1.
Tam Quốc Chí của La Quán Trung.
Tam
Quốc Chí Diễn Nghĩa, gọi vắn tắt là Tam Quốc Chí, của La Quán Trung là một tác
phẩm lớn của văn học Trung quốc, lớn về nhiều khía cạnh: hình thức, nội dung,
gía trị văn chương, và ảnh hưởng đối với dân tộc. Về hình thức, đó là một tác
phẫm đồ sộ gần hai ngàn trang. Về nội dung, đó là một truyện dã sử ghi dấu
khoảng thời gian ngót ba phần tư thế kể của thời " Tam Quốc" bên Tàu, với hàng
nhiều chục nhân vật chính và nhiều trăm nhân vật phụ. Các diễn biến, tình
tiết,... phức tạp và nhiều đếm không xuể, được ngòi bút La Quán Trung diễn tả
thần tình, sắc sảo, không rối loạn. Về gía trị văn chương cũng như gía trị tổng
quát, việc Thánh Thán chọn và xếp Tam Quốc Chí đứng đầu " thất tài tử thư" của
văn học Trung Quốc đủ là một bảo đảm (1).
Người
ta thấy rõ ảnh hưởng của Tam Quốc Chí đối với dân tộc Trung Hoa qua sự kiện nhân
vật Quan Vũ được người Hoa tôn lên hàng thánh và lập đền thờ. Trong hàng nhiều
trăm nhân vật của Tam Quốc Chí, người Hoa đời sau lọc ra 3 nhân vật đặc sắc nhất
gọi là 3 đại kỳ nhân: đệ nhất gian hùng là Tào Tháo, đệ nhất mưu trí là Khổng
Minh và đệ nhất trung nghĩa là Quan Vũ. Trong ba kỳ nhân đó, Quan Vũ được tôn
sùng hơn cả. Là nhân vật trong tác phẩm được La Quán Trung tô điểm, đưa lên hàng
thánh, Quan Vũ thực ra là một kẻ không có danh gì trong chính sử Trung Quốc.
Thời xưa ở miền Hoa Bắc người ta thờ Nhạc Phi và ở Hoa Nam người ta thờ Quan
Công trong võ miếu (2).
Sự
kiện một nhân vật tiểu thuyết được sùng bái, tôn thờ như vậy không phải chỉ hiếm
có trong lịch sử Trung Quốc mà còn hiếm có cả trong lịch sử nhân loại. Nhạc Phi
là một danh tướng có thực, từng chống xâm lăng phương bắc thời nhà Tống, được
người Hoa tôn thờ là điều có thể hiểu, nhưng Quan Vũ chỉ là một nhân vật tiểu
thuyết, hoặc nếu là một nhân vật thực thì cũng không có công trạng gì đối với
dân tộc Trung Hoa, tại sao lại được thánh hóa như vậy? Sự kiện này có một nguồn
gốc sâu xa trong lịch sử mà ta sẽ xét sau đây.
2.
Tại sao Quan Vũ được tôn lên hàng thánh?
Nhà
Thanh vốn là một dị tộc từ phương bắc xâm chiếm Trung Quốc và đặt nền cai trị.
Vào thời gian đầu người Hoa chống đối rất kịch liệt. Các tổ chức phản Thanh phục
Minh nổi lên ở nhiều nơi. Nhưng mấy vua đầu của nhà Thanh (Thuận Trị, Khang Hy,
Ung Chính và Càn Long) là những người thông minh, chủ trương gây thiện cảm với
dân bản xứ bằng chính sách cai trị mềm dẻo, và thực tình chăm lo cho dân được
sống yên ổn. Họ kiểm soát cẩn thận việc hành chính ở các địa phương, trừng phạt
các tham quan, diệt các tệ nạn hà hiếp dân, giảm thuế má, xá tù tội, giải phóng
ách nô lệ cho những kẻ bị bạc đãi vì thành kiến xã hội, v.v... (3). Đối với giới
sĩ phu họ mở nhiều khoa thi để tuyển chọn nhân tài cho tham dự việc cai trị. Tập
trung các danh sĩ về kinh đô để làm những công tác văn hóa đồ sộ, với hậu ý vừa
để dễ kiểm soát hành động, vừa để làm mất ý chí chống đối chính quyền, đồng thời
ngấm ngầm tiêu hủy những tác phẩm đề cao tinh thần dân tộc (4).
