Năm 1979, một tháng trước khi chính sách mỗi cặp vợ
chồng chỉ được phép sinh một con được ban hành, vợ của phó chủ tịch ủy ban tài
chính đã sinh một đứa con gái mắc bệnh thiểu năng, con bé tên Miêu
Miêu.
Bảy năm sau đó, khi người vợ sinh đứa con gái thứ
hai, một đứa trẻ hoàn toàn bình thường, người ta thường thấy phó ban đưa Miêu
Miêu xuống phố, ánh mắt bao giờ cũng có vẻ lén lút. Khuôn mặt của ông nhàu nhò,
hai bên má hóp lại, tất cả toát lên một nỗi thất vọng chán chường. Nét mặt của
Miêu Miêu hầu như vô cảm, chỉ hơi ngơ ngác một chút. Người trong thị trấn để ý
thấy hình như hai cha con họ lúc nào cũng có vẻ như đang trên đường đến một nơi
nào đó.
Phó ban vốn là người có nhóm máu A, lại sinh năm
thỏ, thế nên tính cách của ông vừa ngang ngạnh, vừa khép kín. Hồi ông hai mươi
tuổi, có một mụ già mặt mũi nhăn nheo ở cửa hàng gạo đã xem chỉ tay cho ông và
bảo rằng ông không thể nào có con trai được. Thế nhưng mụ đã không nói cho biết
đứa con gái đầu lòng của ông sẽ là một đứa bé mắc bệnh thiếu năng hay là nhà
nước sẽ quy định mỗi cặp vợ chồng chỉ được sinh một con mà thôi. Nếu lúc đó biết
tương lai là thế này thì ông đã bảo vợ đi nạo ngay từ lúc cô ta biết mình có
thai.
Sau khi đứa con gái thứ hai của ông chào đời, cả
tuần ông giam mình trong phòng và uống hết bốn chai rượu. Thế rồi sau đó, ông
cạo râu, ăn mặc tử tế đến gặp một lão què có tên là Tăng để xem bói lại lần nữa.
Ông trả cho lão Tăng sáu tệ và nghe lão phán: vào năm bốn mươi tám tuổi, ông sẽ
được thăng chức lên một cấp cao hơn; năm bốn chín tuổi, ông sẽ gặp một cái hạn
nhưng nếu ông thắt một sợi dây màu đỏ quanh lưng thì có thể sẽ tai qua nạn khỏi;
năm năm mươi tuổi, có một vị khách từ tây nam tới và sẽ đem đến cho ông vận may
(phó ban nghĩ mãi trong số họ hàng và bạn bè xem có ai sống ở miền nam không,
cuối cùng mới nhớ ra mình có một ông chú từng làm tướng của Quốc dân đảng, hiện
đang sống với lực lượng phiến loạn ở Miến Điện mặc dù đã ba mươi năm rồi gia
đình ông chẳng biết tin tức gì về ông chú này); vào năm ông năm mươi bảy tuổi,
mẹ ông sẽ qua đời, và vợ ông mất vì bệnh phổi; năm sáu mươi tuổi, ông sẽ gặp một
goá phụ trẻ cũng có nhóm máu A, sinh vào năm Trâu, cô này sẽ lấy ông và sinh cho
ông đứa con gái thứ ba. Năm sáu mươi ba tuổi, ông sẽ chết. Ông hỏi lão Tăng xem
có cách nào giúp ông sống thêm vài năm nữa - chỉ hai năm thôi cũng được - nhưng
lão thầy bói bảo không thể nào làm thay đổi số phận được.
