Tam Quốc Diễn Nghĩa » Hồi 35
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
T. Đình Thục Hán
Đại chiến Xích Bích
Quan Vũ
Quan Vũ
Mã Siêu
Hoàng Trung
Chu Du
Mã Tốc
Lưu Bị
Quan Vũ
Trương Phi
Lã Bố
Khương Duy
Bàng Thống
Cam Ninh
Cam Ninh
Chu Du
Chu Du
Đại Kiều
Đặng Ngải
Đặng Ngải
Điển Vi
Điêu Thuyền
Điêu Thuyền
Đổng Trác
Gia Cát Lượng
Gia Cát Lượng
Hạ Hầu Đôn
Hạ Hầu Đôn
Hạ Hầu Uyên
Hoàng Trung
Hoàng Trung
Hứa Chử
Khương Duy
Khương Duy
Lã Bố
Lã Bố
Lã Mông
Lã Mông
Lăng Thống
Lục Tốn
Lục Tốn
Lưu Bị
Lưu Bị
Lưu Tôn
Mã Đại
Mã Siêu
Mã Siêu
Mạnh Hoạch
Ngụy Diên
Pháp Chính
Quách Gia
Quan Bình
Quan Hưng
Quan Vũ
Quan Vũ
Tào Hồng
Tào Nhân
Tào Phi
Tào Tháo
Tào Tháo
Thái Sử Từ
Tiểu Kiều
Tôn Càn
Tôn Kiên
Tôn Quyền
Tôn Quyền
Tôn Sách
Tôn Sách
Tôn Thượng Hương
Tôn Thượng Hương
Triệu Vân
Triệu Vân
Trình Dục
Trương Bào
Trương Cáp
Trương Cáp
Trương Chiêu
Trương Liêu
Trương Liêu
Trương Phi
Trương Phi
Từ Hoảng
Từ Hoảng
Tư Mã Sư
Tư Mã Viêm
Tư Mã Viêm
Tư Mã Ý
Tư Mã Ý
Từ Thứ
Tuân Úc
Tuân Úc
Viên Thiệu
Vu Cấm
Sái Mạo & Tào Nhân
 
Tam Quốc Diễn Nghĩa
Nguyên tác : La Quán Trung
Dịch giả : Phan Kế Bính
Click here for English version
 
Hồi 35
Huyền Đức qua Nam Chương, gặp người ẩn dật;
Đan Phúc đến Tân Dã, tiếp chúa anh minh.
 

Lại nói Sái Mạo đang định quay về thì Triệu Vân đem quân đuổi tới. Nguyên Triệu Vân đang ngồi uống rượu, bỗng nghe có tiếng người ngựa xôn xao, vội chạy vào xem, không thấy Huyền Đức.


Vân giật mình ra ngay nhà khách, được tin Sái Mạo dẫn năm trăm quân ra cửa tây. Vân cấp tốc đem ba trăm quân cầm giáo cưỡi ngựa rượt theo, gặp ngay Sái Mạo. Vân hỏi:

- Chúa ta đâu?

Mạo nói:

- Sứ quân bỏ tiệc trốn, không biết đi dâu.


Triệu Vân là người cẩn thận, không hay hấp tấp, liền tế ngựa lên trước, trông xa thấy một cái suối rộng không còn đường nào khác, liền quay ngựa lại, thét hỏi Sái Mạo:

- Ngươi mời chúa ta đến dự tiệc, cớ sao lại dẫn quân đuổi theo?

Mạo đáp:

- Quan chức chín quận, bốn mươi hai châu huyện đều họp ở đây. Ta là thượng tướng, sao lại không đi tuần tra bảo vệ?

Vân lại hỏi:

- Ngươi bức chúa ta chạy đi đâu?

Mạo nói:

- Nghe nói sứ quân cưỡi ngựa chạy ra cửa tây, tôi đến đây chẳng thấy đâu cả.


Vân còn hoài nghi chưa biết thế nào, lại đến bên suối đứng ngắm mãi, thấy bờ bên kia có vệt ướt, bụng bảo dạ:

- Chẳng lẽ cả người lẫn ngựa nhảy qua được suối này?


Liền sai ba trăm quân tản ra bốn phía tìm kiếm cũng chẳng thấy dấu tích gì. Khi Vân quay ngựa lại thì Sái Mạo đã vào thành rồi. Vân tóm bọn lính gác tra hỏi chúng nói Lưu sứ quân tế ngựa ra cửa tây.


