- Tuần thứ nhất.
Ở
quê,
Ông
chưa yêu bà.
Ông
gặp bà từ hồi bà còn trẻ, trẻ măng. Hồi đó nhà ông cũng nghèo mà nhà bà cũng
chẳng giàu chi. Cả hai gặp nhau không một chút cảm giác yêu đương, cái mà người
ta vẫn gọi là tình yêu sét đánh. Sinh ra ở cái thời một sống chín chết, đám cưới
của họ khổ chưa từng thấy. Vậy mà họ cũng gặp nhau hoài, run rủi thế nào, họ lại
cưới nhau. Họ trở thành vợ chồng, vậy đấy.
Và,
không sướt mướt như trên truyền hình, không ca cẩm như trong cải lương, không
lãng mạn như tiểu thuyết diễm tình, ông không có cảm giác yêu nồng cháy với bà.
Đan vào nhau, từng nhịp một của cuộc sống, họ cứ thế mà tiếp tục, tồn tại như
những người bạn đời, không hơn.
Trải
trên những cảm xúc nhạt nhẽo, ông và bà không thích những cái cách mà người Tây
hay làm, họ theo kiểu truyền thống, chồng dạy vợ nghe, vợ làm chồng nghỉ. Chẳng
bao giờ hai người hôn nhau, họ làm chuyện đó, nhưng đơn giản chỉ để duy trì nòi
giống hoặc giả làm thỏa mãn nhau.
Ông,
cũng như bà, chưa từng biết cái hôn là gì. Hôn để biết tình yêu đẹp như thế nào,
nhưng đó là với đám trẻ bây giờ, còn họ, họ không hôn vì chẳng thiết tình yêu,
chẳng thiết cái cảm xúc cháy bỏng, mãnh liệt, có khả năng đốt chết hàng loạt con
tim đó. Nhưng nói vậy, không có nghĩa họ không phải con người. Họ là người 100%,
chỉ có điều, là những người không có tình yêu, hoặc chưa biết đến tình yêu, hoặc
hơn nữa, họ chưa thấu cái tình yêu họ có, có lẽ thế chăng
?
***
- Tuần thứ hai.
Ở
quê,
Ông
mất bà.
Đến
một ngày, ông buồn, một nỗi buồn khủng khiếp đến với ông, một nỗi mất mát mà ông
chưa bao giờ cảm thấy, đau hơn cả kim châm, nhức hơn cả lửa đốt. Bà đi
mất.
Không
phải bà chết đâu, mà bà bị bắt, bị bắt với một tội danh lạ hoắc lạ huơ. Ông hối
hận, đến chết vẫn còn hối vì cái buổi sáng đó, tiếng gọi cửa vang lên, và ông đã
chính tay mở cửa cho họ vào. Đó là mấy anh, mấy chị cán bộ. Ông thường gọi họ
như thế, họ trẻ măng, và cầm những giấy má chìn chịt chữ, ông chẳng đọc được chữ
nào, chỉ nghe họ nói huyên thuyên, hẳn nhiên là ông cũng chẳng hiểu câu chi
luôn. Chủ yếu, cái mà ông quan tâm, sự việc mà ông nhận ra, là họ bắt vợ
ông.
Bắt
mất bà. Ông chỉ biết có thế, và chỉ thế mà thôi, họ bắt vợ ông mất
rồi.
Trấn
tĩnh lại, ông mới nhận ra, vợ mình đã đi khỏi cùng với những người lạ mặt. Bà
gói ghém đồ đạc nhanh chóng, khóc lóc ỏm tỏi, nước mắt nước mũi tèm hem, bà níu
ông, tìm chỗ dựa nơi ông, nhờ ông bênh vực. Và, chắc chắn ông đã làm
vậy.
Đàn
ông Việt Nam, được cái gì không được, được nhất là biết bảo vệ gia đình mình. Đó
như bản năng, ông che chắn bà, làm cái việc mà người chồng phải làm, ông quát
mắng và chống chọi lại cái bọn "vô duyên, khả ố”, từ ngữ mà ông hay dùng. Nhưng
không được, cái tội của bà đã rành rành như thế, họ bắt bà đi vì: bà có nghi can
đến một vụ án giết người, hung khí tìm được trong ruộng dưa của nhà bà, có cả
nhân chứng đàng hoàng. Họ bắt bà, vì đã khẳng định và hoàn toàn được sự ủng hộ
của công lý.
