Nhân vật Gia
Cát Lượng trong truyện Tam Quốc
Từ đầu TK XX, Tam Quốc chí diễn nghĩa đã được người
đọc VN biết đến qua những lần dịch và in ấn với qui mô "vừa và nhỏ”(4). Phải đến
cuối năm 1959 và đầu năm 1960, Nhà nước mới chính thức xuất bản Tam Quốc chí
diễn nghĩa tại VN. Việc này được giao cho Nhà xuất bản Phổ Thông : in và phát
hành rộng rãi Tam quốc chí diễn nghĩa (chia thành 13 tập), vẫn dựa trên bản dịch
năm 1909 của Phan Kế Bính, nhưng được cụ Bùi Kỷ - một nhà Nho uyên bác, hiệu
đính khá kỹ bằng cách đem đối chiếu với nguyên bản tiếng Trung Quốc mới nhất vào
thời điểm ấy do Nhân dân Văn học xã Bắc Kinh xuất bản năm 1958. Trong số tất cả
các bản dịch trước đó thì đây là bản dịch được hiệu đính kỹ lưỡng nên được coi
là bản dịch hay nhất từ trước đến nay. Đặc biệt tập 1 có đăng lời nói đầu của bộ
biên tập Nhà xuất bản Nhân Dân Văn Học Trung Quốc dài tới 35 trang, phân tích
khá kỹ nội dung truyện và lần đầu tiên có in bài từ mở đầu truyện do cụ Bùi Kỷ
dịch với những dòng hào sảng, cùng với những tranh minh họa do hai hoạ sĩ Trung
Quốc Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt thể hiện thật sống động như trong một cuốn
phim.
Năm 1987, Tam quốc chí diễn nghĩa lại được Nhà xuất
bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp cho in, chia làm tám tập, dựa vào bản in
năm 1959 của nhà xuất bản Phổ Thông, ngoài ra còn có bản đồ và bảng đối chiếu
địa danh xưa và nay. Ngay năm sau 1988, Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên
nghiệp lại nối bản và Nhà xuất bản Giáo dục lại cho "in lần thứ hai" vào năm
1996. Kể từ đó, việc xuất bản Tam quốc chí diễn nghĩa được thực hiện một cách
rộng rãi và thường xuyên. Đáng chú ý là bộ tập tranh Tam quốc diễn nghĩa liên
hoàn họa do hai họa sĩ Trung Quốc Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt vẽ, Nhà xuất bản
Mũi Cà Mau đã cho in đủ 7124 tranh, chia thành 30 tập, thật kỳ công và được tái
bản năm 2004. Thực ra, bộ truyện tranh "Tam quốc diễn nghĩa liên hoàn họa" do
gần ba mươi họa sĩ kỳ công vẽ nên, mỗi tập có từ một đến năm họa sĩ tham gia.
Hai họa sĩ Từ Chính Bình và Từ Hoằng Đạt chỉ là người vẽ tập đầu tiên "Kết nghĩa
vườn đào" mà thôi. Họa sĩ vẽ nhiều tập nhất là Uông Ngọc Sơn, tham gia vẽ 9
tập.
Đầu năm 2007, Nhà xuất bản Văn Học cho in lại theo
bản 13 tập (cả phần tranh) của Nhà xuất bản Phổ Thông (năm 1959) do Phan Kế Bính
dịch và Bùi Kỷ hiệu đính, đây là bản dịch được coi là hay nhất từ trước đến nay.
Sách được in bìa cứng có hai loại khổ để người đọc lựa chọn (khổ nhỏ 4 tập, khổ
lớn 2 tập) còn in kèm 40 trang phụ bản màu với hơn 100 các nhân vật và kèm theo
bản đồ màu khổ lớn. Bản in này còn in y nguyên lời giới thiệu của Nhà xuất bản
Phổ Thông năm 1959 và Lời nói đầu của bộ biên tập Nhân dân Văn học Xuất bản xã
Bắc Kinh tháng 3 năm 1959. Cũng trong lần xuất bản này còn có mục Hành trình
truyện Tam Quốc ở Việt Nam của Yên Ba (từ trang 30 đến trang 38) thống kê khá tỷ
mỉ về những lần dịch và xuất bản ở Việt Nam.