Vân định vào thành, nhưng sợ có mai phục, liền đem quân về Tân Dã.


Lại nói, từ lúc nhảy qua suối, Huyền Đức bàng hoàng như người ngây dại, tự nhủ: "Suối rộng thế mà nhảy qua được, há chẳng phải lòng trời?” Rồi cứ lần theo đường Nam Chương ruổi ngựa đi. Lúc mặt trời sắp lặn, gặp một chú bé chễm chệ ngồi trên lưng trâu, miệng thổi cây sáo, đương tiến lại.


Huyền Đức than rằng:

- Chú bé kia thật sướng hơn ta!

Rồi dừng ngựa lại đứng xem. Chú bé chăn trâu cũng họ trâu lại, hạ sáo xuống nhìn kỹ Huyền Đức một hồi rồi hỏi rằng:

- Có phải ngài là Lưu Huyền Đức phá giặc Khăn vàng ngày xưa không?

Huyền Đức lấy làm lạ, hỏi lại rằng:

- Cháu là trẻ nhỏ thôn quê, sao cũng biết tên họ ta?

Chú bé thưa:

- Trước cháu cũng không được biết. Nhân nhiều khi đứng hầu thầy tiếp khách, thấy nhiều người nói có ông Lưu Huyền Đức, mình dài bảy thước năm tấc, tay dài quá đầu gối, mắt trông thấy được tai, là người anh hùng đời nay. Nay gặp ngài đây, thấy hình dạng như đúc, cháu chắc ngài là ông Huyền Đức.


Huyền Đức hỏi:

- Thầy cháu là ai?

Chú bé đáp:

- Thầy cháu là Tư Mã Huy, tự là Đức Tháo, người ở Dĩnh Châu, đạo hiệu là Thuỷ Kính tiên sinh.

Huyền Đức hỏi:

- Thầy cháu hay kết bạn với ai?

Cháu bé đáp:

- Thầy cháu thường chơi với hai người ở Tương Dương là Bàng Đức Công và Bàng Thống.

Huyền Đức hỏi:

- Bàng Đức Công và Bàng Thống là người thế nào?

Chú bé đáp:

- Là hai chú cháu. Bàng Đức Công, tự Sơn Dân, hơn thầy cháu mười tuổi; Bàng Thống, tự là Sĩ Nguyên kém thầy cháu năm tuổi. Một hôm thầy cháu đương hái dâu ở trên cây, gặp Bàng Thống lại thăm, hai người ngồi chơi nói chuyện dưới gốc cây, cả ngày không biết mệt. Thầy cháu yêu Bàng Thống lắm, gọi là anh em.

Huyền Đức hỏi lại:

- Thầy cháu bây giờ ở đâu?

Chú bé chỉ tay, đáp:

- Nhà ở trong rừng trước mặt kia kìa.

Huyền Đức nói:

- Ta chính là Lưu Huyền Đức đây. Cháu đưa ta vào yết kiến thầy cháu.

Chú bé dẫn Huyền Đức đi. Ước được hơn hai dặm đến đầu nhà, Huyền Đức xuống ngựa, bước vào đến cửa trong, nghe có tiếng đàn du dương.


Huyền Đức bảo chú bé đừng báo vội, đứng lắng tai nghe. Bỗng tiếng đàn im bặt, một người bước ra tươi cười nói:

- Tiếng đàn đương êm dịu, bỗng nảy lên tiếng cao, tất có người anh hùng nghe trộm.

Chú bé trỏ tay và nói với Huyền Đức:

- Đây là Thuỷ Kính tiên sinh, thầy cháu đấy!

Huyền Đức ngắm kỹ thấy người dáng tùng, vóc hạc, dáng điệu thật là tiên cách vội vàng bước lên thi lễ. Lúc ấy quần áo Huyền Đức vẫn còn ướt. Thuỷ Kính nói:

- Ông hôm nay thoát được nạn to!

Huyền Đức rất lấy làm lạ.

Chú bé lại nói:

- Thưa thầy, đây là Lưu Huyền Đức.

Thuỷ Kính mời vào nhà, chủ khách cùng ngồi.


Huyền Đức thấy trên giá chất đầy sách vở, ngoài cửa sổ um tùm không trúc, một cái đàn để trên sập đá: một bầu thanh khí lâng lâng.

Thuỷ Kính hỏi:

- Minh công ở đâu đến?