Thực ra thì phó ban lo cho chuyện mình không có con
trai để nối dõi tông đường hơn là chuyện tuổi thọ ngắn ngủi. Ông gạt ra một bên
ý nghĩ về người goá phụ trẻ nọ và tập trung suy nghĩ tìm cách làm thế nào để
sinh được một cậu quý tử. Vì nhiễm sắc thể của Miêu Miêu bất thường khiến con bé
vừa có vấn đề về thần kinh lại vừa tật nguyền nên đơn vị của vợ ông dành cho chị
một ngoại lệ, cho phép chị được sinh hai con nhưng không bao giờ họ đồng ý để
chị sinh thêm đứa thứ ba. Quả thật, ngay sau khi chị sinh đứa con gái thứ hai,
một người của uỷ ban kế hoạch hoá gia đình đã đến đặt vòng cho chị. Trường hợp
duy nhất khiến chị có thể kiếm cớ mang thai lần nữa đó là nếu như xảy ra chuyện
một trong hai đứa con của chị bỗng nhiên biến mất. Với tình hình như bây giờ,
phó ban nghĩ, hy vọng duy nhất của ông là tống khứ được con bé Miêu Miêu
này.
Vì thế mà phó ban lao vào cuộc chiến với số phận.
Khi đứa con gái thứ hai của ông mới được hai tuần tuổi, ông liền bế Miêu Miêu ra
một công viên định bỏ rơi nó ở đó. Trước khi ông đi, vợ của ông cũng sụt sùi
nước mắt nhưng chẳng biết làm gì hơn. Buổi tối, ông về nhà, trên tay vẫn bế Miêu
Miêu. Ông kể với vợ là ông đã đặt con bé trên một cái ghế băng suốt cả buổi
chiều và đứng ở xa quan sát nhưng chẳng có ai đến đem con bé đi cả. Sau ba lần
cố gắng bỏ rơi con bé mà không thành, ông quyết định nghỉ việc một ngày, hy vọng
giải quyết xong xuôi chuyện này.
***
Miêu Miêu có một cái đầu bẹt, lơ thơ một nhúm tóc
tơ, trán dô và nhăn nheo, hai con mắt như con nòng nọc ăn sâu vào những hốc mắt
nông choèn, mũi tẹt mà lỗ mũi lại lớn, mỗi lần lấy hơi thở, cánh mũi lại xoè ra.
Cái miệng của nó không bao giờ ngậm lại được khiến nước dãi và thức ăn luôn trào
ra rơi xuống cằm, bết lại quanh những nếp nhăn trên cái cổ vốn to của nó. Nó có
sống thì cũng chỉ đem lại khổ sở cho ông mà thôi.
Suốt bảy năm qua, con bé cũng nhận biết được một
vài điều. Nó biết gào lên khi muốn đi tiểu tiện, và biết nghe lời khi bảo nó ăn
hay uống thuốc. Sau vài lần cha nó cố tìm cách bỏ rơi nó, con bé cũng biết sợ
mỗi khi bị đưa ra khỏi căn phòng tối om trong nhà đi ra ngoài trời. Hễ khi nào
cha nó bế nó, đem nó đến một nơi mà ở đó có thể thấy được bầu trời rộng mở trên
cao là tóc con bé lại dựng ngược lên, nó bặm miệng thật chặt đến độ khó có thể
cậy ra được. Con bé đã từng ở lại một mình trong rừng suốt cả ngày nghỉ cuối
tuần, nằm lại một đêm trên một cái ghế đá, sáu ngày tại một đồn công an ở một
vùng quê, bốn mươi tám giờ trên một chuyến tàu đến thành phố. Lúc những chuyện
không hay này bắt đầu xảy ra, con bé bao giờ cũng thấy bỗng nhiên cha nó biến đi
đâu mất và nó chỉ còn lại một mình. Nhưng cuối cùng thì con bé luôn được thoát
nạn và an toàn trở về căn phòng tối om đầy mùi bùn và bắp cải
thối.
Phó ban không biết đến khi nào việc bỏ rơi con bé
Miêu Miêu này mới thành nhưng ông quyết định tiếp tục đương đầu với số mệnh. Vì
đứa con trai tương lai, vì mục đích để lần thụ thai tới của vợ ông thành công,
phó ban tiếp tục theo đuổi kế hoạch của mình. Ông tự nhủ lý do duy nhất khiến
ông bây giờ phải chăm sóc tử tế cho Miêu Miêu là nhằm chuẩn bị cho một cơ hội để
ông có thể rũ bỏ nó. Còn đối với Miêu Miêu, mỗi một chuyến đi ra thế giới bên
ngoài là một cơ hội để nó chứng tỏ cái sức sống bền bỉ của
mình.