Như vậy kể từ lần dịch đầu tiên đến nay hơn một thế
kỷ, Tam quốc chí diễn nghĩa đã được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam cũng rất đa
dạng, nhiều người dịch, in theo nhiều khổ, một tập có, nhiều tập có, in truyện
tranh có, hiệu đính kỹ lưỡng có và cũng có những bản dịch bình dân
…
Quả là hiếm có một tác phẩm văn học nào lại được
đông đảo công chúng văn học Việt Nam yêu thích như Tam quốc chí diễn nghĩa.
Những trích đoạn Tuồng lấy chuyện từ Tam Quốc chí diễn nghĩa luôn lôi cuốn khán
giả nhiều thế hệ: Đơn đao phó hội , Lã Bố hý Điêu Thuyền,
v.v…
Điểm đặc biệt là nhiều sự kiện, nhân vật trong Tam
Quốc diễn nghĩa đã xen vào một cách tự nhiên những câu chuyện của cuộc sống
thường ngày, trở thành Thành ngữ, tục ngữ:
"Vợ chồng như quần với áo, anh em như thể tay chân"
(thê tử như y phục, huynh đệ như thủ túc);
"Nhắc đến Tào Tháo thì Tào Tháo xuất hiện" (thuyết
Tào Tháo, Tào Tháo đáo) : để nói khi một người được nhắc đến đột nhiên xuất
hiện; "Ba ông thợ thầy bằng một thầy Gia Cát” : ba người kém cỏi biết làm việc
tập thể còn hơn một người giỏi giang; "Nóng như Trương Phi"; "Đa nghi như Tào
Tháo", "Tào Tháo đuổi", v.v...
***
Bài ca mở đầu và cũng là kết thúc của thiên tiểu
thuyết lịch sử Tam Quốc chí diễn nghĩa có vẻ như đã nói được khá rõ cảm xúc thẩm
mỹ của người viết bài này, vậy nên lấy nó làm đoạn
kết:
Sông dài cuồn cuộc ra
khơi,
Anh hùng : sóng dập, cát vùi thiên
thu...
Dở hay, thành bại nào
đâu?
Bể dâu chớp mắt, ngoảnh đầu thành mơ
!
Non xanh còn đó trơ
trơ,
Tà dương lần lữa sưởi hơ ánh
hồng.
Lão tiều gặp lại ngư
ông,
Bên sông gió mát, trăng trong, kho
trời.
Rượu vò lại rót khuyên
mời,
Cùng nhau lại kể chuyện thời xa
xưa...
Kể ra biết mấy cho
vừa?
Nói cười hỉ hả, say sưa quên
đời.../.
Sài Gòn, tháng
7-2010
Chú thích:
(1) Ngoài Tam quốc chí diễn nghĩa, La Quán Trung
còn viết Tùy Đường lưỡng triều chí truyện, Tản Đường ngũ đại sử diễn nghĩa, Bình
yêu truyện, Tống Thái Tổ long vân hội (kịch),
v.v...
(2) Tương truyền, La Quán Trung từng tham gia cuộc
khởi nghĩa chống nhà Nguyên của Trương Sĩ Thành (2*) với vai trò là mưu sĩ. Sau
khi Trương Sĩ Thành thất bại, Minh Thái Tổ
Chu Nguyên Chương lên ngôi, thống nhất đất nước, La
Quán Trung lui về ở ẩn, sưu tầm và biên soạn dã
sử.
(2*) Trương Sĩ Thành người đất Thái Châu, cùng hai
em Sĩ Đức, Sĩ Tín làm nghề buôn muối, tính tình hào sảng rộng rãi nên được nhiều
người quí mến. Thời đó phu phen bị hà hiếp nhưng không có ai lãnh đạo, Sĩ Thành
bèn kêu gọi đứng lên được mọi người bầu làm minh chủ chiếm lấy các thành Thái
Châu, Hưng Hóa. Năm Chí Chính thứ 13 tự xưng là Thành vương, đặt quốc hiệu Đại
Chu, niên hiệu Thiên Hựu.
