|
|
Tào Tháo |
|
Ngoài tài nam chinh bắc chiến thống nhất phương Bắc cùng tài năng văn học, Tào Tháo còn có cống hiến to lớn cho cuốn binh thư nổi tiếng nhất của Trung Quốc – “Binh pháp Tôn Tử”.
Tào Tháo đã viết lời tựa cho “Binh pháp Tôn tử”, sử gọi là “Nguỵ Vũ Đế chú Tôn tử . Tự”, cũng là người đầu tiên viết lời chú cho cuốn sách này, giúp cuốn sách lưu truyền hậu thế. Đó chính là bản chú sớm nhất của “Binh pháp Tôn tử” hiện đại. Tào Tháo thuộc nằm lòng cuốn sách, lại biết ứng dụng hết sức linh hoạt. Trong cuộc đời binh nghiệp hơn ba mươi năm ròng của ông, tay không rời “Tôn tử”, lâm chiến càng không rời nó. Trong hơn một trăm trận đánh lớn nhỏ, cứ mười trận thì ông phải thắng tới chín, đặt cơ sở vững chắc cho thế cục thượng phong thời Tam quốc và cuối cùng thống nhất toàn quốc. Do vậy, sử sách trong lịch sử gọi Tào Tháo là nhà chính trị và nhà quân sự kiệt xuất.
Do bản cổ đại của “Tôn tử” không còn tồn tại đến ngày nay, nên có người cho rằng “Nguỵ Vũ chú Tôn tử” là do Tào Tháo nguỵ tạo nên. Tuy nhiên, năm 1972, bản sách thẻ tre của cuốn “Tôn tử” tìm thấy trong di chỉ lăng mộ thời Tiền Hán ở Lâm Nghi - tỉnh Sơn Đông đã chứng minh “Nguỵ Vũ chú Tôn tử” là bản thực, nhờ vậy mà rửa sạch được tiếng hiềm Tào Tháo nguỵ tạo binh thư.
Người chú giải “Tôn tử binh pháp” rất nhiều, phải xếp hạng nhất trong những cuốn binh pháp. Sau Tào Tháo, còn có Mạnh thị (Lương), Đỗ Hữu, Trần Hạo, Lý Thuyên, Đỗ Mục thời Đường, Vương Triết, Giả Lâm, Mai Nghiêu Thần, Hà Diên Tích và Trương Dự thời Tống, tổng cộng có 11 nhà chú “Binh pháp Tôn tử”, trở thành trước tác quân sự trứ danh khắp năm châu.
Lời tựa Tào Tháo viết có 197 chữ, muốn nắm được tường tận chỉ cần gói gọn trong 20 chữ trong ấy. Tào Tháo nêu rằng khi dùng “Binh pháp Tôn tử”, người chỉ biết dụng võ thì tất diệt mà kẻ chỉ biết dụng văn cũng vong. Tào Tháo đã thấy được văn trị cần thiết phải kết hợp với đấu tranh vũ trang mới thực hiện được mục đích thống nhất thiên hạ, chỉ nhờ cậy vào vũ lực đơn thuần hay vào văn trị đơn thuần thì bậc quân vương đều khó tránh khỏi bị diệt vong. Trong lời tựa, Tào Tháo chỉ dùng vỏn vẹn có 8 chữ “thẩm kế trọng cử, minh hoạ thâm đồ” làm lời tổng kết cho cao chiêu “vẽ rồng điểm mắt”. Ông cho rằng, nội dung trung tâm của tư tưởng quân sự trong binh pháp Tôn Tử là: nghiên cứu quân sự tường tận lập mưu cho kín kẽ (thẩm kế); thận trọng với từng hành động quân sự (trọng cử); vạch trận đồ rõ ràng (minh hoạ); tính toán sâu xa mọi ý đồ quân sự (thâm đồ). Cuối cùng kết luận là: bất khả tương vu. Cũng tức là không thể cố tình hiểu sai ý ấy đi được.
Tào Tháo dốc lòng nghiên cứu, viết nên bản chú văn cho “Binh pháp Tôn Tử” với gần 2 vạn chữ. Ngoài ra, các trước tác quân sự của Tào Tháo cũng nhiều vô vàn, như “Nguỵ Vũ Đế Thái Công âm mưu giải tam quyển”, “Nguỵ Vũ Đế Tư mã binh pháp chú” v..v…, đáng tiếc ngày nay đều đã thất truyền.
“Binh pháp Tôn Tử” giúp Tào Tháo thoát hiểm nguy, lập nên nghiệp lớn.