Chính
do những chủ trương này mà có chuyện thánh hóa Quan Vũ. Các hội kín phản Thanh
phục Minh chủ trương đề cao tinh thần trung nghĩa của Quan Vũ, lập miếu thờ để
làm chỗ ngụy trang cho các cuộc hội họp chống Mãn Thanh. Thanh triều (thời vua
Thuận Trị) bèn tương kế thổi phồng địa vị của Quan Vũ, đưa ông ta lên hàng
thánh, bằng cách giáng chỉ cho toàn quốc lập miếu thờ - kể cả ở Mãn Châu, nước
gốc của nhà Thanh. Vua Càn Long đẩy mạnh thêm sự sùng bái trong giới người Hoa
bằng cách sắc phong Quan Vũ là " Trung Nghĩa Vũ Thần Đại Đế" .
Việc
thờ Quan Vũ tiến thêm một bước biến thành thói cúng bái mê tín. Đền thờ Quan
Công lúc nào cũng có khói hương nghi ngút; người ta đến không phải chỉ để chiêm
bái mà còn để cầu may, xin phúc, thề thốt,..." Đức thánh Quan" trở thành một
thần linh được rước cả về nhà để thờ, và người thờ tin rằng " ngài" có thể ban
lộc, xá tội hoặc vật chết những kẻ nhạo báng! Người ta có thể thắc mắc: tại sao
biết các hội phản Thanh phục Minh dùng miếu thờ Quan Công làm nơi họp kín, chính
quyền nhà Thanh không cho quân vây bắt để tiễu trừ, hoặc cho gián điệp trà trộn
vào để phá vỡ mà lại chọn phương cách, có vẻ mâu thuẫn và khó hiểu, là thúc đẩy
thêm sự sùng kính Quan Vũ? Chính ở điểm này người ta nhận ra sự thông minh, khôn
ngoan và có phần thâm hiểm của bốn vị vua đầu của nhà Thanh. Họ đã chọn chiến
lược thổi phồng Quan Công để phá vỡ ý chí phục Minh của người Hoa một cách không
đổ máu thay vì chiến thuật khủng bố để tiêu diệt các tổ chức chống đối. Chiến
lược này vừa giảm căm thù trong lòng người Hoa vừa gây thêm thiện cảm vì đã đề
cao một nhân vật của dân bản xứ. Việc đề cao Quan Vũ, như vậy, vuốt ve tự ái dân
tộc cho người Hoa, lại tránh được sự đề cao tinh thần dân tộc vì Quan Vũ chẳng
là một anh hùng cứu quốc hay chống xâm lăng gì cả mà chỉ là một... nhân vật tiểu
thuyết! Sự mê tín, sùng bái Quan Công càng nhiều càng làm cho dân Hoa quên dần
chuyện phân biệt Mãn, Hán. Một sự kiện đáng lưu ý nữa là khi chiếm Trung Quốc,
cũng như thời gian sau đó, quân đội nhà Thanh rất hùng mạnh.
Các
vua Khang Hy, Ung Chính, Càn Long cho quân chinh phục nhiều nước lân bang, mở
rộng bờ cõi Trung Quốc, khiến đế quốc Trung Quốc chưa thời nào rộng lớn bằng.
Những tổ chức phản Thanh phục Minh vì vậy chỉ gây rối chứ không thể là mối đe
dọa sự nguy vong của triều Thanh. Và cũng vì thế Thanh triều đã chọn giải pháp
mềm dẻo đối phó với họ để thu phục nhân tâm. Những chủ trương khôn ngoan của 4
vua đầu nhà Thanh qủa thật đã được đền đáp xứng đáng: sau một thế kỷ rưỡi do
người Thanh cai trị, tinh thần bài Mãn của người Hoa đã giảm nhiều. Người Hoa đã
chấp nhận nhà Thanh như một dòng họ của Trung Quốc, nhiều nhân tài người Hoa như
nhóm Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, v.v.. đã thật tâm cộng tác với Thanh triều,
giúp đối phó với những khó khăn do các nước Tây Phương và Nhật Bản gây ra trong
thế kể thứ 19.
3.
Quan Vũ của Tam Quốc Chí.