***
Phó ban vào Đảng năm 1958. Thời kỳ Cách mạng văn
hoá, ông gia nhập một phe chính trị không đồng tình với những chỉ thị cải cách
của Mao chủ tịch và bị hất cẳng bởi phe đối thủ. May mắn là ông lại kết hôn với
một người thuộc phe thắng thế, do vậy mà thoát khỏi việc bị đấu tố. Ông làm tình
với vợ trong căn buồng tối tăm của họ trong khu nhà dành cho công nhân ở, khi
đó, ngoài trời, đạn bay vèo vèo. Cả hai người hầu như chẳng có kinh nghiệm gì
trong chuyện tình dục, ngoài một ít điều họ biết được qua những câu chuyện tục
tĩu, vì thế mãi đến năm thứ tư kể từ ngày họ kết hôn, vợ ông mới mang thai. Bác
sĩ bảo khuyết tật của đứa trẻ là hậu quả từ việc họ đã quá đà trong chuyện chăn
gối hồi vợ ông mang thai.
Sáu tháng theo đuổi kế hoạch của mình, phó ban vẫn
không sao tìm được cách để rũ bỏ Miêu Miêu. Ông dồn nhiều sức lực hơn vào kế
hoạch này và bắt đầu xao lãng công việc của mình. Lão thầy bói đã bảo rằng ông
chỉ có thể rũ bỏ được đứa con gái của mình khi nào ông chắc chắn có một người tử
tế nào đó nhận nuôi nó. Ông sẽ không thể nào bỏ rơi nó được nếu còn băn khoăn
nghĩ đến có chuyện nào rủi ro khiến con bé có thể bị hại hay phải chết đói.
Chuyện này không thành hẳn là có mối liên hệ với con giáp mà ông cầm tinh. Ông
tin là nếu sinh năm Dần hay năm Dậu thì bây giờ ông đã có thể ẵm một thằng cu
trên tay rồi.
Thường thì ông hay đem Miêu Miêu ra vùng ngoại ô,
hy vọng có thể vứt nó lại ngoài cánh đồng. Ông đặt con bé xuống bên cạnh một mô
đất rồi nấp sau một bụi rậm quan sát. Thi thoảng có một người qua đường dừng lại
chỗ con bé, đá đá vào ống chân nó để xem nó còn sống hay không. Thế rồi họ nhìn
xung quanh và khi chắc chắn rằng không ai nhìn thấy mình, họ lần lần sờ sờ con
bé. Nếu tìm thấy cái phong bì có nhét tiền mà phó ban đã gài vào trong túi áo
của con bé thì họ sẽ rút nó ra và xoáy luôn số tiền ấy. Một vài kẻ thậm chí còn
định lột cả áo quần của con bé nữa. Hễ thấy cảnh này là ông lại xổ ra đuổi theo
tên trộm, giật lại mớ quần áo và tiền từ tay hắn. Rồi ông lại bế Miêu Miêu lên,
đem nó đến một cánh đồng khác. Khi mặt trời bắt đầu ngả bóng và nếu như vẫn
không có ai nhặt con bé đi thì ông đành lê chân đến chỗ con bé, trong cảm giác
mệt mỏi vì đói, ông bế con bé lên mang về nhà.
***
Một ngày nọ, phó ban đọc được một bài báo nói về
một trại trẻ mồ côi ở thị trấn bên. Trại trẻ có những phòng ngủ sạch sẽ và sáng
sủa, bài báo tả như vậy, ngoài sân còn có cả một chiếc xích đu. Khách nước ngoài
từ sáu nước đã đến thăm trại trẻ và chụp ảnh với những đứa trẻ với khuôn mặt rất
vui tươi ở đó. Tim ông đập mạnh khi đọc mẩu tin này: "Tuyệt vời!” ông thầm nói.
"Đấy là cái mà Đảng đã cho ta! Một trại trẻ mồ côi do nhà nước quản lý - cuối
cùng thì Miêu Miêu cũng có được một nơi để đến!”