Ngoài việc chú giải “Binh pháp Tôn Tử”, Tào Tháo còn ứng dụng “Binh pháp Tôn Tử” vào cuộc đời binh nghiệp, dùng thực tiễn quân sự của ông làm phong phú thêm cuốn sách. Những ví dụ về việc này có rất nhiều, Tào Tháo cũng là nhà quân sự duy nhất dùng “Binh pháp Tôn Tử” để thống nhất thiên hạ trong vô số nhà chú giải kể trên.
Bạch Mã giải vây: xa tận chân trời, gần ngay trước mắt.
Hồi 25, 26 trong "Tam quốc diễn nghĩa" đã phác lại cảnh Quan Vũ chém Nhan Lương giết Văn Xú: Quan Vũ tay cầm Thanh Long đao, ngồi trên ngựa Xích Thố, phóng như bay vào doanh trại Viên Thiệu như đi vào chốn không người. Nhan Lương trở tay không kịp, bị chém nhào xuống ngựa. Văn Xú đấu với Quan Vũ không đầy ba hiệp, bị Quan Vũ cho một đao vào đầu, chém dưới mình ngựa. Ngần ấy uy thần thực quả làm người ta ngưỡng vọng! Nhưng khó hiểu là ở chỗ, đã biết Quan Vũ lợi hại làm vậy, mà tại sao trong khi chiến đấu với Tào Tháo, Quan Vũ lại thua trận mà hàng?
Đỗ Mục đời Đường đã thuật lại trận chiến ở Bạch Mã như sau: Tào Tháo cùng Viên Thiệu đụng độ nhau ở Quan Độ, Viên Thiệu phái bọn Quách Đồ, Nhan Lương đánh vào Bạch Mã, lúc bấy giờ người cầm đầu quân Tào là Lưu Diên không trụ được. Viên Thiệu dẫn binh vào Lê Dương (ở phía bắc Hoàng Hà), sắp qua sông. Tào Tháo chuẩn bị phái cứu binh lên phía Bắc, Tuân Du tâu: Tướng quân có thể phái binh đến Diên Tân, làm ra vẻ ta muốn qua sông, Viên Thiệu tất sẽ chạy theo phía Tây để phòng ngự. Lúc bấy giờ quân ta dùng khinh kỵ binh đột nhập vào Bạch Mã, xuất kỳ bất ý là hạ được ngay Nhan Lương. Tào Tháo nghe theo kế ấy, Viên Thiệu nghe tin quân Tào chuẩn bị qua sông thì lưu lại cố thủ bên sông, lại chia quân tới Diên Tân nghênh chiến. Tào Tháo lập tức thân chinh dẫn quân tức tốc tới Bạch Mã, Nhan Lương hoảng kinh thất sắc, Tào Tháo phái Trương Liêu và Quan Vũ tốc chiến vào doanh trại, chém Nhan Lương giải được vây cho Bạch Mã. Kỳ thực, đây chính là chiêu "xa tận chân trời, gần ngay trước mắt" mà Tào Tháo ứng dụng từ "Binh pháp Tôn tử", làm vẻ đánh xa mà thực té thì tấn công vào kẻ địch ở ngay gần.
Trận Quan Độ: dùng kế hoả công trong Binh pháp Tôn tử.
Trận Quan Độ là một trận kinh điển về chiến thuật lấy yếu thắng mạnh của Tào Tháo. Đỗ Hữu đã thuật lại trận ấy như sau: Thủ hạ của Viên Thiệu là Hứu Du ra hàng, tâu với Tào Tháo, quân lương của Viên Thiệu có khoảng hơn vạn xe, được quản lý không chặt chẽ. Nếu dùng khinh kỵ binh tập kích bất ngờ, dùng lửa đốt sạch thì trong không quá ba ngày, Viên Thiệu tất sẽ bại. Tào Tháo cả mừng, chọn ra năm ngàn quân kỵ binh tinh nhuệ, đều dùng cờ phướn của Viên, thổ binh ngậm thẻ gỗ, ngựa rọ mõm im lặng tiến quân, xuất binh từ đường nhỏ, trong tay ôm bó củi buộc chặt. Khi có người hỏi thì trả lời là Viên Thiệu lo Tào Tháo chạy lối sau, phái binh đến phòng bị. Người nghe được tin đó tưởng thật, quân Tào nhờ vậy thuận lợi tới được lương doanh của quân Viên, phóng hoả đốt, doanh trại Viên bỗng chốc đại loạn, đại quân tan vỡ, lương thảo quân bị đều bị đốt rụi. Đây là kế hoả công thứ 3 trong thiên Hoả công của Binh pháp Tôn tử: đốt xe hòm, tức dùng lửa đốt lương thảo quân bị. Thắng lợi trong trận Quan Độ khiến quân Viên đại bại chạy về phía Bắc Hoàng Hà, Viên Thiệu thổ huyết mà chết.