Thanh thế Trương Sĩ Thành càng lúc càng lớn, vua
nhà Nguyên phải sai Thoát Thiếp Mộc Nhi đem đại quân đến đánh. Tuy nhiên khi
Trương Sĩ Thành kiệt lực sắp đầu hàng thì Nguyên Huệ Tông nghe lời dèm pha phái
Thoát Thoát đem quân xuống Vân Nam nên họ Trương mới thoát nạn. Tới thời kỳ đó,
nhóm Hồng Cân của Lưu Phúc Thông đã hùng cứ chiếm đóng nhiều vùng rộng lớn ở
miền Bắc, Trương Sĩ Thành bèn thừa thế quân Nguyên phải lo đánh nhau với những
thế lực đó bèn đem quân tiến chiếm vùng Giang Nam. Chiếm được Giang Nam rồi,
Trương Sĩ Thành trở nên sa đọa, ham mê tửu sắc. Bộ tướng của Lưu Phúc Thông là
Chu Nguyên Chương(2**) thấy họ Trương trải rộng bèn đem quân tấn công, bắt được
em trai
Trương Sĩ Thành là Trương Sĩ Đức. Năm 1357 (Chí
Chính thứ 17) Trương Sĩ Thành ra hàng nhà Nguyên, đem quân tấn công giết được
Lưu Phúc Thông, đuổi được Hàn Lâm Nhi.
Năm Chí Chính thứ 23 (1363), Trương Sĩ Thành đòi
được phong làm Ngô vương nhưng triều đình không thuận, y liền tự lập một cõi,
phong cho em Sĩ Tín làm thừa tướng, tin dùng bọn văn nhân. Chu Nguyên Chương khi
đó đã trừ được Trần Hữu Lượng rồi liền sai Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân đem hai mươi
vạn quân tấn công, các tướng của Trương Sĩ Thành lần lượt đầu
hàng
Chu Nguyên Chương. Quân Minh vây đánh Bình Giang,
dùng đại pháo bắn vào, Trương Sĩ Tín tử trận, Trương Sĩ Thành phải tự
sát.
(2**) Chu Nguyên Chương: Chu Nguyên Chương (1328
–1398) tức Minh Thái Tổ : thuở nhỏ tên là Trùng Bát , về sau đổi tên thành Hưng
Tông tên chữ là Quốc Thụy, người huyện Chung Ly, Hào Châu (phía đông huyện Phụng
Dương tỉnh An Huy ngày nay); là vị hoàng đế khai quốc của vương triều nhà Minh
trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ năm 1368 đến
1398.
Nguyên quán của Chu Nguyên Chương vốn thuộc huyện
Bái, Từ Châu tỉnh Giang Tô, về sau dời về Tứ Châu, rồi lại dời về Hào Châu tức
Phụng Dương. Cả gia đình ông trôi nổi nhiều nơi do sinh kế thúc bách. Cha mẹ ông
có 8 người con, nhưng hai người đã chết yểu, còn lại sáu người, bốn trai hai
gái. Chu Nguyên Chương là con út, thuở nhỏ gọi là Trùng Bát, ngay cả tên họ
chính thức cũng không có, mãi đến sau khi gia nhập nghĩa quân Quách Tử Hưng mới
lấy tên là Chu Nguyên Chương, tên chữ là Quốc
Thụy.
Ông xuất thân từ tầng lớp tá điền nghèo khổ, từng
giữ dê chăn bò cho địa chủ. Đời Nguyên năm Chí Chính thứ 4 (1344), vùng đất Hoài
Bắc phát sinh hạn hán và châu chấu tàn hại cùng với dịch bệnh nên cha mẹ, các
anh đều nối tiếp nhau chết cả. Chu Nguyên Chương không biết lấy gì để sống, tới
chùa Hoàng Giác làm thầy tu, từng khất thực ba năm tới phía tây của tỉnh An Huy,
phía đông tỉnh Hà Nam, trải qua gian khổ tôi
luyện.
Chu Nguyên Chương là người có tính quật cường, từ
nhỏ chí khí đã chẳng tầm thường. Do sức ép của cuộc sống nên ông phải xuất gia
đi tu, nhưng không muốn làm nhà sư nhỏ bé, vào chùa mới được 15 ngày thì đã làm
nhà sư chu du khắp chốn. Trong lúc bôn ba bốn phương, ông đã bí mật tiếp xúc với
giáo phái Bạch Liên đương thời, hiểu được tình thế trong thiên hạ, lòng người
muốn đổi thay, khí vận triều Nguyên sắp hết.