Ngày hôm sau ông nghỉ việc và đến thành phố đó cùng
với Miêu Miêu. Khi đến trước cổng trại trẻ, ông ngừng lại một lát và lẩm nhẩm
lại những gì định nói. Ông thầm thì với Miêu Miêu, bảo nó không được để lộ ra
ông là cha nó - một sự cẩn trọng không cần thiết, vì ông biết rõ là con bé không
thể thốt lên được một lời. "Mẹ mày giờ phải trông em” ông bảo với nó. "Mẹ mày
không có thời giờ để chăm sóc mày. Ở đây mày sẽ hạnh phúc. Ngày nào người ta
cũng cho mày ăn mì, và cả kẹo nữa. Thậm chí người ta còn dạy cả tiếng Anh cho
mày. Mày sẽ sung sướng hơn ở nhà nhiều.” Ông lau dãi cho con bé, bế nó qua cổng
của trại trẻ và gõ cửa.
Giám đốc trại trẻ mở cửa. Đó là một phụ nữ có gương
mặt nghiêm nghị, ít hơn vợ ông chừng vài tuổi. Phó ban đặt Miêu Miêu lên bàn
tiếp khách và quả quyết rằng ông đã nhặt được con bé ngoài phố. "Tôi đã hỏi xem
nó là con ai nhưng không ai biết cả”, ông bảo bà giám đốc, mặt tỏ vẻ bình thản
như không. "Một người bán dạo nói với tôi nó có thể là một đứa trẻ mồ côi và tôi
nên đem nó đến chỗ của đồng chí.”
Bà giám đốc săm soi nhìn vào mắt Miêu Miêu. "Đồng
chí bảo là mình đã nhặt được nó ngoài phố ư?” bà hỏi. "Chúng tôi không thể chắc
chắn đây là một đứa trẻ mồ côi được. Có thể là nó bị lạc, hay bị cha mẹ nó bỏ
rơi. Thật ra ông nên đem nó đến đồn công an.”
Phó ban bắt đầu toát mồ hôi. "Tôi chỉ muốn làm việc
tốt mà thôi”, ông nói. "Tôi không biết đường sá ở thị trấn này như thế nào. Tôi
chỉ ở lại đây trong ngày hôm nay. Và hơn nữa, tôi lại còn phải bắt kịp một
chuyến tàu”. Ông rút ra một tấm vé tàu, huơ huơ nó lên. Bà giám đốc thở dài và
miễn cưỡng đồng ý sẽ tự mình dẫn con bé đến đồn công an.
Phó ban trở lại nhà ga. Trong lúc đợi tàu, hân hoan
vì cuối cùng cũng đã thực hiện được ý định của mình, ông chạy đến quán ăn ở cuối
sân ga và tự thưởng cho mình một đĩa tai lợn và hai cốc rượu
ấm.
Ngày hôm sau, ông ngồi ở bàn làm việc nhìn ra cửa
sổ, nghĩ xem phải viết bức thư thông báo việc Miêu Miêu mất tích như thế nào,
sau đó là lá đơn mà ông và vợ phải thảo để xin phép sinh thêm đứa nữa. Đúng lúc
ông đang mơ màng nghĩ đến hình ảnh cậu con quý tử tương lai của mình đang bú ti
mẹ như thế nào thì chuông điện thoại reo. Ông trưởng đồn công an ở thị trấn bên
gọi ông đến để đem Miêu Miêu về.
Sáng hôm sau nữa, ông lại nghỉ làm, điều này làm
lãnh đạo đơn vị hết sức ngạc nhiên, bởi vì như thế nghĩa là ông đã vắng mặt
trong buổi họp chi bộ hàng tuần, để đến đón Miêu Miêu về. Phó ban băn khoăn
không biết vì sao công an lại có thể lần ra ông được. "Tai mắt đám đông chuyện
gì cũng có thể biết được,” ông lầm bầm. Ông nhận ra để tống khứ được con bé Miêu
Miêu này có lẽ ông phải đến một nơi xa hơn.