Trận Xích Bích: mười hai chữ giúp Tào Tháo thoát nguy chuyển bại thành thắng.
Tất nhiên, Tào Tháo cũng có những khi chiến bại, trận Xích bích trứ danh là một ví dụ. Tào Tháo bị Hoàng Cái dùng kế hỏa công đốt chiến thuyền liên hoàn trên sông Trường Giang, buộc phải nhanh chóng rút quân đề giảm tổn thất.
Khi lựa chọn con đường an toàn là rút quân, Tào Tháo đã quyết đoán chọn Hoa Dung đạo, con đường này nay là Tiềm Giang Tây tỉnh Hồ Bắc. Mấy trăm năm sau khi Tào Tháo đi con đường này, từng có người tới khảo sát.
Tào Tháo thoát hiểm bằng Hoa Dung đạo cũng là cơ mưu từ trong binh pháp Tôn tử mà ra hay chăng? Nếu mở "Hư thực thiên", chúng ta sẽ đọc được: "Đi ngàn dặm không mỏi mệt, là khi đi giữa chốn không người" (Tào Tháo chú vào đoạn này rằng: xuất binh nơi trống vắng, tránh chỗ phòng thủ, đánh vào chỗ không ngờ).
Tuân Tử cho rằng, hành quân ngàn dặm mà không mỏi mệt ấy là nhờ đi vào giữa chỗ mà kẻ địch không phòng thủ. Tào Tháo lại chú vào để trỏ: xuất quân tới chỗ kẻ địch phòng bị không đủ, tránh chỗ kẻ địch phòng bị nghiêm cẩn, đánh chỗ kẻ địch liệu ý không tới. Thất bại của trận Xích Bích là do Tào Tháo vốn không tính toán hết được, tuy đã đột ngột xuất hiện hoả hoạn không lường trước được, cố gắng ứng phó thất bại để ngăn ngừa những tổn thất to lớn hơn, ấy là nguyên nhân Táo Tháo quyết định đi vào chỗ hiểm nguy này. Mười bốn chữ trong "Binh pháp Tôn tử" cùng 12 chữ mà Tào Tháo chú vào, có lẽ chính là chỗ cao minh hơn hẳn của ông so với Chu Du hay Gia Cát Lượng.
Tiễn Bách Tán nói, Tào Tháo bị chủ nghĩa chính thống phong kiến biến thành điển hình của kẻ gian thần đã quá lâu rồi. Quách Mạt Nhược thì cho rằng, Tào Tháo đã làm khuôn mẫu răn dạy cảu kẻ phản diện hơn một ngàn năm. Cho tới tận thế kỷ 21 này, chúng ta cảm nhận được rằng, Tào Tháo có thể xuất hiện đường hoàng với tư cách của một tấm gương chính diện. Tất nhiên, một số khuyết điểm của ông chúng ta cũng có thể lấy đó mà làm gương. So sánh với một số danh nhân trong thời phong kiến, sức hút của Tào Tháo là ở chỗ: văn tài chí tình như Tần Hoàng Hán Vũ, như ngân hà rực rỡ; khí chất văn học hơn cả Đường tông Tống tổ, như vút roi mà băng biển lớn; võ lược văn đạo vượt mọi nhân tài đương thời, thực là người phi thường; chưa giành tột bực danh vọng lên làm bậc đế vương một thời, là kiệt nhân siêu thế.
Mao Trạch Đông trong lời bình cuốn "Tư trị thông giám" có viết: "nói Tào Tháo là gian thân mặt trắng, ấy là án oan mà quan niệm chính thống phong kiến làm ra, cái án ấy phải được lật lại".
Tích "Quan Vân Trường trọng nghĩa bỏ Tào Mạnh Đức" trong "Tam quốc diễn nghĩa", ấy chỉ là lời của một tiểu thuyết gia, không phải là sự thực lịch sử. Chu Du và Gia Cát Lượng hay những bất cứ trí giả nào khác thời bấy giờ không thể lường được Tào Tháo sẽ chọn con đường Hoa Dung ấy.
Tào Tháo không chỉ có cái tài của Bách Lạc biết nhìn ra giống Thiên Lý Mã mà còn đi khắp nơi để kiếm tìm và chiêu mộ nhân tài, quý tài như sinh mệnh. Thuộc hạ của ông có năm đại mưu sĩ, Tào Tháo hết sức tin cậy bọn họ, coi trọng hết mức, đổi lại, những mưu sĩ này cũng đã hiến cho Tào Tháo những mưu kế kỳ tài.
