~ Tài liệu
dành cho các Phật Tử.
~ Chú
thích hình minh họa:
Phật A Di
Đà (ở giữa) cùng hai vị Bồ Tát là: Bồ Tát Quán Thế Âm (bên phía tay trái Ngài,
cầm cành dương và bình nước cam lộ ~ vị Bồ tát này là hiện thân của Từ Bi) và
Bồ Tát Đại Thế Chí (bên phía tay phải Ngài, cầm bông hoa sen ~ vị Bồ tát này là
hiện thân của Trí Huệ).
1
~ PHẬT THÍCH CA VÀ PHẬT A DI ĐÀ KHÁC NHAU THẾ NÀO?
1.1 ~ Phật
Thích Ca là ai?
Phật Thích
Ca Mâu Ni là người sáng lập ra đạo Phật. Ngài được xác nhận là có thật trong
lịch sử: Là hoàng tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm của vương quốc Thích Ca - thuộc Ấn Độ
ngày nay, sinh vào khoảng năm 624 TCN. Sau khi nhìn thấy cảnh khổ đau của những
người già, người bệnh tật và người đã qua đời cùng vẻ ung dung thanh thản của 1
vị tu sĩ, thái tử Tất Đạt Đa phát tâm rời khỏi hoàng cung để tu học Phật quả.
Phật Thích
Ca là giáo chủ cõi Ta bà (đau khổ) ~ là thế giới mà chúng ta đang sống.
1.2 ~ Phật
A Di Đà là ai?
Phật A Di
Đà là vị Phật được tôn thờ nhiều nhất trong Phật giáo Đại thừa. Tên của Ngài
nghĩa là Vô Lượng Thọ - nghĩa là thọ mệnh vô lượng và Vô Lượng Quang - ánh sáng
vô lượng.
Phật A Di
Đà cai quản cõi Cực Lạc (an vui) ở phương Tây. Ngài có nhân duyên hóa độ chúng
sinh ở thế giới Ta bà này.
Khác với
Phật Thích Ca ~ được biết đến như là một nhân vật lịch sử có thật ở cõi Ta bà.
Sau nhiều kiếp tu tập, Ngài đã trở thành Phật trong kiếp sống cuối cùng ở cõi
Ta bà. Phật A Di Đà là vị Phật được biết đến thông qua các kinh, sách cổ Phật
giáo, Ngài không sinh ra trong cõi Ta bà như Đức Phật Thích Ca.
1.3 ~ Phân
biệt tôn tượng/ tranh vẽ Phật A Di Đà và Phật Thích Ca.
1.3.1 ~
Phật A Di Đà
~ Hình
dáng đặc trưng:
Phật A Di
Đà trên đầu có các cụm tóc xoắn ốc, mắt nhìn xuống, miệng thoáng nụ cười cảm
thông cứu độ, khoác trên người áo cà sa màu đỏ (tượng trưng cho màu mặt trời
lặn phương Tây), áo có thể khoát vuông ở cổ, trước ngực có chữ "VẠN”.
~ Tư thế
tay:
Phật A Di
Đà có thể trong tư thế đứng, tay làm ấn giáo hóa - tức là tay mặt đưa ngang
vai, chỉ lên, tay trái đưa ngang bụng, chỉ xuống, hai lòng bàn tay hướng về
phía trước; trong mỗi tay, ngón trỏ và ngón cái chạm nhau làm thành vòng tròn.
Phật A Di
Đà cũng có thể ngồi kiết già trên tòa sen, tay bắt ấn thiền (tay để ngang bụng,
lưng bàn tay phải nằm chồng lên lòng bàn tay trái, hai ngón cái chạm nhau).
Trên tay Phật có thể giữ một cái bát, là dấu hiệu cho giáo chủ.
Một dạng
khác của ấn thiền ở tượng Phật A Di Đà là các ngón tay giữa, ngón đeo nhẫn và
ngón út của hai bàn tay nằm lên nhau, ngón cái và ngón trỏ mỗi tay tạo thành
hai vòng tròn chạm nhau. Vì thế, ấn này còn gọi là Ấn thiền A Di Đà.
~ Nhân vật
đi kèm:
Phật A Di
Đà thường được minh họa cùng hai vị Bồ Tát là Bồ Tát Quán Thế Âm (bên phía tay
trái Ngài, cầm cành dương và bình nước cam lộ ~ vị Bồ tát này đại diện cho Từ
Bi) và Bồ Tát Đại Thế Chí (bên phía tay phải Ngài, cầm bông sen xanh ~ vị Bồ
tát này đại diện cho Trí Huệ).
1.3.2 ~
Phật Thích Ca
~ Hình
dáng đặc trưng:
Tóc Phật
Thích Ca có thể búi tó hoặc có các cụm xoắn ốc. Phật Thích Ca mặc áo cà sa hoặc
áo choàng qua cổ màu vàng hoặc nâu, nếu có hở ngực thì trước ngực KHÔNG CÓ chữ
"VẠN". Phật có thể ngồi trên tòa sen, nhục kế trên đỉnh đầu, đôi mắt
mở ba phần tư.