***
Vào ngày sinh nhật lần thứ tám của Miêu Miêu, phó
ban cho con gái một tấm vải nhựa để che mưa. Sau bữa mì xào làm nhân sinh nhật
của con bé, ông lại chuẩn bị cho chuyến đi sắp tới của hai cha con. Đầu tiên,
ông mặc một chiếc áo khoác không thấm nước và đi một đôi ủng mới. Rồi ông nhét
một viên thuốc ngủ vào miệng Miêu Miêu. Ông không nỡ bỏ rơi con bé lúc nó còn
đang thức, làm như thế, ông sẽ không phải nghe thấy nó nấc nghẹn hay chứng kiến
cảnh nó khóc gào giữa một bầy sói.
Mặc dù ban đầu vợ ông đã phản đối kế hoạch này của
ông nhưng dần dần ông đã thuyết phục được vợ, và bây giờ vợ ông còn ủng hộ ông
hết lòng. Trước lúc ông đi, bao giờ vợ ông cũng chuẩn bị cho ông một bi đông trà
nóng và một hộp thịt bò khô nhét vào trong ba lô. Sự quyết đoán và mạnh mẽ của
ông khiến bà thấy kính nể. Bà ngỡ ngàng trước vẻ đường hoàng của ông trong bộ đồ mới này. Ước muốn duy
nhất của bà là làm sao để chồng mình vui vẻ và sinh được cho ông đứa con trai mà
ông đã mong đợi từ lâu. Một tháng trước đó, chính bà đã trả tiền cho một mụ già
nhờ giàn xếp để bán Miêu Miêu cho một cặp vợ chồng vô sinh, nhưng ngay khi biết
con bé mắc bệnh thiểu năng thì cặp vợ chồng này đã đem nó trả lại và đòi hoàn
tiền. Sau thất bại này, bà vợ đã nghĩ đến việc phá rào, cố tìm cách để sinh đứa
thứ ba. Bà nghe nói có một bệnh viện tư ở một vùng nông thôn có thể tháo vòng
với giá 30 tệ. Nhưng khi nhìn thầy tờ áp phích dán trên cửa hàng gạo: "Một con
là quá nhiều: đủ để khổ cả đời”, bà không còn can đảm nữa.
Thế đó, Miêu Miêu vẫn không chịu biến mất. Nó phải
chịu hết tai nạn này đến tai nạn khác nhưng bao giờ cũng thoát nạn an toàn.
Trước khi lẫm chẫm bước đi, nó đã sống sót sau một vụ hai xe ô tô tông nhau và
một cú ngã từ cửa sổ tầng ba rơi xuống. Không đêm nào là nó không lăn từ trên
giường xuống sàn nhà bê tông nhưng chẳng bị hề hấn nghiêm trọng gì bao
giờ.
Một hôm, phó ban để con bé lại trên một lối đi vắng
vẻ bên một con kênh. Sau khi đặt con bé lại ở đó vài phút, một cái máy kéo không
biết từ đâu lăn qua chỗ con bé. Bánh xe sượt qua đầu nó và làm bùn bắn tung toé
lên mặt con bé. Khi phó ban chạy tới, ông thấy con bé vẫn bình an vô sự. Lốp xe
đã lăn qua hai bên thân mình của con bé. Hàng xóm nghe câu chuyện này bảo rằng
chỉ có những đứa bé được thần linh phù hộ mới không bị việc gì khi gặp một tai
nạn như vậy, và họ đoán rằng con bé sẽ đem lại may mắn và tài lộc cho gia đình
này. Bởi lẽ đó suốt cả một tháng phó ban không nghĩ đến chuyện tìm cách bỏ rơi
Miêu Miêu nữa và đợi vận may đến.
Nhưng không có gì thay đổi cả, một lần nữa phó ban
lại tin rằng cái hậu vận mà lão thày bói Tăng tiên đoán cho ông là chắc như đinh
đóng cột. Đầu óc ông bị ám ảnh nặng nề bởi chuyện nhà mình nguy cơ tuyệt tự. Ông
biết rằng nếu vợ ông vượt quá chỉ tiêu sinh hai con thì ông sẽ đánh mất tất cả
những gì mình đã cật lực mới có được: công việc ở cơ quan nhà nước, thẻ Đảng
viên, nhà cửa, lương bổng.