Thế
là ông với bà chưng hửng, chẳng biết làm sao. Họ đưa ra một con dao bầu còn đỏ
máu, ông rùng mình và bà thì ngất xỉu. Bà đã cao tuổi rồi, gần sáu mươi rồi còn
gì, tóc bạc trắng cả.
***
- Tuần thứ ba.
Trên
đường đi, ở ngoại ô thành phố,
Ông
nhớ bà.
Ông
không tin, không tin vợ mình có tội, nhất định thế, nhất định là bà bị oan. Ông,
một người hay coi và cập nhật tin tức trên kênh thời sự, từ khi xóm ông được tổ
dân phố bắt điện và cáp truyền hình. Dĩ nhiên không phải là cáp kỹ thuật số rồi,
cái tivi màu cổ lỗ sĩ nhà ông, chỉ bật được có mấy kênh ít xì
xì.
Hồi
đó gắng lắm ông mới bán heo mua được tivi, cả xóm có mỗi nhà ông xem được tivi
đầu tiên, tự hào lắm chứ bộ. Nhưng thôi, quay lại chuyện của ông. Ông không tin
vào cái tội mà họ đặt cho bà, ông nghĩ họ đã vu oan cho ông. Cái tên gì gì… họ
nói, cái người gì đã vu cho bà cái tội giết người, ông ghim trong bụng, ông
quyết định lên thành phố, kiện cái người đó, đem vợ mình
về.
Nhà
ông có một ruộng dưa, hằng ngày đem trồng ra chợ bán. Ông lấy cuốc ra xem còn
bao nhiêu, đào hết bỏ vào bị, bán luôn một lần. Trong nhà còn bao nhiêu tiền để
dành, ông vét hết bỏ vào bị, chuẩn bị hành trình lên thành phố, cái chốn lạ lẫm
ông chỉ lên đó một lần.
Ông
dắt theo một con heo nái để phòng hờ, con heo ú ụ làm phiền ông nhiều lắm. Nó
khiến ông phải cuốc bằng chân lên huyện, chứ không phải bằng xe buýt hay xe lửa.
Không có xe nào chịu nổi con heo, hay cả ông già quê mùa chủ của nó nữa. Lục đục
cái lưng khỏe như vâm, một tay ông cắp giỏ, một tay ông dắt heo, lết thết một
ngày trời, vừa đi vừa nghĩ cũng tới được bến đò. Thế là từ đó, ông và con heo
cũng tới được ngoại ô thành phố.
Nhìn
cái dáng ông lê dép xềnh xệch, dắt heo như dắt con, đến là khổ. Người ta nhìn
vào chỉ trỏ quá trời, lần đầu tiên họ thấy một ông già ăn bận quê
mùa
dắt
heo đi chơi. Ai hỏi ông đi đâu, ông bảo lên phố.
Nhiều
người không hỏi kỹ cứ tưởng lão này già mà còn học làm sang, lên phố chưng diện.
Nhưng mà ông không có để ý, ông câm như hến, hỏi thì nói, không thì thôi, tính
ông nó thế.
Đường
đi đò làm ông mệt lử, ngay cả con heo cũng chóng mặt nằm xệ cả ra. Đường đò lâu
ơi là lâu khiến ông buồn chân buồn tay. Thường ông không trồng dưa thì cũng chạy
qua chạy lại kiếm việc gì đó làm, chứ ít khi ông chịu ngồi không. Bây giờ, giữa
miền sông nước lềnh bềnh, ông chợt hít vào những suy nghĩ về vợ
mình.
Rồi
cũng tới nơi, việc đầu tiên là đi tìm chỗ trọ. Trời đất, tìm chỗ ở được cũng là
một chuyện khó lắm chứ chẳng chơi. Thật ra chỉ khó với mỗi ông, tiền thì kiết,
lúc nào cũng mặc cả, lại còn dắt theo con heo hôi thối kêu eng éc nhức bưng cả
đầu. Ai thấy ông cũng tránh xa, còn thì dễ với người lắm tiền, vung ra vài chục
hay vài trăm thì được ở chỗ sang ngay. Nhưng mà ông đâu có dám, ở thì ở đâu
chẳng được, tiền phải dành để cứu vợ.