~ Tư thế
tay:
Tay tượng
Phật Thích Ca có thể xếp ngay ngắn trên đùi, hai bàn tay bắt ấn thiền, ấn
chuyển pháp luân hoặc ấn kim cương hiệp chưởng... Phật cũng có thể cầm một chiếc
bát màu đen hoặc xanh đen, dấu hiệu cho giáo chủ.
~ Các nhân
vật đi kèm:
Phật Thích
Ca Mầu Ni có thể được minh họa cùng hai vị tôn giả là Ca Diếp (vẻ mặt già, bên
trái) và A Nan Đà (vẻ mặt trẻ, bên phải). Đây là hai đại đệ tử của Phật Thích
Ca khi ngài còn ở thế gian.
Ngoài ra
còn có tôn tượng và tranh vẽ Phật Thích Ca sơ sinh - một tay chỉ thiên, một tay
chỉ địa; và Phật Thích Ca nhập diệt - nằm nghiêng mình sang phải.
2
~ HAI DANH TỪ: PHẬT VÀ BỒ TÁT ~ KHÁC NHAU NHƯ THẾ NÀO?
Phật là
đấng TOÀN TRI DIỆU GIÁC. Là bậc sáng suốt. Hoàn toàn trong sạch. Đã diệt tận vô
minh và phiền não. Ngài đã vượt ra khỏi vòng Tam giới, nghĩa là không còn bị
trói cột, dính mắc trong vòng sanh tử luân hồi.
Bồ tát,
Phạn ngữ BODDHI SATTA, nghĩa là chúng sanh có nhiều trí tuệ. Có nhiều trí tuệ
chứ chưa phải là TOÀN GIÁC. Còn Bồ tát là còn sanh tử luân hồi, còn bị vô minh
buộc ràng và dục vọng lôi kéo. Vị Bồ tát còn phải xuống lên trong TAM GIỚI (Dục
giới, Sắc giới, Vô Sắc giới), khi làm Trời, khi làm người, tuỳ theo NGHIỆP LỰC
tạo tác.
3
~ BỒ TÁT VÀ CHÚNG SANH CÓ KHÁC NHAU KHÔNG?
Như trên
đã giải, thì Bồ tát là một chúng sanh. Song vị chúng sanh này có nhiều trí tuệ,
có nguyện lực thanh cao hơn, luôn luôn đời nào, kiếp nào cũng mong mỏi thành
một bậc CHÁNH ĐẲNG, CHÁNH GIÁC để độ mình và hoá độ chúng sanh.
4
~ CHƯ BỒ TÁT CÓ NHIỀU KHÔNG?
Nhiều thì
cũng không nhiều, nhưng cũng không phải là ít. Ví như một cây hồng, một lần ra
hoa, không biết cơ man nào là nụ, là hoa. Nhưng đến khi kết quả, thì không có
bao nhiêu. Chúng sanh cũng như thế ấy, sự ao ước, sự mong mỏi, sự mong muốn thì
nhiều, song đến khi kết quả, đến mục đích, thì không còn bao nhiêu.
Vả lại, vị
Bồ tát muốn đắc thành CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC, lại còn có hai bậc. Hai bậc ấy là:
1. ANIYATA
BODDHI - SATTA. (Bất Định Bồ tát).
Chư Bồ tát
chưa thành tựu được nguyện vọng. Là chư Bồ tát nào, đã có nguyện trong tâm,
phát ra lời nói nhưng chưa có một vị Phật thọ ký cho, thì chưa chắc đã thành
CHÁNH ĐẲNG, CHÁNH GIÁC được.
2. NIYATA
BODDHI SATTA (Xác định Bồ tát)
Chư Bồ tát
đã thành tựu được nguyện vọng. Là Bồ tát đã được một, hoặc nhiều vị Phật thọ ký
cho, chắc chắn sẽ thành CHÁNG ĐẲNG, CHÁNH GIÁC trong ngày vị lai.
5
~ CHƯ BỒ TÁT CÓ ĐIỀU GÌ KHÁC CHÚNG SANH?
Chư Bồ tát
trọn vẹn, có TÁM PHÁP khác thường hơn tất cả chúng sanh.
1) Phải là
người, chứ không là Trời hay là Thú.
2) Phải là
nam nhơn, chứ không phải phụ nữ, hay bán nam bán nữ.
3) Có đủ
duyên lành và có thể đắc A LA HÁN trong kiếp ấy (như THIỆN HUỆ Đạo nhơn là Bồ
tát tiền thân của Phật tổ GOTAMA vậy).
4) Gặp
được đức Phật ra đời, và làm được một việc lành nào đến đức Phật ấy.
5) Phải là
người xuất gia.
6) Phải có
đầy đủ Pháp của bậc cao nhơn là Ngũ Thông và Bát Thiền.