***
Vài tháng sau ngày sinh nhật lần thứ bốn mươi tám
của mình, ông được đề bạt làm trưởng ban tài chính, đúng như những gì mà lão
Zeng đã đoán trước. Nếu những lời phán khác của lão Zeng cũng đúng cả thì năm
sau một tai họa sẽ đổ ập xuống đầu ông. Nếu không qua được cái nạn này thì gia
đình ông sẽ vĩnh viễn tuyệt tự. Bây giờ chỉ có một sự lựa chọn duy nhất, ông
quyết định, là từ bỏ vị trí mới của mình và tập trung tất cả thời giờ vào chuyện
tìm cách để bỏ rơi Miêu Miêu.
Điều rắc rối là cứ mỗi lần định rũ bỏ Miêu Miêu là
ông lại thấy mình gắn bó với con bé sâu sắc hơn. Ông bắt đầu thấy hứng thú những
chuyến đi cùng nó về nông thôn. Hầu như cả đời chỉ quanh quẩn bên bàn giấy, bây
giờ ông thấy thật tuyệt vời khi cảm nhận được gió lùa trên mái tóc và nắng hắt
trên da mặt. Ông thấy thích thú khi khoác trên mình bộ đồ đi cắm trại và được
ngủ ở ngoài trời. Những chuyến đi cùng Miêu Miêu làm ông nhận thức sâu sắc hơn
về đời mình và theo một nghĩa nào đó, ông biết ơn con bé.
Nhiều năm qua, ông đã hy vọng Miêu Miêu sẽ hợp tác
với kế hoạch của ông và sẽ lặng lẽ biến mất khỏi cuộc đời ông. Nhưng khi cái hy
vọng này cứ dần dần tiêu tan thì con bé lại trở thành người duy nhất an ủi ông
và cảm thông với ông - nó là người bạn thân thiết nhất của ông. Cho dù ông có
đặt nó vào những chỗ nguy hiểm thì con bé vẫn là người duy nhất trên thế gian
này có thể tha thứ cho ông. Ông bắt đầu dốc lòng tâm sự với nó, kể cho nó nghe
những vấn đề của ông với vợ mình, những mối quan tâm của ông về tình hình thế
giới, nỗi đau lòng của ông vì tất cả những gì ông đã gây cho nó. Biết là con bé
chẳng thể nói gì để đáp lời, ông cảm thấy có thể thoải mái nói tục ngay trước
mặt nó.
Khi nhận ra những cố gắng của mình là vô ích, dần
dần ông không thể tự chủ trong suy nghĩ được nữa. Mỗi lần cố gắng ruồng bỏ Miêu
Miêu ông lại cảm thấy cứ như thể thật sự là ông đang ruồng bỏ chính mình và thấy
rõ cái tương lai đã được định đoạt của mình. Đôi khi ông cảm thấy chính Miêu
Miêu đã kéo ông ra khỏi thị trấn, chứ không phải là ngược lại. Cả nó nữa, nó
cũng đã học được nhiều từ những chuyến đi này. Mỗi lần nằm ngả lưng giữa một
cánh đồng vắng không, gào khóc trong vòng tay của một kẻ xa lạ, hay những lúc
nhìn thấy khuôn mặt đau khổ của cha mình, những hiểu biết của nó về thế giới này
được rộng mở.