Thế
là ông ở trong một cái chòi nhỏ, giá thuê rẻ bèo. Nhìn sơ thì chỗ đó giống cái
chuồng hơi cái chòi, y chang luôn, đến cả con heo vừa vào thì rú lên như phải
gió, trông nó mừng quýnh vì tưởng được về nhà. Ấy thế mà ông mừng hơn cả con
heo, có chỗ thuê như vầy tốt quá, cứ tưởng phải tìm gốc nào trên con đường đất
mà chui vào ngủ đỡ.
Bụng
ông đói meo, trong cái chòi ánh điện mập mờ như chớm tắt, ông móc một củ khoai
từ trong giỏ ra nhai. Ngon tuyệt, trời lạnh ngắt cắt ra, tháng một tây rồi còn
gì, ấy thế mà ông quên bê theo cái chăn. Nhưng mà chiếc áo ông khoác trên người,
giờ thì ông cảm thấy ấm lạ lùng. Chắc là vì đó là cái áo vợ ông may, áo mới đàng
hoàng. Mùa nào bà cũng may áo mới cho chồng mặc đông. Nói thế mà ngẫm lại mới
hiểu, áo mới của ông khâu lại từ áo cũ của bà năm ngoái, hai vợ chồng đổi nhau
mặc cho khác màu.
Tối
đó ông ngủ sớm lắm, có con heo nằm bên cạnh cũng đỡ lạnh. Buồn quá, ngồi làm
chi. Ông nằm xuống ngáy khì khì, cả ngày đi bộ tê rần cả chân, giá mà có bà ở
đây vuốt dầu cho ông nhỉ! Sau hôm đó, ông ốm luôn. Nằm một chỗ mà rên hừ hừ, có
lẽ ông bị cảm vì mái chòi hở dữ quá, lại còn mặc áo mỏng và thiếu ăn. Ông xanh
xao và chỉ nằm một chỗ, ước gì có bà ở đây, bà sẽ lo cho
ông.
Nhưng
bà không có, mà chỉ có con heo trơ tráo nhìn ông, trông nó có vẻ lo lắng khi
thấy điệu bộ của ông. Mỗi khi ông ốm, có thói quen rên dài lên: "bà ơi, bà”. Đó,
lạ, nằm không cũng kêu, buồn cũng kêu mà vui cũng kêu. Thức cũng kêu mà ngủ cũng
réo. Mỗi lần ông ốm là mỗi lần bà mất ngủ, nhưng mà bà lại thấy vui vui, chỉ có
mình ông hay kêu bà chứ ai, mà mỗi lần ông ốm, bà thấy ông dễ thương đến lạ. Bà
thấy ông đẹp trai và hiền hẳn ra. Cái câu "bà ơi, bà” nó âm ấm và dễ chịu làm
sao…
Và
giờ cũng vậy, ông cũng kêu như thế, mà chẳng có bà nào chạy tới, trừ "bà heo”.
Nhưng mà bả thì chỉ biết nằm kêu ẹc ẹc thôi chứ biết làm gì. Cũng may làm sao,
ông biết từ chăm mình. Cố vực dậy, ông lôi mấy đồ trong giỏ ra, có chai dầu gió
bự, ông xức lấy xức để lên trán lên cổ. Rồi ông quay qua con heo, bôi lên hai
thái dương của nó nữa.
Gớm,
heo mà ốm thì mấy bữa nữa ông biết bán thế nào. Ông lại moi hết đống khoai ra,
ních cho no bụng. Ông sợ ông cứ ốm hoài, vợ ông sẽ khổ, vì thế cứ ăn cho no đã,
khỏe lại thì đi tìm cái khác mà nuốt. Người nhà quê sợ nhất là bị ốm, ốm rồi là
bải hoải, chẳng làm được gì, có mà đói. Tuần đó ông cứ ở lại nhà ngủ với con
heo, chờ cho khỏe. Ấy thế mà cữ ốm của ông dai phết. Ông thở hắt ra rồi quay
sang ôm heo ngủ cho ấm, ngày qua ngày, đến gần cuối tuần ông mới đỡ
dần.