Năm Chí Chính thứ 12 (1352), Chu Nguyên Chương tham
gia quân Hồng Cân (khăn đỏ) của Quách Tử Hưng, được Tử Hưng tin cậy, nhậm chức
Tả phó Nguyên soái nghĩa quân. Năm Chí Chính thứ 16 (1356), Chu Nguyên Chương
đánh chiếm Tập Khánh (Nam Kinh ngày nay), được Tiểu Minh vương Hàn Lâm Nhi tiến
phong làm Ngô Quốc công. Ông lấy Ứng Thiên (Nam Kinh) làm trung tâm, phát triển
rất nhanh. Từ năm 1363 đến 1367, lần lượt tiêu diệt tập đoàn Trần Hữu
Lượng(2***) ở trung lưu Trường Giang và Trương Sĩ Thành ở hạ lưu Trường Giang,
bao gồm cả hai bờ nam bắc.
Năm 1368, ông xuất quân Bắc phạt, đặt quốc hiệu là
Minh, trở thành vua Minh Thái Tổ. Cùng năm đó, công phá Đại đô (Bắc Kinh), lật
đổ ách thống trị của nhà Nguyên, từng bước thực hiện thống nhất đất nước. Năm
Hồng Vũ thứ 31 (1398), Minh Thái Tổ bệnh mất, hưởng thọ 70 tuổi, ở ngôi 31 năm,
chôn tại Hiếu lăng ở phía nam chân núi Chung Sơn thành phố Nam
Kinh.
(2***) Trần Hữu Lượng(1320-1363): Nguyên là người
làm nghề chài lưới, đến thời kỳ Nguyên Thuận Đế (1333-1368), Từ Thọ Huy - thủ
lĩnh của cuộc khởi nghĩa Hồng Cân đã khởi binh, Hữu Lượng theo về với tướng Nghê
Văn Tuấn. Tháng 9 âm lịch năm Chí Chính thứ 17 (1357) ông giết Nghê Văn Tuấn vì
lý do có âm mưu làm phản Từ Thọ Huy, sau đó tự xưng là tuyên úy sứ kiêm bình
chương chính sự, khởi binh tấn công các lộ thuộc Giang Tây, tổng chỉ huy quân
đội các vùng Giang Tây, An Huy, Phúc Kiến. Năm Chí Chính thứ 19 (1359), sát hại
tướng Triệu Phổ
Thắng và sau đó cùng Từ Thọ Huy dời kinh đô về
Giang Châu (ngày nay là Cửu Giang, Giang Tây), tự lập làm Hán vương. Năm sau,
giết Từ Thọ Huy, tự lập làm hoàng đế, quốc hiệu Đại Hán, niên hiệu Đại Nghĩa,
lấy Trâu Phổ Thắng làm thái sư, Trương Tất Tiên làm thừa tướng. Chính quyền Đại
Hán một mặt chống nhà Nguyên, một mặt kháng cự với quân đội của Chu Nguyên
Chương (sau này là Minh Thái Tổ). Đến năm Chí Chính thứ 20 (1360), giữa quân đội
hai bên Chu-Trần từ tây bắc thành Nam Kinh đến Long Loan đã diễn ra ác chiến, do
nước sông xuống thấp vì thủy triều xuống nên hàng trăm chiến thuyền của Trần Hữu
Lượng bị mắc cạn. Bị đánh bại, Trần Hữu Lượng chạy về Giang Châu (Cửu Giang),
sau đó dời đô về Vũ Xương. Ngày 23 tháng 8 năm Chí Chính thứ 23 (1363) cùng Chu
Nguyên Chương đại chiến tại hồ Bà Dương, sách sử gọi là "Bà Dương hồ chi chiến”.