Huyền Đức đáp:

- Tôi ngẫu nhiên đi qua chỗ này, may gặp tiểu đồng chỉ dẫn, được vào hầu ngài, lấy làm hân hạnh lắm.

Thuỷ Kính cười, nói:

- Ông không nên giấu, chính ông chạy nạn đến đây.

Huyền Đức liền thuật lại đầu đuôi vụ Tương Dương. Thuỷ Kính nói:

- Trông sắc mặt ngài, tôi biết cả rồi.

Lại nói Huyền Đức rằng:

- Tôi nghe đại danh đã lâu, sao đến nay vẫn còn long đong?

Huyền Đức đáp:

- Số tôi vất vả, mới đến nỗi này.

Thuỷ Kính nói:

- Không phải thế. Vì bên cạnh còn thiếu nhân tài đó thôi.

Huyền Đức nói:

- Bị tuy không có tài, nhưng văn thì có Tôn Càn, My Chúc, Giản Ung; võ thì có bọn Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, hết lòng phù tá, tôi cũng nhờ được sự giúp đỡ của họ nhiều.

Thuỷ Kính nói:

- Quan, Trương, Triệu đều là những người có võ nghệ địch nổi muôn người cả, nhưng chỉ tiếc không có người biết sử dụng những nhân tài ấy. Còn như bọn Tôn Càn, My Chúc là hạng bạch diện thư sinh, không có tài kinh luân tế thế gì.


Huyền Đức nói:

- Tôi thường vẫn khiêm tốn để cầu người hiền trong các nơi rừng núi, nhưng chưa gặp được ai thì làm thế nào?

Thuỷ Kính đáp:

- Ông Khổng Tử nói rằng: "Trong một cái ấp chừng mười nóc nhà thể nào cũng có người trung tín”. Sao ông lại bảo là chẳng có ai?

Huyền Đức nói:

- Bị này ngu dốt không hiểu, xin ngài chỉ bảo cho.

Thuỷ Kính nói:

- Ông có được nghe những câu ca dao của trẻ con ở các quận Kinh, Tương không? Ca dao nói rằng:

Khoảng năm tám chín vận lung lay
Năm thứ mười ba sạch mảy may
Hết thảy mệnh trời đã định trước
Rồng ẩn trong bùn cất cánh bay.

Ca dao ấy xuất hiện từ năm Kiến An thứ nhất. Đến năm thứ tám (hai trăm lẻ ba sau Thiên chúa), vợ trước Lưu Biểu mất, gia đình sinh ra lục đục, thế là ứng vào câu đầu: "Vận lung lay”. Câu thứ hai: "Sạch mảy may”, nghĩa là Lưu Cảnh Thăng sắp mất, văn võ tan vỡ, mỗi người một nơi, không còn gì cả. Hai câu sau: "Mệnh trời đã định trước” và "Rồng cất cánh bay” là ứng vào tướng quân đó.

Huyền Đức nghe nói giật mình, tạ rằng:

- Tôi đâu dám nhận câu đó!

Thuỷ Kính nói:

- Nay những bậc kỳ tài trong thiên hạ đều ở miền này. Ông nên đến tìm.

Huyền Đức vội hỏi:

- Kỳ tài ở đâu?

Thuỷ Kính đáp:

- Phục Long, Phượng Sồ, chỉ cần một trong hai người ấy cũng đủ bình định thiên hạ.

Huyền Đức hỏi:

- Phục Long, Phượng Sồ là người thế nào?

Thuỷ Kính vỗ tay, cười rộ nói:

- Được! Được!

Huyền Đức hỏi thêm. Thuỷ Kính nói:

- Bây giờ tối rồi, xin tướng quân hãy tạm nghỉ chân ở đây, ngày mai tôi sẽ nói chuyện.


Liền sai tiểu đồng làm cơm khoản đãi, dắt ngựa vào tàu. Huyền Đức ăn uống xong, vào nghỉ ở gian phòng bên cạnh; đêm nằm nghĩ lời Thuỷ Kính, trằn trọc mãi không ngủ được. Tới khuya, bỗng có tiếng người gõ cửa phòng giữa, đi vào, rồi nghe tiếng Thuỷ Kính hỏi:

- Nguyên Trực từ đâu đến?


Huyền Đức trở dậy nghe trộm, thấy tiếng người khách đáp:

- Lâu nay, tôi nghe nói Lưu Biểu là người yêu người thiện, ghét kẻ ác. Tôi đến yết kiến, té ra chỉ có hư danh thôi; vì hắn tuy biết yêu người thiện mà không biết dùng, biết ghét kẻ ác mà không biết bỏ. Cho nên tôi để lại thư từ biệt rồi đến đây.