Tuần
này, ông khỏe rồi. Ông khỏe thì ông bắt đầu công việc ngay. Ông hỏi đường. Đừng
tưởng thế mà dễ, trong cái hỏi đường tiềm ẩn biết bao nhiêu là chuyện vặt, mà
chuyện nào đối với ông cũng khó hơn lên trời.
Chuyện
thứ nhất, quan trọng nhất, ông phải vô trung tâm thành phố, ở đó mới có luật sư.
Chứ thành phố rộng lớn quá, ngoại ô thì cũng gần như chốn quê, làm gì có ai. Thế
là ông khóa cửa, bỏ con heo lại trong chòi, lấy tiền mua vé xe lên
phố.
"Chu
choa” lần thứ hai lên phố, ông đã thốt lên như vậy đấy. "Phố đẹp quá, cái gì
cũng đẹp, người cũng đẹp, ai cũng đẹp hết” Ông trầm trồ nhìn ngắm. Hồi xưa lên
phố tham gia chiến tranh, ông chỉ thấy đây đó mìn nổ lụp xụp, bụi cát vù vù. Giờ
đây nhìn đâu cũng thấy kính lắp bóng lộn, trông mà lóa cả mắt mũi. Lại còn ồn
nữa, ông lấy cục bông gòn xé ra nhét bớt vào hai lỗ tai mình cho đỡ ồn. Ở nhà
quê yên tịnh quen rồi, lên đây ồn quá, nhạc nhẽo xập xình, ông váng cả
đầu.
Hỏi
người này người kia, rốt cục ông cũng đến được phòng luật sư. Miệng ông móm mém,
khiến cho ông luật sư khổ sở ngồi vừa nghe vừa… suy đoán. Ông vừa ngồi vào là
nói tràn lan đại hải, nói búa lua xua, phần lớn để mô tả vợ mình như thế nào,
rồi bị bắt ra làm sao. Ông luật sư ráng ngồi nghe, nghe xong rồi mới tóm tắt lại
câu chuyện giùm ông. Chủ yếu là ông muốn kiện tên người đó, người đã bắt vợ ông,
rồi phải cứu cho được vợ ông ra. Cuối cùng luật sư hỏi, phần quan trọng nhất,
ông có bao nhiêu tiền ?
Ông
lủi thủi ra về, trời lạnh, lòng ông cũng lạnh toát. Nhìn ông già lủi thủi đi
ngang qua cái cầu phao, người ta ai thấy cũng liếc lại buồn buồn. Ông lạch bạch
bước bộ cùng với cái bóng dần in đậm trên đất của mình. Trên đường nhạt thếch,
trống trải.
Phải rồi, gần tết rồi mà, ai cũng lo làm lo ăn, lo vui cái hạnh phúc của mình.
Còn ông, giờ ông chỉ có mỗi một mối lo duy nhất, liệu có đem vợ về được không ?
Nhớ tới tết mà ông chợt chạnh lòng.
Mỗi
cái tết với ông là một niềm vui nho nhỏ. Đời ông đã ăn năm mươi mấy cái tết rồi,
cũng nhàm. Nhưng mà y chang rượu, mỗi lần nhắm tết với vợ, nó men men và say
say. Vợ ông hồi trẻ không đẹp, già rồi lại càng xấu, nhưng mà ở với nhau lâu
thật là lâu, dần rồi trở thành cái tay, cái chân, thiếu không
được.
Mỗi
lần bà đi đâu lâu một chút, đi chợ hoặc đứng trò chuyện với bà cụ xóm trên, là
ông lại đâm lo lo. Người ta chọc là vợ ông có bồ, đôi lúc ông còn tưởng thế
thật. Thế là ông cấm, bà đi đâu, ông theo đó, đi chợ cũng đi chung, đi chơi cũng
đi chung, đi cày cũng chung nốt. Giờ nghĩ ông tự cười phì một mình. Tối đó, ông
về chòi gặm khoai, vừa ngồi vừa vuốt đầu con heo mấy cái, y như mấy người vuốt
con vật cưng của mình. Còn ông, cũng may mà còn con heo, chứ không thì ông buồn
chết mất. Lần đầu tiên, ông nhận ra, cảm giác không có vợ ở bên cạnh, lâu và
chán nản như thế nào.