Theo
Tam Quốc Chí của La Quán Trung, Quan Vũ tên chữ là Thọ Trường, sau đổi là Vân
Trường, quán làng Giải Lương, huyện Bồ Châu, tỉnh Hà Đông. Vì trót giết một kẻ
có thế lực nên sợ bị tù phải bỏ xứ mà đi. Quan Vũ cùng với Lưu Bị (thuộc dòng
hoàng tộc nhưng đã biến thành dân gĩa, làm nghề buôn dép và dệt chiếu) và Trương
Phi (một chủ quán bán thịt heo và rượu) kết nghĩa anh em để cùng chung lo việc
dẹp loạn và giúp nhà Hán gây lại uy thế. Trải qua nhiều gian khổ, nhờ có sự phụ
giúp tích cực của 3 quân sư Từ Thứ, Khổng Minh, Bàng Thống, nhất là Khổng Minh,
cùng các tướng tài Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung, Ngụy Diên, bộ ba
Lưu-Quan-Trương dành được đất Ba Thục ở phía tây Trung Quốc, cùng với họ Ngô ở
phía đông và họ Tào ở phía bắc lập thành thế chân vạc 3 nước Ngụy Thục Ngô, đó
là thời " Tam Quốc" bên Tàu (thế kể thứ 3). Sau khi lên ngôi Lưu Bị phong cho
Quan Vũ đứng đầu " ngũ hổ tướng" gồm Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu,
Hoàng Trung, và cho trấn ở Kinh Châu, căn cứ địa của Lưu Bị trước khi chiếm Ba
Thục.
Qua
bút pháp của La Quán Trung, Quan Vũ là một tướng có nhiều ưu điểm: giỏi cả võ
lẫn mưu, tính thẳng thắn, cương nghị, giữ lễ nghĩa, ân oán phân minh, biết phục
thiện, và luôn luôn tận trung với chủ. Nhưng cũng có nhiều nhược điểm như thiếu
thâm trầm, hiếu thắng, kiêu căng, thích được khen, ưa so đọ cá nhân,...
4.
Quan Công trong đại chúng người Hoa và người Việt
Tục
thờ kính Quan Công được người Hoa truyền sang Việt Nam. Đền thờ Quan Công ở Chợ
Lớn có đôi câu đối sau đây:
-
Sinh Bồ Châu, sự Dự Châu, trấn Kinh Châu, chiến Từ Châu, vạn cổ thần châu hữu
nhất;
-
Huynh Huỳnh Đức, đệ Dực Đức, thích Mạnh Đức, sát Bàng Đức, thiên thu thánh đức
vô song.
Dịch:
-
Sinh Bồ Châu, thờ Dự Châu, đóng Kinh Châu, đánh Từ Châu, vạn cổ thần châu chỉ
một;
-
Anh Huỳnh Đức, em Dực Đức, tha Mạnh Đức, giết Bàng Đức, ngàn năm thánh đức không
hai. (5)
Một
sự thật có thể làm ngạc nhiên nhiều người nhưng khó chối cãi là từ thời nhà
Thanh trở về sau người Hoa tôn sùng Quan Công hơn Khổng Tử nhiều! Khổng Tử chỉ
được giới sĩ phu, thuộc thành phần thiểu số, thờ ở văn miếu và hàng năm chỉ được
họ cúng tế một lần. Quan Công, trái lại, được đông đảo dân, có lẫn cả nhiều sĩ
phu, sùng kính, lập đền thờ ở nhiều nơi, thờ cả trong nhà, và cúng bái thường
xuyên.
Một
sự kiện khác mà Khổng Tử không thể nào sánh với Quan Công là sự kính chuộng của
đại chúng thể hiện qua sự trình diễn điển tích trên sân khấu, phương tiện quảng
bá hấp dẫn và hữu hiệu ở cổ thời. Không thấy có tuồng tích nào liên quan tới
tiểu sử Khổng Tử nhưng tiểu sử của Quan Công thì được đặt thành tuồng có đến một
chục vở! Có lẽ không có nhân vật nào khác của Trung Quốc có tiểu sử được soạn
thành tuồng tích nhiều như vậy! Việc diễn các tuồng về nhân vật Quan Công cũng
có chỗ lạ lùng so với những nhân vật khác. Trong các vở tuồng này người kép đóng
vai Quan Công phải giữ gìn thân thể sạch sẽ, kiêng cữ đủ thứ. Khi trang điểm để
ra tuồng phải tô mặt đỏ chót như son, đeo râu dài thâm thượt (6).
Trước
khi vai Quan Công xuất hiện lần đầu, từ trong cánh gà của sân khấu người ta phải
đốt một nén vàng lá để cúng, rồi người kép lấy một khăn che mặt, từ từ bước ra,
chờ cho nén vàng cháy hết mới được bỏ chiếc khăn để cho khán gỉa thấy mặt. Đó là
một dị đoan, một thói quen các ban tuồng đều giữ rất nghiêm, vì sợ nếu sai quấy
vai kép sẽ bị " ngài" vật chết! Có bao nhiêu tuồng tích về Quan Công ở Trung
Quốc thì không rõ nhưng trong giới tuồng Tàu, hát chèo cổ, hát bội ở Viết Nam có
thể kể ít vở sau đây:
-
Đào viên kết nghĩa, diễn sự tích Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi kết nghĩa anh em ở
vườn đào của Trương Phi.