Chu Nguyên Chương sử dụng mưu kế của Quách Hưng, sử dụng hỏa công đốt cháy chiến
thuyền của thủy quân Trần Hữu Lượng. Trần Hữu Lượng vận khí đã hết, bị trúng tên
và chết. Trần Hữu Lượng là người vô cùng xa xỉ, chẳng được lòng dân, nội bộ lắm
kẻ muốn làm phản, nên thất bại là tự do mình. Sau khi Trần Hữu Lượng chết,
Trương Định Biên cùng những người đang ở Vũ Xương lập con trai thứ của Trần Hữu
Lượng là Trần Lí làm hoàng đế, cải niên hiệu thành Đức Thọ. Năm sau, Chu Nguyên
Chương đem quân tấn công và hạ thành Vũ Xương, Trần Lí đầu
hàng.
(3) Gia Cát Lượng (181–234) là vị quân sư và đại
thần của nước Thục thời Tam Quốc (hậu Hán).. Trong quân sự, ông đã tạo ra các
chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn
ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy). Tương truyền ông còn là người
chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh
bao.
Gia Cát Lượng là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh
Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, tự Khổng Minh, Gia Cát là một họ kép ít
gặp. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị
(3*). Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung,
chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự
mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ
Ngâm".
Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên
Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan. Tương truyền Gia Cát Lượng học
giỏi một phần nhờ vợ là Hoàng Nguyệt Anh, một người rất xấu nhưng có tài năng,
con gái của danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Nhữ Nam.
Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến Tư Mã Đức Tháo bàn việc
thiên hạ. Tư Mã Đức Tháo nói:
"Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ,
hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Ngoạ Long và Phượng Sồ. Ngoạ Long tức Gia
Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống(3**), tự
Sỹ Nguyên." Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời
Khổng Minh ra giúp, "Lưu Bị Tam cố thảo lư”, tôn Khổng Minh làm quân sư. Lúc bấy
giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27
tuổi.
Khổng Minh đã giúp Lưu Bị cùng với Tôn Quyền đánh
bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định hai Xuyên, dựng nước ở đất Thục,
cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía đông làm thành thế chân vạc Tam Quốc. Lưu
Bị lên ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một lòng khôi phục lại cơ
nghiệp nhà Hán, phía đông hòa Tôn Quyền, phía nam bình Mạnh
Hoạch.
Gia Cát Lượng Bắc phạt cả thảy là 7 năm, phát động
4 lần đánh lớn. Mấy lần xuất quân đều chưa giành được thắng lợi hoàn toàn do Lý
Nghiêm trễ nải cấp lương nên giả truyền thánh chỉ, 2 lần khác do Lưu Thiện nghe
lời dèm pha mà nửa chừng hạ chiếu lui quân.
Tháng 8 năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh
bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là Trung Vũ Hầu người
đời thường gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng
Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc
chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị
diệt vong.
Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc
chính trị, quân sự và kinh tế ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi
hành. Ông giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là
văn võ kiêm toàn, tài đức lưỡng bị... nên được hậu thế gọi là "vạn đại quân sư",
coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.
Mở đầu sự nghiệp của Gia Cát Lượng là Trận Đồi Bác
Vọng. Sau khi Gia Cát Lượng làm quân sư cho Lưu Bị đã góp nhiều công sức xây
dựng binh mã tại Tân Dã khiến cho tiếng đồn lan xa. Tào Tháo nghe được tin, lo
lắng lực lượng của Lưu Bị sẽ lớn mạnh khó lòng tiêu diệt lại nghe có Khổng Minh
đa mưu túc chí giúp sức. Có lần Tào Tháo hỏi Nguyên Trực: - "Khổng Minh so với
tiên sinh thì thế nào?" Nguyên Trực cười lớn rồi đáp: - "So với Khổng Minh thì
tôi chỉ là con đom đóm le lói trong đêm còn Lượng là ánh nhật nguyệt hào quang”.
Hạ Hầu Đôn tức giận nguyện mang 10 vạn binh mã bắt sống Lưu Bị. Tào Tháo đồng ý.