Lúc bấy giờ, mưu sĩ đầu phủ Tuân Húc mới 29 tuổi theo về dưới trướng Tào Tháo, Tào Tháo khi ấy còn chưa vững chân ở Duyện Châu đầy ân tình mà nói về Tuân Húc bằng 5 chữ: “Ngô chi Tử Phòng dã” (ấy là Tử Phòng của ta đó). Tử Phòng là tên tự của Trương Lương, mưu sĩ trọng yếu nhất phò Lưu Bang đoạt được thiên hạ, ấy là lời đánh giá cao nhất về Tuân Húc.
Quách Gia là mưu sĩ ít hơn Tào Tháo 15 tuổi, nhưng lại được ông yêu quí và tôn trọng khác thường. Tào Tháo từng nói: “Giúp ta thành được đại nghiệp, cần phải có người này!”, cho rằng Quách Gia có thể giúp mình hoàn thành việc thống nhất quốc gia.
Người thứ ba là Trình Dục, văn võ song toàn. Khi Tào Tháo xuất quân đi Từ Châu, một trong những tay chân tin cẩn là Trần Doanh làm phản, nghênh tiếp Lã Bố vào tiếp quản quyền lực Duyện Châu, tình hình hết sức cấp bách. Trình Dục, Tuân Húc kiên trì cố thủ Tam Thành, đợi Tào Tháo quay về. Lúc Tào Tháo nhìn thấy Trình Dục, bất giác ngấn lệ nghẹn ngào, kéo tay Trình Dục cảm kích: “Vi tử chi lực, ngô vô sở quy hĩ” (Nếu không nhờ tiên sinh tận tâm tận lực, tôi đã không còn nơi để về rồi).
Người thứ tư là Tuân Du tự Công Đạt, cháu của Tuân Húc. Tuân Húc ít hơn Tào Tháo 8 tuổi, Tuân Du lại chỉ kém Tào Tháo có 2 tuổi, được Tuân Húc tiến cử lên. Tào Tháo nói: “Công Đạt, là người phi thường đó, ta có được để cùng bàn đại sự, thống nhất thiên hạ còn điều gì phải lo nữa đâu!”
Người cuối cùng là nhân tài hiếm gặp Giả Hủ, Trương Tú nhờ có sự phò trợ của ông ta mà đã vài lần Tào Tháo nam chinh vẫn không chinh phục được. Có một lần Trương Tú đầu hàng rồi lại tạo phản, Tào Tháo không kịp chuẩn bị nên đại bại. Để cứu Tào Tháo, con cả là Tào Ngang, đại tướng là Điển Vĩ đều đã chết giữa trận chiến, hình thành mối cừu thù sâu sắc. Tào Tháo để thu phục Trương Tú, hoá thù thành thân đã đem con mình là Tào Quân gả cho con gái Trương Tú, cùng Trương Tú kết tình thông gia. Giả Hủ ra sức khuyên Trương Tú theo về với Tào Tháo, đừng nên về phe Viên Thiệu là bởi thấy trước Tào Tháo là anh hùng tàỉ trí vô song. Khi Giả Hủ và Trương Tú đến Hứa Xương, Tào Tháo đích thân tới kéo tay Giả Hủ mà rằng: "Người trong thiên hạ khiến ta tin và xem trọng, chỉ có ngài thôi".
Một điểm đáng quý nữa trong cách đối nhân của Tào Tháo là ở chỗ, ông luôn quy chiến tích, công lao cho hạ cấp, trong khi lại nhận trách nhiệm về mình. Khi dâng biểu tấu công lao của đại thần, ông đã dùng rất nhiều từ ca tụng. Trong “Thỉnh tăng phong Tuân Húc biểu”, nêu rằng Tuân Húc “biến vong thành tồn, biến hoạ thành phúc, mưu cao công lớn, thần không bì kịp”. Lại dâng biểu ca ngợi Quách Gia “mỗi khi phải có quyết sách quan trọng, có thể lâm trận mà tuỳ cơ ứng biến, thần còn chưa biết xử trí thế nào thì Quách Gia đã vạch mưu bày trận đâu ra đấy”. Tào Tháo theo lời bàn của Tảo Chi, thực hiện chế độ tuân điền, nhờ thế quân dân đều có lương ăn, công tích to lớn vô cùng. Nhưng lúc bấy giờ Tảo Chi giữ chức Đô uý tuân điền chẳng may chết sớm, Tào Tháo đã viết một thiên lệnh văn rất dài để kể công lao của ông ta, trong đó có viết rằng nhờ thực hiện chế độ tuân điền, nâng cao uy vọng của triều đình, Tảo Chi đáng ra phải được phong tước. Kéo dài mãi tới nay thì đã muộn, ấy là lỗi lầm của ta.