-
Tam anh chiến Lã Bố, diễn tích ba anh em Lưu-Quan-Trương hợp sức đánh nhau với
Lã Bố.
-
Quan Công thất thủ Hạ Bì, diễn tích Quan Vũ bị Tào Tháo vây ở thành Hạ Bì, đành
phải hàng.
-
Quan Công phò nhị tẩu, diễn tích Quan Công dẫn hai chị dâu (Cam và Mi phu nhân,
hai vợ của Lưu Bị) về kinh đô sau khi thua ở Hạ Bì.
-
Quan Công qúa ngũ quan trảm lục tướng, diễn tích Quan Vũ bỏ Tào đi tìm Lưu Bị,
qua 5 cửa quan chém 6 tướng của Tào Tháo.
-
Hoa Dung tiểu lộ, diễn tích Quan Vũ đóng quân ở đường hẻm Hoa Dung, chặn đường
chạy trốn của Tào Tháo.
-
Quan Công đơn đao phó hội, diễn tích Quan Vũ cùng dăm cận tướng can đảm vác đao
qua sông gặp các tướng của Giang Đông ở bến Lục Khẩu.
-
Quan Công thủy chiến Bàng Đức, diễn tích Quan Vũ đánh nhau với Bàng Đức.
-
Quan Công cạo xương chữa thuốc, diễn tích Quan Vũ ngồi đánh cờ, đưa tay cho Hoa
Đà lóc thịt, cạo chỗ xương bị tên có nọc độc bắn trúng.
-
Quan Công hiển thánh, diễn tích Quan Vũ hiển linh ở núi Ngọc Toàn sau khi bị
Đông Ngô bắt và giết.
5.
Quan Vân Trường, một trung nghĩa đại kỳ nhân?
Khi
đề cập tới những ưu khuyết điểm của nhân vật Quan Vũ ta cần lưu ý là đang nói về
một nhân vật tiểu thuyết, những hay dở của nhân vật đó đều do ngòi bút La Quán
Trung tạo nên. Các dữ kiện, vì vậy, đều được rút ra từ tác phẩm Tam Quốc Chí. Vì
Quan Vũ được đề cao là đệ nhất trung nghĩa kỳ nhân nên trước hết ta hãy nhận xét
về hai đức tính " trung" và " nghĩa" của Quan Vũ; sau đó sẽ đề cập tới những ưu
khuyết điểm khác.
Vào
thời Tam Quốc, chữ " trung" được quan niệm ra sao? Thời Xuân Thu, Khổng Tử (giữa
thế kể thứ 6 trước Tây Lịch) quan niệm " trung" là giữ một lòng với vua, nhưng
vua phải ra vua. Nếu vua biết dùng " lễ" sai khiến bày tôi thì bày tôi phải "
trung" với vua (7). Về sau Tử Tư, cháu nội của Khổng Tử, nhấn mạnh thêm: vua
không phải chỉ cần giữ lễ với bày tôi mà còn phải kính trọng bày tôi nữa, có thế
bày tôi mới phải hết lòng trung với vua. Tới thời Chiến Quốc, Mạnh Tử (cuối thế
kể thứ 3 trước Tây Lịch) quan niệm mạnh mẽ hơn nữa: dân là quí, đất nước đứng
sau, vua là nhẹ. Bày tôi chỉ cần trung với vua nếu vua biết tôn trọng quyền lợi
của dân của nước. Nếu vua làm trái lại thì bày tôi có quyền trừ khử (8). Thời
nhà Hán, sau biến cố chôn nho đốt sách của Tần Thủy Hoàng, đám Hán Nho vì mục
đích siểm nịnh cầu vinh đã biến đổi quan niệm về " trung" thành hết lòng hết dạ
với vua một cách mù quáng (9).