Nghe tin Hạ Hầu Đôn kéo tới, Lưu Bị lo lắng, hai anh em Quan, Trương hỏi: - "Sao
đại ca không dùng "nước" của mình đi?" Khổng Minh tới nói: - "Chúa công có bao
nhiêu can đảm, Lượng tôi có bấy nhiêu kế sách". Lưu Bị nghe xong tin tưởng, liền
trao ngọc ấn và kiếm cho Khổng Minh. Khổng Minh cho quân mai phục và đã tiêu
diệt 10 vạn quân Tào do Đại tướng Hạ Hầu Đôn chỉ huy tại Bác Vọng. Lưu Bị chiến thắng hoàn toàn
chỉ trong 1 trận, từ đó uy tín của Khổng Minh lại càng được nể trọng. Lưu Bị vẫn
thường nói với tả hữu: "Ta được Khổng Minh như cá được nước ", quả thật không
sai.
Sau khi thất bại ở trận Đồi Bác Vọng, Tào Tháo dẫn
đại quân đến Kinh Châu. Lưu Tôn và mẹ là Sái thị dâng Kinh Châu cho Tào Tháo.
Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, đem quân đến Tân Dã truy kích Lưu Bị. Khổng Minh
bèn lập kế mai phục quân Tào. Một lần nữa, đội quân lớn của Tào Tháo với những
đại tướng vô địch như Tào Nhân, Tào Hồng, Hứa Chử đã bị tài điều binh khiển
tướng của Khổng Minh đánh cho tan tác…
Trong trận Xích Bích , Gia Cát Lượng đã dùng mẹo
đoạt 10 vạn mũi tên của Tào Tháo và "làm phép hô mưa gọi gió” giúp Chu Du hỏa
công đại thắng quân Tào đã khiến cho Đại đô đốc Chu Du uất quá mà chết bởi không
thể chịu được sự tồn tại của một "thiên hạ kỳ tài” Gia Cát Lượng bên cạnh: "Trời
đã sinh ra Du sao còn sinh ra Lượng?” ...
Trong cuộc chiến với quân Ngụy, thực ra là cuộc đấu
trí với Tư Mã Ý, Gia Cát Lượng đã bốn lần kéo quân ra Kỳ Sơn nhằm bắt sống Tư Mã
Ý nhưng không thành. Lần cuối cùng, Gia Cát Lượng đã dồn hai cha con Tư Mã Ý vào
Thượng Phương cốc và bịt kín hai đầu, phóng hỏa định thiêu chết nhưng Trời lại
giúp Tư Mã Ý: mây giông kéo tới, mưa gió cuồn cuộn nổi lên dập tắt hết ngọn lửa,
cha con Tư Mã Ý cả mừng vội vã chạy thoát khỏi Thượng Phương cốc. Gia Cát lượng
buồn rầu đứng dưới trời mưa ngửa mặt than trời: "Đúng là người tính không bằng
trời tính ". Tư Mã Ý trở về thì doanh trại ở Vị Nam đã bị đánh phá phải rút lui
cố thủ ở Vị Bắc. Quân Ngụy tuy đại bại nhưng mưu kế không thành, Gia Cát Lượng
vì quá đau buồn lại thêm ngày đêm lao lực mà sinh
bệnh.
(3*) Quản Trọng (725 TCN - 645 TCN): là một chính
trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Tên ban
đầu của ông là Di Ngô, Trọng là tên hiệu. Được Bảo Thúc Nha tiến cử, Tề Hoàn
Công phong ông làm Tể tướng năm 685 TCN. Ông nổi tiếng với "chiến lược không
đánh mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó là tấn công
bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo
huấn.
Nhạc Nghị là tướng thời Chiến Quốc trong lịch sử
Trung Quốc. Ông là tướng các nước: Ngụy, Yên và Triệu nhưng nổi tiếng nhất thời
làm tướng nước Yên đã gần như tiêu diệt nước Tề hùng mạnh láng
giềng.
(3**) Bàng
Thống (178-213), tự là Sỹ Nguyên, đạo hiệu Sồ Phụng tiên sinh, thường được người
đời sau so sánh là tài năng ngang với Khổng Minh, người sống cùng thời với
ông.
Bàng Thống quê ở Tương Dương, được La Quán Trung
miêu tả trong Tam quốc diễn nghĩa là "người mày rậm, mũi gồ, mặt đen, râu ngắn,
hình dung xấu xí". Tư Mã Đức Tháo nhận xét về Bàng Thống rằng: "Nếu được một
trong hai người Ngọa Long (tức Khổng Minh) hoặc Phụng Sồ (tức Bàng Thống) thì có
thể định hưng được thiên hạ".