***
Một buổi tối, bên rìa một ngôi làng xa xôi, khi
ngài trưởng ban đã từ nhiệm nằm ngả xuống mặt đất bởi kiệt sức, ông có cảm giác
như nghe thấy Miêu Miêu nói với mình: "Hơn hai năm qua, con đã phải chấp nhận
vai trò của một đứa trẻ bị ruồng bỏ. Con đã tìm được chính mình, và chính từ
những cuộc vật lộn để rũ bỏ con, cha đã học được đôi điều về cuộc sống. Một
người cha có thể đánh lừa một đứa con mắc bệnh thiểu năng nhưng một đứa con mắc
bệnh thiểu năng cũng có thể đánh lừa được cha mình. Con đã tạo cho cuộc sống của
cha một khuôn thức, một nhịp điệu. Con đã dạy cho cha những gì thuộc về chính
bản thân cha mà cha thấy có lẽ nếu không biết thì hơn. Cha phải hiểu nhiệm vụ
này của cha cuối cùng sẽ huỷ diệt chính cha. Trong cái thế giới điên đảo này,
chỉ có một đứa trẻ mắc bệnh thiểu năng mới có thể tìm thấy hạnh phúc. Con chẳng
chia sẻ bất cứ lỗi lầm hay trách nhiệm nào của cha. Con chẳng bận tâm bất cứ
điều gì về quá khứ hay tương lai, hay chuyện liệu tinh trùng của cha có phối
được với một tế bào trứng của ai đó không. Thậm chí con còn không chắc chắn là
mình có tồn tại trên đời này hay không nữa. Nếu cha cũng mắc bệnh thiểu năng như
con, cha sẽ hiểu những gì con nói. Con ước là cha sẽ từ bỏ cái nhiệm vụ vô ích
này của mình. Cha đã tận lực cho mọi người rồi. Cha đã không làm cả con và cha
thất vọng. Cha chẳng còn gì nữa để làm đâu.” Khi con bé nói, nước mắt và nước
dãi của nó chảy long tong xuống ngực cha mình. Lúc này, ông đang ngủ, đầu ông
tựa vào một bức tường gạch nung. Phía trên ông có một khẩu hiệu: "Thêm mười ngôi
mộ còn tốt hơn một cái nôi!”.
Chiều hôm đó, sau khi ngài trưởng ban đã từ nhiệm
bỏ rơi Miêu Miêu một lần nữa không thành, một người nông dân trong làng nói với
ông rằng không có ai ở đây cần con bé này cả. Ông ta bảo: "Ban kế hoạch hoá gia
đình đã kiểm tra chúng tôi rồi. Người nào cũng chỉ muốn có con trai để giúp đỡ
việc đồng áng. Không ai muốn một đứa con gái cả, một đứa con gái khuyết tật thì
lại càng không. Tốt nhất là ông đêm thả nó trôi sông. Ở làng này, nếu sinh một
đứa bé không hợp pháp, các bác sĩ sẽ tiêm một liều nước muối vào đầu đứa trẻ
ngay khi nó vừa được sinh ra, chỉ mười phút sau nó sẽ
chết.”
Khi đời sống người ta thay đổi theo sự phát triển
kinh tế của đất nước, người ta ít chú ý hơn đến ông trưởng ban đã mất cả đời để
vứt bỏ đứa con gái đầu lòng của mình và rồi lại đem nó về cưu mang. Nhưng người
nào cũng biết ông là ai.
Cứ để ý là họ lại bắt gặp hình ảnh một người đàn
ông cổ áo và ống tay áo là lượt (chỉ nhìn thoáng qua họ cũng biết trước kia ông
đã từng là viên chức nhà nước) đi ngang qua bảo tàng của thị trấn một cách vội
vã, bế trên tay một đứa trẻ tật nguyền. Ông băng qua cầu vượt dành cho người đi
bộ và đi về phía vùng ngoại ô mới, ông không nhằm hướng đi về phía công viên bên
bờ sông mà về phía những cánh đồng ở ngoài xa .
***
Đến khi ông trưởng ban cận kế sáu mươi tuổi, sức
lực của ông đã sa sút nhiều, ông không thể đem con gái mình đến những cánh đồng
được nữa. Thay vào đó, ông đặt con bé ở chỗ gần cửa hàng gạo, đầu nó nghếch về
phía tây nam. Rồi ông ngồi nấp sau một bụi cây cách đó mười mét, sợi dây lưng
màu đỏ của ông cứ lòng tha lòng thòng trên mặt đất. Khách qua đường để ý rằng
khi ông ngồi nấp sau bụi cây như thế những nếp nhăn trên mặt ông dường như biến
mất. Ông cứ ngồi đợi hàng giờ liền, kiên nhẫn như một người đi câu bên hồ vậy.
Nhưng ngay khi có kẻ nào đi qua và sờ vào "cái của để rơi” của ông là ông dựng
người lên, nhảy bổ tới và bế xốc Miêu Miêu lên. Trong thị trấn này ông trở thành
người bảo vệ duy nhất của đứa con tật nguyền.