Sống
ở thời Hán mạt (đầu thế kể thứ 3), Quan Vũ đã giữ chữ trung như thế nào? Hiến
Đế, vị vua cuối cùng của nhà hậu Hán, nhu nhược, luôn luôn bị những viên thừa
tướng khống chế cho đến lúc mất ngôi, một bóng mờ trong truyện Tam Quốc Chí, là
người Quan Vũ không có một cử chỉ hay hành động nào tỏ ra là muốn giữ lòng trung
cả. Chữ trung theo quan niệm của Khổng Tử không được Quan Vũ áp dụng ở đây. Trái
lại có một sự kiện chứng tỏ Quan Vũ đã không giúp nhà Hán, qua đại diện là vua
Hiến Đế. Tào Tháo làm thừa tướng, là một gian thần hiếp vua. Khi đánh Đông Ngô,
bại trận, phải dẫn đám tàn quân chạy vào đường hẻm Hoa Dung. Quan Vũ được lệnh
của quân sư Khổng Minh dẫn quân chẹn đường để tiêu diệt. Trước khi đi Quan Vũ đã
viết giấy cam kết nếu tha " quốc tặc" sẽ chịu chém đầu, thế mà khi nghe Tào Tháo
kể lể sự trọng đãi thuở trước Quan Vũ đã tha ngay cho họ Tào. Chỉ vì để đền đáp
tình riêng Quan Vũ đã bỏ trách nhiệm lớn lao chung, có ảnh hưởng tới vận mệnh
đất nước, và cơ đồ của nhà Hán. Trong Tam Quốc Chí, Quan Vũ có nói " giang sơn
của nhà Hán há nhường tấc đất cho ai?" nhưng đó chỉ là lời nói ngụy biện để khỏi
phải trả đất chứ không là " vì nước" .
Cuộc
khởi quân cùng Lưu Bị với mục đích mang lại ổn định cho dân nếu tạm coi là " vì
dân" thì có thể coi họ Quan được một phần nhỏ chữ trung theo quan niệm của Mạnh
Tử. Nhưng chữ trung này rất khiêm nhượng, không hơn gì một số nhân vật đồng
thời. Riêng đối với Lưu Bị, qủa thật trước sau như một, Quan Vũ hết lòng giữ dạ
sắt son. Dù đang được Tào Tháo hết sức trọng vọng, khi hay tin Lưu Bị ở với Viên
Thiệu là Quan Vũ đi tìm ngay. Cho nên có thể nói Quan Vũ hết lòng "trung thành
với chúa" là Lưu Bị. Nhưng Lưu Bị không bao giờ là vua của Trung Quốc, và lúc
lên tới tột đỉnh vinh quang họ Lưu cũng chỉ cai trị được một phần ba nước Tàu.
Vậy có thể hiểu là họ Quan đã giữ chữ trung theo quan niệm của đám Hán nho. Hiểu
như thế thì họ Quan cũng không hơn một số thủ túc thân tín khác của Lưu Bị như
Trương Phi, Triệu Vân, Khổng Minh, v.v...
Tóm
lại, xét nhân vật Quan Vũ và quan niệm về chữ trung trong thời đại của ông ta:
trung với dân, trung với nước, trung với vua và trung với chủ, Quan Vũ đã giữ
chữ trung sau cùng. Phải chăng đó là lý do người ta đã tôn ông lên hàng " đệ
nhất trung" ? Hay vì hậu ý thâm hiểm của nhà Thanh, đề cao một kẻ trung thành
với chủ lên hàng thánh để người Hoa sùng bái mà quên đi cái trung đối với dân
tộc và đất nước? Người viết nhận là nghiêng về lý do sau.
Đó
là đức trung của Quan Vũ, bây giờ ta xét tới đức " nghĩa" . " Nghĩa" theo nho
gia là điều làm hợp với đạo lý, với lẽ phải. Trong xã hội, con người làm trách
nhiệm của mình vì đạo lý mới gọi là đúng với nghĩa, nếu làm trách nhiệm vì lý do
khác, dù trọn vẹn, vẫn là không hợp nghĩa. Với quan niệm đó " nghĩa" đối lập với
" lợi" (10). Nếu làm trách nhiệm lớn lao hợp với đạo lý và ảnh hưởng tới đại
chúng thì gọi là " đại nghĩa" . Với quan niệm của " nghĩa" theo nho giáo thì
Quan Vũ chỉ giữ được điều nghĩa nhỏ giữa cá nhân với cá nhân, như nghĩa bằng
hữu, nghĩa chủ tớ, nhưng chẳng có gì gọi là " đại nghĩa" để xứng với cái danh đệ
nhất trung nghĩa kỳ nhân.
Sau
đây ta sẽ xét đến những ưu khuyết điểm khác của Quan Vũ.
-
Về " dũng" , Quan Vũ qủa thật là có ý chí, can đảm và sức mạnh. Về can đảm,
chuyện cắp đao sang phó hội ở Giang Đông, hay chuyện ngồi thản nhiên đánh cờ để
cho Hoa Đà lóc thịt trị thương là những thí dụ.