Lúc đầu, Bàng Thống ở Giang Nam theo Tôn Quyền,
trong trận Xích Bích từng theo kế phản gián của Chu Du hiến kế cho Tào Tháo dùng
xích sắt ghép các thuyền lại thành một cụm để tránh cho quân sĩ say sóng nhưng
thực chất là để dùng kế hỏa công. Nhờ Bàng Thống mà khi Chu Du sử dụng hỏa công,
thuyền của Tào Tháo tập trung lại thành một cụm nên không chạy thoát được, cháy
rụi hết. Sau khi Chu Du mất, Lỗ Túc tiến cử Bàng Thống cho Tôn Quyền nhưng Bàng
Thống không được Tôn Quyền trọng dụng nên đến Kinh Châu theo Lưu
Bị.
Năm 212,
Lưu Chương, thứ sử Ích Châu bị Trương Lỗ từ Hán Trung uy hiếp nên mời Lưu Bị đem
quân từ Kinh Châu đến cứu. Bàng Thống với vai trò là quân sư cùng Lưu Bị dẫn 5
vạn quân vào Tây Xuyên. Khi Lưu Bị vừa đến Tây Xuyên, Lưu Chương thân hành ra
đón. Bàng Thống cùng Pháp Chính bàn mưu cho Lưu Bị nhân dịp giết Lưu Chương rồi
chiếm lấy Tây Xuyên nhưng Lưu Bị cho đó là hành động bất nhân nên không làm.
Trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Bàng Thống bảo Ngụy Diên trong tiệc
đứng dậy múa kiếm rồi đâm chết Lưu Chương, Lưu Bị đứng dậy ngăn cản và sau khi
hết bữa tiệc, ông trách Bàng Thống rất nặng nề.
Sau đó, Lưu Chương nhờ Lưu Bị đến ải Hà Manh Quan
để ngăn Trương Lỗ. Lưu Bị vui vẻ ra đi. Về sau, Lưu Bị mượn quân, lương của Lưu
Chương không được nên tức giận muốn đem quân đánh Lưu Chương. Bàng Thống bày kế
cho Lưu Bị giết Cao Bái và Dương Hoài, hai tướng của Lưu Chương, đoạt ải Phù
Quan, tiến đánh Lạc Thành. Lưu Chương nghe tin đó họp cùng các tướng bàn kế
chống Lưu Bị.
Để đánh chiếm Lạc Thành, quân Kinh Châu chia làm
hai đường. Bàng Thống cùng Ngụy Diên làm tiên phong tiến theo con đường nhỏ phía
Nam, Lưu Bị theo con đường lớn phía Bắc. Tuy nhiên, Bàng Thống vì chủ quan khinh
địch nên lọt vào trận mai phục của Trương Nhiệm, tướng Tây Thục nên cả người lẫn
ngựa chết dưới chân gò Lạc Phượng. Bàng Thống chết năm 35 tuổi (năm
213).
(4) Ngay từ đầu thế kỷ 20 khi chữ quốc ngữ mới manh
nha hình thành và phát triển ở Việt Nam thì Tam quốc chí diễn nghĩa đã ngay lập tức được các nhà nho
dịch sang chữ quốc ngữ để người đọc Việt Nam làm quen với một kiệt tác của văn
học cổ Trung Quốc.
Có thể coi năm 1902 là cột mốc lần đầu tiên truyện
Tam quốc chí diễn nghĩa được dịch và giới thiệu với độc giả Việt Nam. Theo học
giả Vương Hồng Sển viết trong tác phẩm Thú chơi sách thì truyện Tam quốc vào
Việt Nam là do Lương Khắc Ninh dịch (nhưng lại ký dưới là Chủ nhân Paul
Canavaggio) đăng trên báo Nông Cổ Mín Đàm, một trong những tờ báo sớm nhất của
báo chí chữ quốc ngữ Việt Nam do Canavaggio sáng lập từ tháng 8 -
1901.