7) Đã làm
được Phước báu cao thượng như là hy sinh cuộc đời của mình do tâm nguyện thành
tựu quả vị CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC.
8) Phải có
ý nguyện đầy đủ, quyết tâm thành vị CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC dù cho khó khăn khổ
sở cũng không nao núng và thoái chuyển. Chư Bồ tát nào đã có đầy đủ TÁM PHÁP
trên đây thì mới được chư Phật thọ ký cho, từ ấy mới được gọi là NIYATA BODDHI
lực thanh cao hơn, luôn luôn đời nào, kiếp nào cũng mong mỏi thành bậc CHÁNH
ĐẲNG, CHÁNH GIÁC để độ mình và hoá độ chúng sanh.
6
~ CÓ PHÁP NÀO CHỨNG TỎ BỒ TÁT ĐÃ ĐƯỢC THỌ KÝ?
Có BỐN
PHÁP để căn cứ, của chư Bồ tát đã được thọ ký.
1. Rất
siêng năng, dũng cảm trong việc làm điều lành.
2. Có trí
tuệ phân biệt thiện ác, để xa lánh điều dữ, hành theo điều lành.
3. Có chí
cả quyết và cứng rắn. Là khi đã làm một điều thiện nào không hề thoái chuyển và
ráng làm cho đến khi thành tựu.
4. Khi làm
một việc gì, thì đó là việc hữu ích cho mình và cho kẻ khác.
7
~ NHỮNG NẾT HẠNH NÀO CỦA CHƯ BỒ TÁT ĐÃ ĐƯỢC THỌ KÝ?
Chư Bồ tát
được thọ ký rồi có sáu nết hạnh.
1. Có nết
hạnh không THAM, và luôn luôn có ý muốn dứt bỏ của cải, tài sản của mình để làm
việc hữu ích cho kẻ khác.
2. Có nết
hạnh không SÂN, và luôn luôn có Tâm Từ bi đối với tất cả chúng sanh.
3. Có nết
hạnh không SI và có Trí Tuệ suy xét rõ rồi mới Tin.
4. Có nết
hạnh muốn Xuất gia, là có ý muốn dứt bỏ các sự thương mến ràng buộc.
5. Có nết
hạnh ưa thích nơi thanh vắng Vườn Rừng, xa lánh bạn bè và nơi tụ họp đông đúc.
6. Có nết
hạnh muốn giải thoát khỏi Ái dục, Phiền não và Khổ não Thế gian.
8
~ CHƯ BỒ TÁT ĐƯỢC THỌ KÝ, CÓ ĐIỂU NÀO KHÁC CHÚNG SANH?
Có bảy
PHÁP XUẤT CHÚNG của chư Bồ tát được thọ ký.
1. Có tâm
gớm ghê điều xấu xa tội lỗi, là tâm của Bồ tát đã được thọ ký rồi, thì hổ thẹn
và ghê sợ tội lỗi, ví như bị phỏng lửa, khi thấy lửa thì ghê sợ.
2. Có tâm
vui thích theo điều thiện. Là tâm của Bồ tát lúc nào cũng tươi vui, thoả thích
theo điều lành việc phải. Một khi đã làm được một điều thiện nào, thì sốt sắng
vui vẻ làm cho đến khi thành tựu.
3. Tâm
nguyện cho tuổi Thọ đã nhất định. Là khi Bồ tát sanh về cõi Trời sống quá lâu,
do phước báu, nên Ngài nguyện cho tuổi thọ giảm bớt, để sanh xuống trần gian,
hành PHÁP BA LA MẬT, mà độ đời.
4. Khác
thường hơn các chúng sanh là Bồ tát khi giáng sanh vào lòng mẹ, thì rất sạch
sẽ, mặt hướng ra phía trước. Ngồi xếp bằng như một vị Pháp sư.
5. Có sự
ghi nhớ và biết rõ ba kiếp trước. Khi kiếp chót sẽ thành Đạo. Khi giáng sanh
vào lòng Phật mẫu cũng biết. Khi ở trong lòng cũng biết. Và khi sanh ra cũng
biết.
6. Khi
sanh, thì Phật mẫu đứng, Bồ tát xuôi tay bước ra, như thể Pháp Sư bước xuống
pháp tọa.
7. Sanh ra
trong loài người chứ không phải chư thiên hay súc sanh. Hơn nữa, lúc nhập NIẾT
BÀN có để hài cốt, ngọc Xá Lợi lại cho chư thiên và nhơn loại lễ bái cúng
dường.
Tóm lại,
chư Bồ tát phải thực hành tròn đủ MƯỜI PHÁP BA LA MẬT đúng theo khuôn khổ, thời
gian nhất định và có được một vị Phật thọ ký cho biết trước (sẽ thành một vị
Phật tổ) chừng ấy mới gọi là Bồ tát thật, và thế nào cũng chứng quả CHÁNH BIẾN
TRI A NẬU TA LA TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ (SAMMÀ SAMBUDDHO).