-
Về võ nghệ, sức mạnh có lẽ Quan Vũ chỉ thua duy nhất có Lã Bố.
-
Về " mưu" , Quan Vũ cũng có chút mưu lược, đôi lần bày mưu thành công. Nổi danh
nhất là mưu khơi nước sông Tương Giang làm úng thủy Phàn Thành do đó bắt được
hai tướng của quân Tào là Vu Cấm và Bàng Đức. Nhưng tính hiếu thắng, kiêu căng,
khinh địch cũng đã khiến Quan Vũ thành thấp mưu, bại trận, làm hỏng đại sự.
Chính việc thấp mưu, dốc quân đánh Phàn Thành, khinh thường tướng trẻ Đông Ngô
là Lục Tốn mà Quan Vũ đã làm mất Kinh Châu. Cho nên, về mưu, những thành công
nhỏ của Quan Vũ không đủ bù lại với cái thấp mưu to lớn làm mất đất và hại thân.
-
Về " trí" , Quan Vũ rất hẹp hòi, thiển cận tuy có biết phục thiện. Khuyết điểm
này cộng với tính hiếu thắng, kiêu căng, ưa được tâng bốc khiến Quan Vũ trở
thành kẻ nông nổi, ích kể, hám danh, khinh người, và khinh địch. Chính những
nhược điểm này dẫn đến cái chết của Quan Vũ, kéo theo một chuỗi biến cố tai hại,
nghiêm trọng: mất Kinh Châu, Lưu Bị và Trương Phi vì nóng lòng báo thù cho ông
ta nên cũng chết theo. Sau đây là vài dẫn chứng. Thói khinh địch khiến Quan Vũ
nhiều lần bị tên bắn. Một lần được Hoàng Trung tha chết, cố ý bắn tên vào chỏm
mũ. Hai lần bị trúng tên độc khi đánh Phàn Thành, chĩ vì thân đại tướng mà khinh
xuất. Là trấn thủ Kinh Châu, coi một vùng rộng lớn, trách nhiệm quan trọng, thế
mà chỉ muốn tỉ võ để thỏa mãn tính hiếu thắng. Nghe Mã Siêu được khen là một
dũng tướng, lúc đó đang ở với Lưu Bị tại Tây Thục, Quan Vũ bèn đòi tỉ võ với Mã
Siêu. Sau nhận được thư Khổng Minh vuốt ve tự ái " ...Mã Mạnh Khởi tuy hùng dũng
hơn người nhưng chỉ đáng xếp vào hạng Kình Bố, Bành Việt, đua tranh với Dục Đức
thì được chứ sánh sao được với ông râu đẹp..." Quan Vũ khoái chí đưa cho các
quan xem rồi vuốt râu cuời nói " Khổng Minh biết bụng ta lắm!" Lần khác, Quan Vũ
đang vây đánh Phàn Thành thì quân tiếp viện của phía Tào đến. Bị Bàng Đức (tướng
tiên phong của quân Tào) khiêu khích, Quan Vũ bèn giao việc đánh Phàn Thành cho
Liêu Hóa rồi vác đao ra đấu với Bàng Đức. Đấu mãi chẳng thắng được, lại còn bị
Bàng Đức gỉa bộ dùng thế đà đao, miếng võ ruột của Quan Vũ, rồi bất ngờ bắn tên
trúng vào cánh tay. Nếu Bàng Đức không bị Vu Cấm đố kị thì Quan Vũ đã chết dưới
đao của Bàng Đức rồi.
Thói
khinh người đến lố bịch của Quan Vũ được lộ ra trong hai trường hợp. Khi được
Lưu Bị phong đứng đầu ngũ hổ tướng Quan Vũ không chịu nhận, lấy cớ là không thèm
đứng chung danh với tên lính gìa Hoàng Trung! Đến khi được Phí Thỉ vuốt ve " ...
ông là em Hán Trung Vương, hay dở có nhau, phúc họa cùng chia, thì chức tước đâu
có đáng kể ..." , lúc đó bùi tai mới chịu nhận tước phong. Tôn Quyền là chúa
Đông Ngô muốn cầu thân với Quan Vũ bèn xin hỏi con gái của Quan Vũ cho con trai
mình. Quan Vũ trả lời " con gái ta ví như loài hổ, lại thèm kết duyên với loài
chó sao?" .(11)
Kiêu
căng, hiếu thắng là khắc tính của " nhẫn" , khinh người là khắc tính của " lễ" ,
cho nên có thể nói Quan Vũ không có hai đức tính này.