Năm 1907 nhà xuất bản Imprimerie De L'Opinion tại
Sài Gòn đã xuất bản Tam quốc chí diễn nghĩa in thành 24 quyển, mỗi quyển 5 hồi;
sách không có hình minh họa, ngôn ngữ bình dân Nam
bộ.
Năm 1909 Nhà xuất bản Impimerie-Express tại Hà Nội
xuất bản mang nhan đề Tam quốc chí diễn nghĩa và phía trên có đề chữ Sách ngoài
dịch nôm, người dịch là cụ Phan Kế Bính, có hình vẽ minh họa in thành 5 cuốn,
khổ nhỏ. Việc dịch và in bộ Tam quốc này, theo như lời tựa ở đầu sách, chính là
nhằm tuyên truyền cho việc học chữ quốc ngữ lúc bấy giờ. Lời Tựa do Nguyễn Văn
Vĩnh viết có đoạn như một "tuyên ngôn" rằng: Nước Nam ta mai sau này, hay dở
cũng ở như chữ quốc ngữ ... cái điều hay cho hậu vận nước Tổ-Việt ta ấy là nhờ
như chữ quốc ngữ. Chữ đâu hay thế! Mà dễ học thay! Gốc hai mươi ba chữ, năm dấu
soay (xoay) vần, mà tiếng nước Nam bao nhiêu cũng viết được đủ. Bản dịch này
cuối mỗi hồi thường ghi cả những lời bình của Mao Tôn Cương và lời bình của
người dịch.
Sau đó ở miền Nam cho ra bản dịch của Nguyễn Liên
Phong, Nguyễn An Cư và Nguyễn An Khương, trọn bộ 31 cuốn, mỗi cuốn đều có hình
minh họa. Không rõ lý do vì sao đến năm 1928 in lại rồi được tái bản nhiều lần
sau đó, chỉ đề tên người dịch là một mình ông Nguyễn An Cư. cùng thời đó còn có
bản do Tín Đức thư xã ở 37, sau đổi sang 25 đường Sabourain (nay là Tạ Thu Thâu)
xuất bản, nhưng chất lượng dịch kém hơn. Ngoài ra ở miền Nam trong thời kỳ đầu
thế
kỷ 20 còn có bộ Tam quốc chí diễn nghĩa in năm 1930
ở Sài Gòn nó gồm 38 tập mỏng tổng cộng hơn 1500 trang, người dịch là ông Nguyễn
Chánh Sắt; do nhà in Nguyễn Văn Viết ở 85-87 đường Ormay xuất bản. Ông Nguyễn
Chánh Sắt đã từng dịch khá nhiều truyện Trung Hoa như: Tây Hớn (Hán), Đông Hớn
(Hán), Ngũ hổ bình Tây, Càn Long du Giang Nam, Mạnh Lệ Quân, Chinh
Tây...
Năm 1966 nhà xuất bản Hương Hoa cho ra bản dịch của
Mộng Bình Sơn, in thành một tập duy nhất dày gần 1700 trang tiếc rằng bản dịch
này đã bỏ bớt một số đoạn thơ trong nguyên tác, nhưng ở phần cuối sách lại có
thêm phần "Ngoại thư" dài khoảng 60 trang, chưa kể những "lời nhận xét của người
thời nay" cùng với lời bàn của Mao Tôn Cương trích trong Thánh thán ngoại thư ở
cuối mỗi hồi. (Bản dịch này được tái bản nhiều
lần)
Năm 1967-1968 Nhà xuất bản Á Châu cho ra bản dịch
đáng chú ý khác của Tử Vi Lang chia thành 8 tập, cũng có lời bình và phần ngoại
thư ở cuối sách.
Năm 1972 Nhà sách Khai Trí ở 62 Lê Lợi, Sài Gòn
cũng xuất bản Tam quốc chí diễn nghĩa theo bản dịch của Phan Kế Bính in năm
1909.
Ở miền Bắc, sau bản in năm 1909 của dịch giả Phan
Kế Bính, tròn 40 năm sau, năm 1949 nhà in Phúc Chi ở 95 Hàng Bồ, Hà Nội mới in
tiếp Tam quốc chí diễn nghĩa, người dịch là Hồng Việt, bản này trình bày hai cột
như trên báo, tổng cộng lên tới hơn 2000 trang.