***
- Tuần thứ tư,
Ở
thành phố, nhà đứa cháu mới,
Ông
lo cho bà.
Làm
sao để có tiền? Đó là một câu hỏi khó. Mất cả tuần, ông mới hình dung ra cả quá
trình cứu vợ. Nó mới bất khả thi làm sao. Vét hết trong giỏ mà chỉ có vài trăm
ngàn. Ông thở dài thườn thượt, giá mà ông trẻ hơn chục tuổi, còn xin làm cái này
cái kia. Già khú đế như ông xin làm, ai mà nhận.
Ấy
vậy mà cũng có người nhận mới hay. Một cô hai chừng ba mươi tuổi, răng hô, mặt
nhọn, xấu nghí. Cô thuê ông làm một cái nghề kì cục khi bắt gặp ông ngồi ở quán
nước chè đầu ngõ nhà mình. Nghề của ông là giả làm ông nội. Đến là lạ, nhưng
lại chẳng lạ chút nào, đối với cô gái kia. Cô ta dẫn ông về nhà, mời ông uống
nước. Nhà trống trải,
chỉ có vài đồ dùng lặt vặt, đặt bê bối và vụng về. Ông hỏi kỹ, làm ông nội là
như thế nào. Thì ra, cô răng hô nhờ ông đi làm xui cho mình. Ý là gia đình nhà
chồng đòi hỏi phải có cha mẹ thì mới cưới xin, chứ không thì bị cho là người
không đàng hoàng.
Vậy
là cô răng hô thuê ông làm ông nội mình, đi dạm hỏi cho cô. Trời đất, hồi nào
giờ ông có làm cái này bao giờ đâu. Bà chẳng sanh cho ông nổi đứa con nít nào để
ẵm chứ đừng nói đến chuyện cháu chắt. Hai người sống với nhau thui thủi, nhiều
lúc thèm biết bao cái cảm giác làm cha, làm mẹ nhưng không được, lại chẳng ai
nói ra.
Đùng
một cái, ông lại có một đứa cháu, lại còn phải đi hỏi cưới cho nó nữa. Vừa mừng
mà vừa lo, lại có cảm giác là lạ. Mới đầu ông định từ chối, vì cái nghề này… kỳ
quá. Nhưng mà nghĩ đến bà, ông lại chẳng biết làm thế nào, cứ ngần ngừ mãi. Rồi
cô răng hô nằn nì, tỉ tê với ông. Bảo là cô xấu quá nên ế, đến giờ mới gặp được
một chàng, giờ mà không cưới thì chắc ở giá tới già
quá.
Nhìn
cô có cái răng gồ ghề, xấu xí, ông bất giác chợt cảm thương. Nếu mà ông có một
đứa cháu như thế, nếu mà ông nghe rằng, nó không lấy được chồng chỉ vì vẻ ngoài
của mình, chắc ông cũng buồn ghê lắm. Và ông đồng ý với cô, ông sẽ làm ông nội
của cô, sẽ đi cưới chồng cho cô. Ông nhe răng cười, vừa tủi thân, vừa nhớ vợ vừa
thấy cái gì đó vui vui len lỏi trong trái tim bằng phẳng của
ông.
***
- Tuần thứ năm.
Ở
thành phố,
Ông
yêu bà.
Ông
ăn vận thật chỉn chu. Cô cháu gái mới của ông bắt ông ở luôn lại nhà cô ta, đem
theo con heo nữa. Cả đời ông, chắc đó là lần đầu tiên ông được ở trong nhà xây
gạch trắng. Ông ăn đủ ba bữa, chẳng bỏ bữa nào. Ông được cho ngủ riêng một
buồng, có thể nói là sướng chưa từng thấy.
Và
đến kỳ hạn định, ông bắt đầu công việc của mình. Ông dắt cô cháu gái, mà đúng ra
là cô cháu gái dắt ông, đến một nhà hàng nơi nhà trai hẹn trước. Cuộc gặp gỡ
hoàn toàn thất bại, theo đúng nghĩa đen của nó. Người ta chỉ lấy cớ phụ huynh
này nọ, chứ nhìn cô là họ vốn đã không ưa rồi. Cả hai đành lủi thủi ra về, cô
kia buồn, ông còn buồn hơn, cứ như người mất hồn vậy. Ông có cảm giác, chính vì
sự xuất hiện của ông mà cô mất chồng, ông mặc cảm và bỏ đi, chưa lấy xu tiền
công nào. Ông dắt con heo đi mất, cô kia chẳng kịp nói gì, cũng chẳng biết ông
đi đâu để mà đuổi theo.