Đến
đức " nhân" , là yêu người, thương tha nhân, trong truyện Tam Quốc Chí chỉ thấy
Quan Vũ, với thanh long đao và ngựa xích thố, giết hết tướng này tới tướng khác.
Nhiều khi giết người chỉ để khoe võ công tài giỏi, để đền đáp ơn nghĩa riêng,
hoặc để chứng minh lòng trung thành với chủ là Lưu Bị, chứ không phải chiến đấu
với quân thù trên chiến địa. Việc Quan Vũ giết hai tướng Nhan Lương, Văn Sú của
Viên Thiệu là để đáp ơn nghĩa riêng với Tào Tháo, giết Sái Dương ở trước Cổ
Thành là để minh chứng với Trương Phi rằng mình vẫn trung thành với Lưu Bị.
Những việc có lợi cho bản thân mà hại đến sinh mạng người khác, như các sự việc
vừa kể, người có đức nhân không làm.
Nếu
căn cứ vào những sự kiện xẩy ra theo truyện Tam Quốc Chí của La Quán Trung thì
cái lầm lẫn to lớn nhất của Quan Vũ là việc tha Tào Tháo ở đường hẻm Hoa Dung.
Tuy chỉ là một lầm lẫn chiến thuật nhưng nó đã xoay chuyển cả cục diện thời hậu
Hán, và Quan Vũ làm việc này chỉ vì giữ " nghĩa khí vặt" , vì kiêu hãnh bản thân
mà quên đại nghĩa. Lầm lẫn lớn kế sau đó là việc gây thù oán với Đông Ngô, trái
hẳn với lời dặn chiến lược của Khổng Minh, với kế hoạch phòng thủ rút gọn trong
cẩm nang 8 chữ: " đông hòa Tôn Quyền, bắc cự Tào Tháo" . Quan Vũ đã làm ngược kế
hoạch đó. Đông thì bất hòa với Tôn Quyền và Bắc thì dốc toàn lực đánh Tào Tháo!
(Cự là chống đở, tức là thủ, chứ không phải tiến đánh, tức là công). Vì Quan Vũ
không đủ tài trí và mưu lược, lại thêm những nhược điểm kiêu căng, khinh địch
nên lầm lẫn chiến lược này đưa đến họa sát thân và gây mầm xụp đổ cho Ba Thục.
(12)
Cho
nên về nhân vật Quan Vũ, trong Tam Quốc Chí của La Quán Trung, ta có thể nói:
Quan Vũ chỉ biết trung với chủ mà ít lưu tâm tới trách vụ với dân, với nước. Chỉ
biết giữ nghĩa khí hẹp mà quên đại nghĩa. Có dũng nhưng mưu tồi. Trí đoản và
kiêu căng qúa lố. Không biết nhẫn, kém lễ và thiếu lòng nhân.
Ngoài
sự kiện nhà Thanh đề cao việc sùng bái Quan Công vì hậu ý chính trị như đã nói ở
trên không biết còn nguyên nhân nào khác không? Nhưng một đại tướng, gỉa sử là
một nhân vật có thật, có những lầm lẫn lớn lao đến làm hỏng đại cuộc, gây họa
sát thân mà được tôn lên hàng thánh phải kể là một sự lạ lùng. Thờ một nhân vật
tiểu thuyết với đầy dẫy những khuyết điểm như Quan Vũ lại càng lạ lùng hơn. Đến
như người Trung Hoa, một dân tộc thông minh đứng hàng đầu ở Á đông, lại có
chuyện thờ phụng, sùng kính một nhân vật như vậy mới thực là lạ lùng hi hữu
nhất!
Chú
thích:
(1)
Thánh Thán, nhà phê bình lừng lẫy nhất của thời cận kim ở Trung Hoa, đã đọc và
lọc ra từ rừng tác phẩm văn thơ Trung quốc, 7 tác phẩm ông cho là xuất sắc nhất,
xuất hiện theo thứ tự thời gian gồm có: Nam Hoa Kinh (Trang Tử), Văn Ly Tao
(Khuất Nguyên), Sử Ký (Tư Mã Thiên), Thơ Đỗ Phủ (Đỗ Phủ), Tây Sương Ký (Vương
Thực Phủ), Thủy Hử (Thi Nại Am) và Tam Quốc Chí (La Quán Trung). Về gía trị
Thánh Thán ca tụng Tam quốc Chí là " đệ nhất tài tử thư" .