Thuỷ Kính nói:

- Ông là ngưòi có tài vương tá, nên chọn người mà theo, sao lại khinh thân đến gặp Lưu Biểu làm gì? Vả anh hùng hào kiệt ở ngay trước mắt, chính ông không biết đấy thôi.

Người đó nói:

- Tiên sinh dạy phải lắm!

Huyền Đức nghe thấy thế, mừng lắm, nghĩ thầm người này chắc là Phục Long, Phượng Sồ đây, chỉ muốn ra gặp ngay, nhưng lại e hấp tấp quá.


Đợi đến sáng, Huyền Đức vào hỏi Thuỷ Kính:

- Đêm qua ai đến chơi đây?

Thuỷ Kính đáp:

- Bạn tôi đó.

Huyền Đức xin gặp. Thuỷ kính nói:

- Người ấy đã đi nơi khác tìm minh chủ rồi.


Huyền Đức hỏi tên họ người ấy, Thuỷ Kính chỉ cười ồ lên, nói: "Được! Được!” Huyền Đức lại hỏi đến Phục Long, Phượng Sồ, Thuỷ Kính cũng chỉ cười, nói "Được! Được!” Huyền Đức lại mời Thuỷ Kính ra giúp cùng phò nhà Hán, Thuỷ Kính nói:

- Tôi là người ở rừng núi, xưa nay chỉ chơi dông dài không đáng cho đời dùng. Đã có người khác tài gấp mười tôi đến giúp ông, ông nên đi tìm.


Đương nói chuyện, thấy bên ngoài có tiếng người ngựa xôn xao. Tiểu đồng vào báo có một tướng dẫn vài trăm quân đến nhà.


Huyền Đức nghe nói rụng rời, vội ra xem ai, thì là Triệu Vân. Huyền Đức mừng lắm. Vân xuống ngựa đi vào, nói:

- Đêm qua tôi về huyện không thấy chúa công, suốt đêm đi tìm. Hôm nay hỏi thăm mãi mới đến được đây. Chúa công nên về ngay, sợ có người đến đánh huyện.

Huyền Đức từ biệt Thuỷ Kính, cùng Triệu Vân lên ngựa về Tân Dã.

Đi chưa được vài dặm, thấy một toán quân đã kéo đến, trông ra thì là Vân Trường và Dực Đức; gặp nhau ai cũng mừng rỡ.

Huyền Đức kể lại chuyện nhảy qua suối Đàn Khê, mọi người đều kinh ngạc.


Về đến huyện, Huyền Đức cùng bọn Tôn Càn bàn bạc. Càn nói:

- Nên đưa thư nói việc ấy cho Cảnh Thăng biết.

Huyền Đức nghe lời sai ngay Tôn Càn mang thư sang Kinh Châu.


Lưu Biểu gọi vào hỏi:

- Ta mời Huyền Đức đến hội ở Tương Dương, cớ sao đương giữa tiệc lại bỏ trốn đi?

Càn trình thư lên và thuật lại đầu đuôi việc Sái Mạo lập mưu ám hại, Huyền Đức nhờ được ngựa nhảy qua Đàn Khê mới chạy thoát.


Biểu giận lắm, cho đòi Sái Mạo đến mắng:

- Sao mi dám hại em ta?

Rồi thét lôi ra chém.


Sái phu nhân ra van khóc xin tha, Biểu vẫn chưa nguôi giận. Tôn Càn thưa:

- Nếu minh công giết Sái Mạo, tôi e Lưu Huyền Đức khó lòng ở được chốn này.


Biểu trách mắng Sái Mạo thậm tệ, rồi mới tha tội; lại sai con trưởng là Lưu Kỳ cùng Tôn Càn sang Tân Dã xin lỗi Huyền Đức.


Kỳ vâng lệnh đến Tân Dã, Huyền Đức tiếp đón, mở tiệc thết đãi.


Rượu ngà say, Kỳ tự nhiên khóc; Huyền Đức hỏi vì cớ gì, Kỳ nói:

- Kế mẫu cháu là Sái thị thường vẫn có ý muốn hại cháu, cháu không tìm được kế nào để tránh vạ, xin thúc phụ dạy bảo cho.

Huyền Đức khuyên "Nên ở cho trọn đạo hiếu, tất không lo gì”.