Ông
về lại căn chòi đó, cố tìm cách khác. Ông quay lại chỗ luật sư, hỏi xem ông ta
có cho khất nợ không ? Cả phòng luật cười ngất, công việc hành chính chứ có phải
buôn lê buôn thóc đâu mà khất với chả thiếu. Người ta nhìn ông với cái kiểu
thông cảm hết sức mỉa mai, cái nhìn thường trực của những cô cậu trẻ tuổi với
người già quê.
Túng
bấn,
ông chẳng biết làm gì, cứ ngồi một chỗ trong lều mà suy nghĩ. Tuần này trời trở
mưa lớn, không đi đâu được. Trong căn chòi, ông lấy nhiều miếng vải mỏng và ni
lông cũ, kéo đỡ vào những chỗ mưa dột. Sáng đến tối qua, ông co giò ngồi ngắm
trời mưa.
Nhớ
những lúc này, hồi còn ở quê, ông cũng cứ ngồi như thế. Nhưng mà lúc đó có bà
ngồi bên, bà bóp chân bóp tay cho ông, rù rì với ông mấy chuyện trên trời dưới
đất, cũng đỡ buồn. Trời đất, giờ ông mới nhận ra, cái giọng bà nói mới dễ nghe
và dễ thương biết bao.
Hồi
xưa còn trẻ, bà nói nhiều lắm, bà bảo lấy ông rồi, ông trầm tính quá, bà nói bù
qua cho phần ông luôn. Thế là bà huyên thuyên suốt ngày, dần dần tuổi già lấy đi
bớt phần nào sự nhiệt tình của bà, giọng bà khàn dần, rệu rã dần đi, vậy mà bà
vẫn nói… Nói khi ông buồn, khi ông chán, khi ông thèm nghe bà nói. Bỗng nhiên,
ông nhớ bà quá. Nhớ da diết, nhớ đến mức bỗng dưng khóe mắt nó rưng rưng. Hồi
nào giờ có bao giờ xa bà lâu như vầy đâu, nhớ quá !
Ông
lên cơn thèm rượu, nhưng mà không có rượu, ông moi khoai từ ra gặm, nhắm với
nước lọc, cũng đỡ thèm. Rượu thì còn thay thế được, nhưng thiếu bà thì không có
cái gì bù đắp
nổi.
Ông
thở dài cái thượt, ông lẩm bẩm "bà ơi, bà…”. Hai từ cách nhau đến một quãng xa
lơ xa lắc, ông thấy sao mà cái đời ông nó ngu ngơ quá. Ngồi không làm gì, ông
đâm ra nghĩ ngợi linh tinh. Suy nghĩ của ông chỉ quanh đi quẩn lại có mỗi hình
bóng của bà. Con người ta bình thường đã quen hơi thứ gì rồi, thiếu đi lại thấy
khó chịu, bứt rứt. Ông cũng vậy, không biết bà có vậy không nhỉ
?
Ông
đột nhiên nhớ đến những ngày còn trẻ, lúc đó ông khỏe lắm, đi làm điền làm
ruộng, làm đủ thứ cả. Rồi ông cưới bà, ông càng khỏe hơn. Nhưng mà cái đời ông
sao mà khổ, có làm bao nhiêu cũng nghèo. Cả bà với cả ông, xưa thì sống nhà
tranh, nay thì sống nhà đúc. Ông lại thở dài thêm cái nữa. Giá mà chỉ một mình
thôi cũng chả sao, ông thì gì cũng sống được, nhưng mà với bà thì không
thế.
Bà
là con gái, mà con gái thì thường thích những thứ tốt đẹp. Cả đời bà chắc chưa
thấy cái gì gọi là tốt đẹp, đến cái trâm hay cây son, ông cũng chẳng mua gì cho
bà được. Vậy mà bà vẫn theo ông. Người Việt Nam mà, thay vì nói từ "yêu”, chắc
họ sẽ nói là "thương”. Cái từ thương đó nó mặn mà, sâu
nặng.