(2)
Khổng Tử và 72 môn đệ được thờ trong văn miếu.
(3)
Vợ con những kẻ trộm cướp, tử tù; những kẻ nhiều đời làm đầy tớ; con cháu những
kẻ trước kia đầu hàng quân Kim ở đời Nam Tống;...
(4)
Những công việc đồ sộ về văn hóa này đã mang đến những tác phẩm lớn cho văn học
Trung Quốc như các bộ Cổ Kim Đồ Thư Tập, Bộ Văn Vận Phủ, Tứ Khố Toàn Thư, và
nhất là bộ Khang Hi Tự Điển. Đồng thời khi cho soạn Tứ Khố Toàn Thư nhà Thanh
cũng đã tiêu hủy 538 bộ sách, cộng 13862 quyển, có liên hệ tới tinh thần Hán tộc
(theo Trung Hoa Sử Cương của Đào Duy Anh).
(5)
Đôi câu đối này do cố thi sĩ Trần Doãn Lập đọc và nhớ được. Bồ Châu là quê của
Quan Vũ. Dự Châu là quê của Lưu Bị. Kinh Châu là nơi Quan Vũ trấn thủ. Từ Châu
là nơi đầu tiên Lưu Bị được trao chức thứ sử từ Đào Khiêm. Huỳnh Đức là tên chữ
của Lưu Bị, Dực Đức là tên chữ của Trương Phi, Mạnh Đức là tên chữ của Tào Tháo,
Bàng Đức là bộ tướng của Mã Siêu, sau theo Tào Tháo.
Về
cách dùng chữ, diễn ý, đặt câu phải nhận rằng đôi câu đối này thật hay. Nhưng "
vạn cổ thần châu hữu nhất" đã ghê, đến " thiên thu thánh đức vô song" thì thực
là qúa đáng!
(6)
Theo Tam Quốc Chí Quan Công có tướng mặt đỏ như son, râu dài hai thước, được Hán
Đế khen là " mỹ nhiệm công" , được Tào Tháo tặng túi gấm để bọc râu về mùa đông!
(7)
Sách luận Ngữ, chương Bát Dật, Vua Định Công nước Lỗ hỏi Khổng Tử " vua sai bầy
tôi, bầy tôi thờ vua, phải thế nào?" Khổng Tử đáp " vua sai bầy tôi phải biết
giữ lễ, bày tôi thờ vua phải hết lòng" . Vua sai bày tôi dựa vào lễ chứ không
dựa vào quyền, bày tôi thờ vua cốt ở trung không cốt ở nịnh. Cũng chương Bát Dật
sách Luận Ngử, Khổng Tử còn nói " kẻ thờ vua mà chỉ cố giữ nghi tiết (lễ) là kẻ
nịnh hót" (Sự quân tận lễ, nhân dĩ vi siểm gĩa)
(8)
Sách Mạnh Tử, chương Tận Tâm (hạ): Lấy dân làm qúy, xã tắc thứ yếu, vua là nhẹ,
nên có được lòng dân mới xứng làm thiên tử (Dân vi qúy, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh, thị cố đắc hồ kì dân nhi vi thiên tử).
(9)
Khổng Học Đăng, Phan Bội Châu, trang 159, 160, 161
(10)
Trong Luận Ngữ, chương Lý Nhân, Khổng Tử nói " quân tử biết rõ về nghĩa, tiểu
nhân biết rõ về lợi" (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi)
(11)
Đây có lẽ là điều kiêu ngạo lố bịch nhất của Quan Vũ. Tôn Quyền thuộc dòng giõi
danh tướng nhiều đời, lại là đương kim chúa tể Đông Ngô, sánh ngang với Lưu Bị,
nếu không muốn nói là hơn; còn Quan Vũ chỉ là một gã tử tội phải bỏ xứ bôn đào,
nhờ thời thế được làm trấn thủ vùng Kinh Châu (đất mượn của Tôn Quyền) mà khoe
con mình là loài hổ còn khinh con người là loài chó thì thật là qúa quắt!
(12)
Một sự kiện lý thú là cả hai lầm lẫn lớn lao của Quan Vũ đều do Khổng Minh cố ý
dàn xếp! Biết Quan Vũ có tính khí khái vặt mà Khổng Minh vẫn sai Quan Vũ chặn
đường Tào Tháo ở Hoa Dung; biết Quan Vũ không đủ tài đánh Tào Tháo mà Khổng Minh
vẫn khuyên Lưu Bị sai Quan Vũ đánh Phàn Thành.