Hôm sau, Lưu Kỳ khóc lóc từ biệt, Huyền Đức cưỡi ngựa ra tận ngoài thành, nhân tiện trỏ vào con ngựa đang cưỡi nói:

- Nếu không có con ngựa này, ta đã là người dưới suối rồi!

Kỳ nói:

- Đó không phải là sức ngựa, chính là phúc lớn của thúc phụ.

Nói rồi, hai người chia tay, Kỳ rỏ nước mắt mà đi.


Huyền Đức quay ngựa về thành, ngang qua chợ thấy một người đội khăn cát bá, mặc áo vải, thắt lưng thâm, đi giày đen, vừa đi vừa hát:

Thuở trời đất gặp cơn phản phúc
Lửa Viên Lưu đương lúc suy tàn
Lâu đài sắp sửa lật nghiêng
Một cây há dễ chống nên được nào?
Non sông có bậc anh hào
Muốn tìm minh chúa, chúa nào biết ta?


Huyền Đức nghe xong, nghĩ thầm rằng:

- Có lẽ Phục Long, Phượng Sồ đây chăng?

Liền xuống ngựa gặp mặt, mời về huyện, hỏi họ tên. Người ấy đáp:

- Tôi là người Dinh Thượng, họ Đan, tên Phúc, lâu nay vẫn nghe nói sứ quân có ý thu nạp những kẻ hiền sĩ muốn đến theo hầu; nhưng chưa dám vội vàng, nên đi rong chợ hát nghêu ngao để động đến tai ngài.


Huyền Đức mừng lắm, tiếp đãi vào bậc thượng khách.


Đan Phúc nói:

- Xin phép cho xem con ngựa ngài cưỡi vừa rồi.

Huyền Đức sai dắt đến, Đan Phúc nói:

- Đây có phải là ngựa Đích lư không? Tuy là thiên lý mã nhưng hay hại chủ, không nên cưỡi.


Huyền Đức nói:

- Việc ấy đã xảy ra rồi!

Lại đem chuyện Đàn Khê ra thuật cho Đan Phúc nghe.

Đan Phúc nói:

- Thế là cứu chủ chứ không phải hại chủ. Sau này thể nào nó cũng hại một chủ. Tôi có phép giải được cái tật ấy.

Huyền Đức hỏi phép gì, Đan Phúc nói:

- Ngài hãy đem ngựa này tặng cho người nào mà ngài vẫn thù ghét, đợi khi nó hại người ấy rồi, ngài sẽ cưỡi, tất không việc gì nữa.


Huyền Đức biến ngay sắc mặt nói:

- Ông mới đến đây, chưa dạy ta điều gì chính đạo, đã vội khuyên ta ngay một việc ích kỷ hại nhân. Bị đây không thể nào theo được.


Đan Phúc cười, xin lỗi:

- Lâu nay tôi vẫn nghe tiếng sứ quân là người nhân đức, nhưng chưa dám tin, nên mới đem lời ấy ra thưa.

Huyền Đức cũng bình tĩnh lại, đứng dậy xin lỗi:

- Bị đâu đã có nhân đức đối với mọi người, nay nhờ tiên sinh đến dạy bảo cho.


Đan Phúc nói:

- Tôi từ Dinh Thượng đến đây, nghe thấy người Tân Dã có câu hát rằng:

Tân Dã mục,
Lưu hoàng thúc.
Từ khi đến đây,
Dân được sung túc.

Thế mới biết nhân đức sứ quân lan truyền trong mọi người.

Huyền Đức cử Đan Phúc làm quân sư, để rèn luyện quân mã.


Lại nói, từ khi ở Ký Châu về Hứa Đô, Tào Tháo vẫn có ý muốn lấy Kinh Châu; Tháo sai Tào Nhân, Lý Điển cùng hàng tướng Lã Khoáng, Lã Tường lĩnh ba vạn quân đóng ở Phàn Thành, để uy hiếp Kinh, Tương và dò xét tình thế.

Một bữa, Lã Khoáng và Lã Tường về bẩm với Tào Nhân:

- Nay Lưu Bị đóng quân ở Tân Dã, chiêu binh mãi mã, tích luỹ lương thảo, chí hắn không nhỏ đâu. Cần phải trừ ngay mới được. Hai chúng tôi, từ khi hàng thừa tướng, chưa lập được chút công nào. Nay xin lĩnh năm nghìn tinh binh sang lấy đầu Lưu Bị về dâng.