Nhưng
mà thương mãi cũng chẳng yêu, hay chưa nhận ra tình yêu. Người ta nói, cưới nhau
về rồi từ từ bồi đắp tình cảm, kể cũng đúng thật. Nhưng mà sao từ đó tới giờ,
cái tình cảm đã được bồi đầy đủ, có khi còn dư ra nữa, mà ông vẫn chẳng nhận ra.
Ông không khi nào biểu lộ tình cảm với bà. Ví như ông vuốt tóc bà một cái hay là
hôn lên má bà, bảo với bà là "tôi thương mình lắm…”.
Không,
ông chưa từng nói vậy, để rồi giờ đây, ông lại tiêng tiếc. Ông nhớ lại mấy lúc
bà bị ốm trên ruộng, ông hoảng hồn, vừa thô lỗ vác bà vào trong giường như vác
một cái tủ, lộc xộc đi nấu cháo cháy cạn cho bà ăn. Đấy, ông chẳng nhớ ra có khi
nào ông đối xử hiền dịu, tử tế với bà lấy một chút không ? Ông lại thở dài, lại
buồn, buồn não nề. Mỗi lúc chiều lại là khi con người ta thấy sầu não nhất. Còn
ông thì cứ sáng, chiều hay là tối, hoặc là những thời khắc chen giữa mấy lúc đó
nữa, ông đều thấy thiếu bà. Ông thương, hay là yêu bà thiệt
rồi.
***
- Tuần thứ sáu,
Trong
thành phố,
Ông
yêu bà, rất nhiều.
Ông
mừng quá. Ông vui thật, niềm vui vỡ cả ra như nước bể
chảy.
Tuần
này ông tìm cách vô tù, thăm bà, và được biết bà đã được giải oan. Bà không giết
người, cái tên gì đó đã cho người điều tra, và bắt được thủ phạm đã dấu dao vào
vườn của bà, tạo hiện trường giả. Thì ra thủ phạm thông đồng với quan chức địa
phương, rồi họ vu cho bà cái tội đó.
May
quá, công an thấy kỳ lạ,
họ xét lại, rồi bí mật điều tra lại, mọi chuyện sáng tỏ. Bà đã được người ta cho
xe chở về quê nhà, sao bà không chờ ông nhỉ. Mà làm sao bà biết ông lên kiếm bà
chứ ? Thôi, gì gì thì, ông vui lắm, ông nhảy cẫng lên, reo um xùm, reo mấy câu
đại loại như: "bà ơi, bà”, "bà hổng có giết người, bà ơi,…bà”, "bà ơi,
bà…”
Ông
vui quá, vội trả tiền trọ cho chủ cái chòi. Ông bán phắt
con heo đi, định bụng sẽ tới chợ mua cái gì đó đem về cho bà. Bỗng nhiên, ông
muốn hẹn hò hay làm cái gì đó vui vui với bà. Như trên tivi ấy, họ làm đủ cả. Có
người già khú đế, già còn hơn ông mà còn tái cưới nữa
là.
Theo
lời của mấy người sống quanh đó khuyên, ông nên mua cho bà cái gì bà thích nhất.
Bà thích gì nhỉ ? Ông không biết, hồi nào giờ ông có hỏi hay có biết bà thích
cái gì đâu. Nhưng mà chắc bà thích đeo nhẫn.
Hồi
còn trẻ cưới về, ông nghèo xơ xác.
Ông mua khay trầu rồi cưới bà luôn, chẳng có cái gì làm tin cả. Người ta cưới
xin ăn nhau là cặp nhẫn, vậy mà cả đời trên tay bà chỉ toàn đất là đất, trẻ thì
căng non, già thì nhăn nhúm, tay bà cứ trống trơn. Càng nghĩ ông càng thương bà,
thương lắm cơ. Ông ra tiệm vàng, đem toàn bộ tiền mua hai cái nhẫn rẻ mà xấu
nhất, rồi hí hửng ra tàu về nhanh với bà.