Tất nhiên, Tào Tháo hậu đãi bộ hạ nhưng không hề bao biện cho bọn họ.Tào Hồng là đường đệ của Tào Tháo, lúc đánh Trương Tú Tào Tháo bại binh, lúc bấy giờ hai người chỉ có một con ngựa mà truy binh đã đến sát sau lưng. Khi ấy, Tào Tháo khuyên Tào Hồng mau chạy gấp, Tào Hồng nói thiên hạ có thể không có Tào Hồng này, “nhưng không thể một ngày không có Chủ công”, đưa ngựa của mình cho Tào Tháo cưỡi. Tào Hồng có thể nói là ân nhân cứu mạng của Tào Tháo. Về sau, có một lần người nhà Tào Hồng vì phạm pháp mà bị Hứa đô lệnh (bằng với chức thị trưởng Thủ đô ngày nay) lúc bấy giờ là Mãn Sủng bắt được, Tào Hồng tới xin tha nhưng Mãn Sủng không thả người. Liền đó Tào Hồng tìm tới chỗ Tào Tháo, xin Tào Tháo giúp cứu người, Tào Tháo bèn nói được rồi, chúng ta bày rượu tiệc mời Mãn Sủng tới nói chuyện xem sao. Tiệc đã bày hồi lâu mà Mãn Sủng vẫn chưa thấy tới, Tào Tháo liên tiếp cho người đi giục. Đến khi nhập tiệc, Tào Tháo trách Mãn Sủng sao mãi muộn mới tới? Mãn Sủng đáp vừa rồi ông bận một vụ việc. Tào Tháo bèn hỏi việc gì mà còn quan trọng hơn tiệc rượu với ta? Mãn Sủng thưa vừa đem phạm nhân là người nhà Tào Hồng ra xử trảm. Đột nhiên tiệc rượu hỗn loạn, Tào Hồng nộ khí ngùn ngụt, Tào Tháo lại có lời biểu dương Mãn Sủng chấp pháp nghiêm minh, cùng mọi người kính Mãn Sủng một chén, về sau còn thêm phần trọng dụng Mãn Sủng.
Bởi Tào Tháo tâm đắc với chính sách chỉ cần có tài là dùng được, một đoàn quân đông đảo những phần tử trí thức và tướng lĩnh lũ lượt kéo về với triều đình. Theo thống kê chưa đầy đủ, những mưu sĩ xếp vào tầm có được chút danh vọng nhất định đã là hơn trăm người. Đến cả người bạn thân cận của Gia Cát Lượng là Từ Thứ và Thạch Thao cũng về làm quan trong triều. Từ Thứ làm đến chức Tả Thị trung tướng và Ngự sử trung thừa, Thạch Thao làm tới chức Điển nông hiệu uý.
Tào Tháo có rất nhiều điểm phải ngưỡng mộ trong việc xử lý những mối quan hệ xã hội. Sau khi xử chém tên phản nghịch Trần Doanh, Tào Tháo rất khoan dung với gia tư quyến thuộc nhà Trần. Tào Tháo phụng dưỡng lão mẫu của Trần Doanh, lại còn gả chồng cho con gái ông ta, làm Trần Doanh ở dưới cửu tuyền cũng phải cảm kích ân đức. Tào Tháo đối với Lưu Bị cũng rất khí khái, ra ngoài thì ngồi chung xe, vào trong thì cùng ngồi dùng cơm. Hai người gần gũi tâm tình, lễ thanh mai uống rượu luận anh hùng. Ông liên hợp cùng Lưu Bị tiêu diệt Lã Bố, mong được vung tay giúp Lưu Bị thống nhất thiên hạ. Có người khuyên ông nên nhân cơ hội mà giết Lưu Bị, ông không đồng tình với cách làm đó, không thể vì thế mà làm nghẽn đường đi lối về của nhân tài trong thiên hạ. Cho dù Lưu Bị về sau có phản lại ở Từ Châu nhưng sau này khi ông bắt dược Quan Vũ, chẳng những chấp nhận cái ý không phục, trọng dùng cái sở trường của Quan Vũ mà hi hữu hơn là để Quan Vũ ra đi, thực hiện chính sách thông thoáng ra vào tự do, thực hiếm có.