Tào Nhân giao ngay cho hai anh em năm nghìn tinh binh kéo sang đánh Tân Dã. Thám mã phi báo Huyền Đức, Huyền Đức mời Đan Phúc đến bàn. Phúc nói:

- Không nên để giặc vào đến cõi: Phải sai Quan Công dẫn một đạo quân từ mé tả đi ra đánh đường giữa quân giặc; Trương Phi đem quân từ mé hữu đi ra đánh đường sau, còn chúa công đem Triệu Vân ra mặt trước đón đánh; nhất định phá được quân Tào.


Huyền Đức nghe theo, liền cho Quan, Trương đi trước, còn mình cùng Đan Phúc, Triệu Vân dẫn hai nghìn quân mã ra cửa ải đón đánh.


Đi chưa được vài dặm, đã thấy phía sau núi bụi bay mù mịt, Lã Khoáng, Lã Tường kéo quân đến. Hai bên dàn thành thế trận, Lưu Bị ra ngựa dưới cửa cờ, gọi to rằng:

- Kẻ nào dám xâm phạm vào đất ta?

Lã Khoáng ra ngựa đáp:

- Ta là đại tướng Lã Khoáng, vâng mệnh thừa tướng lại đây bắt sống mi.

Huyền Đức nổi giận, sai Triệu Vân ra. Hai bên vừa giao chiến vài hiệp. Triệu Vân đâm Lã Khoáng một nhát chết ngay dưới ngựa.


Huyền Đức thúc quân ập vào đánh chém. Lã Tường địch không nổi, dẫn quân chạy.


Đến nửa đường, một cánh quân xông ra đi đầu là đại tướng Vân Trường.


Đánh giết một hồi, quân Tường chết mất nửa, Tường cướp đường chạy thoát.


Chạy chưa được mười dặm, lại một cánh quân nữa chặn lối, đi đầu là đại tướng Trương Phi, chống xà mâu hét lớn:

- Có Trương Dực Đức ở đây!

Phi nhảy đến đâm Lã Tường.


Tường trở tay không kịp, bị Trương Phi đâm trúng chết ngay.


Quân Tào vỡ chạy tán loạn. Huyền Đức đem quân đuổi theo, bắt được quá nửa, rồi thu quân về huyện, trọng đãi Đan Phúc, khao thưởng ba quân.

Bọn bại quân về gặp Tào Nhân báo tin hai họ Lã đã bị giết, quân sĩ bị bắt rất nhiều. Tào Nhân giật nảy mình, bàn với Lý Điển.


Điển nói:

- Hai tướng chết vì khinh địch. Nay nên đóng quân lại, đừng điều động vội, rồi về báo thừa tướng đem đại quân đi đánh mới được.

Nhân nói:

- Không được. Nay hai tướng bị chết, quân mã lại thiệt hại nặng, ta nhất định phải báo thù. Liệu cái đất Tân Dã nhỏ như lỗ mũi này có cần phải phiền đến đại quân của thừa tướng?


Điển nói:

- Lưu Bị là bậc hào kiệt, chớ nên coi thường.

Nhân nói:

- Sao ông nhát thế?

Điển nói:

- Trong binh pháp có câu "Biết người biết mình, thì đánh trăm trận được cả trăm”. Tôi không nhát đâu chỉ sợ đánh không nổi thôi.

Nhân nổi giận, nói:

- Ngươi hai lòng sao? Ta quyết bắt sống Lưu Bị!

Lý Điển nói:

- Nếu tướng quân đi, tôi xin ở lại giữ Phàn Thành.

Nhân nói:

- Nếu ngươi không đi thì thật là hai lòng rồi!


Điển bất đắc dĩ phải cùng Tào Nhân điểm hai vạn rưỡi quân mã qua sông đến Tân Dã.

Thật là:

Phó tướng khinh thường đã bỏ xác
Tướng quân rửa hận lại ra quân.

Chưa biết phen này Tào Nhân, Lý Điển, được thua thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.


Tư Mã Huy & Bàng Thống & Bàng Đức Công


Trương Phi


Lã Khoáng & Lý Điển

 
Hồi này là hồi mào đầu cho việc Huyền Đức cầu Khổng Minh, Khổng Minh gặp Huyền
Đức vậy. Sắp sửa tả cảnh thảo lư của ông Gia Cát ở Nam Dương, nên tả trước cảnh trang viện của Thủy Kính ở Nam Chương để dẫn ra. Trước khi Khổng Minh làm quân sư cho Huyền Đức, đã có Đan Phúc làm quân sư để dẫn ra.