Lòng
ông rộn ràng, bước chân thơi thới. Ông như trẻ ra chừng chục tuổi. Tiếng người
nói nói cười cười làm ông bất giác thấy sướng theo. Tết mà, ai cũng chuẩn bị sắm
đồ đón xuân.
Nhớ
mấy năm rồi, năm nào hai ông bà cũng tựa lưng nhau ăn tết. Nó thành cái truyền
thống. Bà mua thêm gạo và thịt lợn về nhào bánh chưng, ông hì hục lấy sợi gai
quấn bánh. Năm nào ngày 30 ông với bà cũng thức trắng.
Xem
trên tivi, ông thấy người ta cứ mua bánh chưng sẵn ngoài tiệm, bánh không có
buộc gai mà quấn bằng sợi ni lông, thế thì còn gì mà thích, còn gì là tết ? Với
ông, quấn bánh gai với bà cũng là một cái thú. Càng lúc ông càng nhận ra, ông
với bà có bao nhiêu là kỷ niệm, vợ chồng mà, người ta bảo càng già thì càng
thương nhau, đúng thế thật.
Cái
bánh, cái mứt, không khí chộn rộn mà sôi nổi hẳn. Ông ngồi trên xe đò mà ngắm
nhìn chung quanh. Không khí như có màu, cứ tới tết là nó lại đổi màu, từ không
sang có. Ông tính khi về rồi sẽ dắt tay bà cùng đi mua bánh mứt, mua gà và đồ
cúng về để sẵn. Từ nay không chỉ đi đứng cùng nhau, ông cũng sẽ cùng bà làm mọi
việc. Đối với người già, họ quá lớn tuổi để chú ý đến sự đời, nhưng lại quá trẻ
để tiếp tục yêu nhau nhiều hơn nữa. Trời ơi, càng nghĩ ông càng nôn nao, bụng
ông cứ quằn quặn, sao mà tự nhiên ông thèm gặp bà thế này không
biết…
***
- Tuần thứ bảy,
Ở
quê,
Bà
cũng yêu ông, nhiều lắm.
Ông
đứng trước cửa nhà rồi, nhưng mà ông không dám vào. Người ta bu quanh đông
nghịt, có cả nhà báo, mấy người hay cầm máy ảnh, cả đời ông chỉ chụp với bà có
một lần. Có công an, cả đời ông chỉ làm bộ đội có vài lần. Có hàng xóm, cả đời
ông chỉ nói chuyện với họ có triệu lần… Không có bà, người mà cả đời ông dành
trọn cho…
Người
ta chụp lấy tay ông, khóc lóc…
Có
người hãm bước chân ông lại, vì ông đi nhanh quá…
Có
người đỡ ông, vì ông bắt đầu khuỵu xuống…
Có
người ôm lấy ông, vì ông bắt đầu khóc…
Có
người đỡ và báu chặt lấy ông vì ông bắt đầu rú và lồng
lên…
Họ
buông ông ra vì bà đang nằm ở đó.
Bà
đã ra đi.
Người
ta nói bà bị trúng gió, đã bảo nên ở lại bệnh viện để kiểm tra, nhưng bà không
nghe, bà đòi phải về nhà với ông. Cũng như ông, bà nhớ ông, nhớ kinh khủng,
thương ông, thương rất nhiều.
Nhiều
đến mức mà ông bất giác cảm thấy xấu hổ. Nhưng cảm xúc của ông dường như bỏ tim
ông mà đi đâu mất rồi. Ông ôm bà, ôm hoài, ông lay bà, lay mãi, nhưng bà không
có trả lời ông. Cũng như khi ông hay gọi : "bà ơi, bà” Những lúc như thế, bà ba
chân bốn cẳng chạy đến bên ông. Nhưng mà giờ, bà không còn
tới bên ông nữa. Bà không có nghênh cái mặt nhăn nheo ra trêu ông nữa. Ông run
rẩy nói: "Bà ơi, bà coi, tui mua nhẫn cho bà rồi nè. Tụi mình đám cưới lại,
hen…”
Bà
để ông đeo nhẫn vào, không phản kháng, nhưng cũng không trả lời. Đám người xung
quanh như đang chết dần đi, câm lặng…
Không
khí lại đổi màu, đen nghịt … "Bà ơi, bà…”