^ Lưu Kiệt, Sđd,
trang 477
47^ a b Tam Quốc chí,
Thục thư quyển 10, Bành Dạng truyện
48^ Ám chỉ đến Lưu Bị
49^ Ám chỉ câu nói
trước đó
50^ Lưu Kiệt, Sđd,
trang 476
51^ Tức Quan Vũ, Mã
Siêu
52^ Tức Mã Siêu và
Trương Phi
53^ Tam Quốc chí, Thục
thư quyển 6, Hoàng Trung truyện
54^ Tam Quốc chí cho
biết lúc này ông 40 tuổi
55^ Tức Tào Tháo
56^ Chử uy trong chữ
"uy dũng”
57^ Tam Quốc chí, Thục
thư quyển 3. Hậu chủ truyện
58^ Tam Quốc chí, Thục
thư quyển 15, Dương Hí truyện
59^ theo nhà nghiên
cứu Tô Trọng Tường là Mã Vân Lộc
60^ Theo GS Tô Trọng
Tường
61^ Armenian Folk
Literature, John Mamikonean's History of Taron, History, Historical, Armenia,
Armenian, Iran, Iranian, Persia, Persian
62^ a b c Encyclopædia
Iranica | Articles
63^ China and the
Chinese according to 5-13th Century Classical Armenian Sources by Robert
Bedrosian. History, Historical, China, Chinese, Asia, Asian, Geography,
Armenia, Armenia...
64^ xem Hồi 10, hồi 64
và 65
65^ Cải Lương Việt Nam
- Bản Sắc Dân Tộc - cailuongvietnam.com | Trang nhất
66^ KOEI - 10 năm nhìn
lại thể loại game Tam Quốc
67^ Sắp xuất hiện
tướng Việt | Thanh Niên Online
68^
http://www.tuoitrecuoi.com/phorum/printthread.php?t=43014&pp=10&page=2