Hồi trước có Ngọc Long, Kim Phượng; hồi này có Phục Long, Phượng Sồ. Hồi trước có một chim sẻ, một cái đài; hồi này có một phượng, một rồng, ấy cũng là hồi trước gây mối cho hồi này vậy. Cuối cùng, một phượng một rồng chưa được nói rõ là ai. Không những Thủy Kính không chịu cho biết rõ tên họ của rồng của phượng, mà đến Đan Phúc cũng không chịu “khai” rõ tên họ thật của mình. Hai tiếng “Bàng Thống” đã từ miệng đồng tử nói ra giữa đường, mà Huyền Đức không biết người đó chính là Phượng Sồ. Hai tiếng “Nguyên Trực” đã được Thủy Kính gọi lên lúc đêm khua, mà Huyền Đức vẫn không biết người đó chính là Đan Phúc! Thật là ẩn ẩn hiện hiện như “người đẹp sau rèm châu”, không chịu xuất hiện toàn thân, chỉ lộ “nửa mặt hoa” khiến cho người ta rạo rực tâm thần, ngơ ngơ ngẩn ngẩn chẳng hiểu làm sao. Đến như ba tiếng “Gia Cát Lượng” thì trọn hồi không đả động đến. Người ta có cảm tưởng như đứng cách tường thoảng nghe chuỗi vàng chuỗi ngọc chạm nhau, thấp thoáng thấy nửa mặt hoa mà không được giáp mặt người đẹp. Dùng thuần “hư bút” như thế, thật là áng diệu văn vậy.

Triệu Vân ở hội Tương Dương, từ trong thành chạy ra Đàn Khê, rồi liên tiếp chạy đi tìm Huyền Đức mà không thấy, tình thế thật là gấp thay! Nếu Trương Phi ở vào cảnh ấy, ắt đã đâm Thái Mạo một xà mâu! Nếu phải Vân Trường thì dù không giết, cũng phải túm lấy đầu Thái Mạo lôi đi tìm và bắt đền anh kỳ được, chứ đâu chịu buông cho yên thân mà về như thế? Thế mà Tử Long thì chỉ biết lo tìm kiếm. Tìm trong thành, ngoài thành, bờ khe… không thấy, lại quay về Dân Dã. Về Tân Dã không thấy Huyền Đức, lại tìm khắp nơi cho đến Nam Chương. Ba tướng cùng trung dũng như nhau, nhưng Tử Long quả là người cực kỳ thận trọng và tinh tế. Người nào có tính cách riêng của người ấy, chẳng ai giống ai vậy.

Huyền Đức thấy thịt đùi lại mọc mà than thở. Cử chỉ sao mà hùng tráng thế? Hồi này trên đường đến Nam Chương, gặp đứa bé chăn trâu thổi sáo ung dung đi tới, lại than rằng: “Đời mình thật không bằng nó!”, thì chẳng hóa ra chán cuộc vẫy vùng rồi sao? Tuy nhiên, trên lưng ngựa thật nguy nan, trên lưng trâu thật đủng đỉnh. Roi ngựa dài lật đật, ống tiêu ngắn thanh nhàn! Than ôi, long đong vất vả, nửa đời chinh yên lao khổ… sao bằng người xõa tóc nhàn du nơi núi rừng, cao giọng hát nghêu ngao bên khe suối, lấy thú tiêu dao làm thích chí? Thế thì bôn ba tranh thắng như Huyền Đức đã không bằng, mà chuốc lấy cái chết như Bàng Thống cũng không bằng, cúc cung tận tụy như Khổng Minh cũng không bằng nữa! Cho nên Thủy Kính tiên sinh thà chết già ở trong rừng núi Nam Chương, chứ không chịu ra kham việc đời vậy.

Huyền Đức vừa qua cơn sóng cồn gió thét, bỗng nghe tiếng sáo vi vu êm dịu của thằng bé chăn trâu, rồi nghe tiếng đàn dìu dặt thánh thót của vị ẩn sĩ, tùng trúc xanh um, hương trà ngát thoảng. Vừa thoát ra chỗ sấm ran chớp giật, bỗng đến chỗ thạch bàn yên tĩnh, hương trà ngát thoảng. Vừa kinh tâm táng đởm mà bỗng được tính khí nhàn thần, thì có khác gì qua nơi Nhược Thủy vào ngắm cảnh Bồng Lai, thoát nơi bể khổ mà vào chơi vườn Lãng Uyển? Có thể ngờ rằng mình lạc vào cảnh giới thần tiên vậy.

Đến như lúc canh khuy, nghe Thủy Kính với Nguyên Trực nói chuyện, thì phảng phất như Vương Tích Tân nghe tiếng hai mẹ chồng nàng dâu nhà tiên đánh cờ vậy. Tuy nghe rõ từng tiếng mà không thể đoán ra làm sao. Nghe được mà không hiểu được chỉ lắng tiếng mà không trông thấy, không thể gặp… Thật là huyền diệu thay!

Thủy Kính thuật lại câu đồng dao ở Tương Dương: “Nê trung bàn long hướng thiên phi” tức đã coi Huyền Đức là “rồng”. Trước đó Thái Mạo bịa ra bài thơ gán cho Huyền Đức cũng có câu: “Long khởi trì trung vật?” cũng là coi Huyền Đức là rồng vậy. Tô tử làm bài cổ phong “Đàn Khê” cũng có câu: “Ba trung hốt kiến song long phi”, lại có ý nói vị chân chúa như Huyền Đức là một rồng, con tuấn mã Đích Lư cũng là một con rồng nữa. Tuy nhiên chỉ biết vị chúa như rồng có con ngựa như rồng để cứu mình, mà không biết vị chúa như rồng không thể thiếu một kẻ sĩ như rồng để giúp mình. Nào rồng trong bùn nước, rồng giữa sóng gió, rồng nằm ao cạn… đã kể ra vô số chữ “rồng” đó… rút cuộc chỉ để dẫn ra một người là “rồng nằm” (Phục Long) vậy.

Thủy Kính tiến cử Phục Long, Phượng Sồ với Huyền Đức, mà lại không chịu nói rõ ràng hai người ấy là ai. Tiến cử như vậy cũng như chưa tiến cử. Nhưng tiên sinh không nói ra mà thực là cao thâm hơn tiến cử rõ ràng. Vì sao thế? Vì rằng người trịnh trọng, mà nói ra không được trịnh trọng, thì người nghe không biết là trịnh trọng. Phải làm ra vẻ trịnh trọng mà nói để thính giả biết rằng người mình tiến đáng trịnh trọng lắm.

Vì thế sau này mới có chuyện hết lòng tìm đến thảo lư (Khổng Minh) ba lần, và về sau không dám coi thường mà để người tài lớn (Bàng Thống) phải coi việc nhỏ trong vùng trăm dặm nữa. Như thế tức là không dám để người hiền tài phải tủi nhục vậy.

Xem đến chỗ Huyền Đức gặp Nguyên Trực (Đan Phúc) sao mà văn tự uyển chuyển khúc chiết thế? Khi ở trang viện Thủy Kính, hai bên không hề gặp nhau. Thủy Kính nói chuyện với Nguyên Trực không hề đá động tới Huyền Đức. Sáng hôm sau, nói chuyện với Huyền Đức, tiên sinh lại không hề nhắc đến Nguyên Trực. Khi Huyền Đức về Tân Dã, Nguyên Trực cũng không theo ngay sang yết kiến; cho mãi đến khi người dạo chợ hát rong, người ngồi trên ngựa gặp gỡ, rồi mới cùng về huyện nha.

Độc giả mới xem đến đoạn ấy, cứ tưởng hai người mới gặp nhau lần đầu, mà lại cũng không hợp nhau mới lạ. Còn có việc “coi tướng ngựa” xảy ra như một làn sóng. Một bên sắp thờ chúa, hãy thử lòng trước một chút xem sao. Khi đã rõ ý muốn thử nhau, hai bên mới vui vẻ hòa hợp. Thế mới biết người sơ suất vội vàng ắt không phải người giỏi. Văn kể chuyện mà khinh suất vội vàng thì không phải văn hay. Người đời hay viết tiểu thuyết mỗi khi thuật chuyện hai người gặp gỡ, cứ vội kể chuyện hòa hợp dễ dàng ngay, thật không được uyển chuyển, khúc chiết như đoạn văn nói trên. Cho nên càng đọc tiểu thuyết đời nay càng thấy bộ Tam Quốc Chí là hay vậy.
 
Hồi 34
Đầu trang
Hồi 36
 
BÌNH LUẬN BÀI NÀY
 
  Tên người bình luận ( * )
  Email
  Tiêu đề bình luận ( * )
Nội dung bình luận chi tiết ( * )    
 
 
Gửi đi
 
Soạn lại