Từ sau ngày mẹ chúng mất,
bà mon men bước vào ngôi nhà lặng lẽ với cánh cổng nặng nề kéo lê nhịp bước thời
gian. Lần đầu tiên ông đưa bà về, chúng chẳng nói chẳng rằng, mỗi đứa trốn vào
một góc phòng làm việc riêng. Ông nhìn bà ái ngại: "Bà có chắc dạy bảo được
chúng không thế?” ."Ông yên tâm! Tôi làm được!”. Vừa lau chùi lại khu bếp nấu,
mắt bà sáng long lanh.
Ba năm đằng đẵng trôi…
"Trời sắp có giông, con
nhớ mang theo áo mưa nghen!”
"Bà đừng có gọi tôi là
'con'. Tôi không thích!”
Nói rồi thằng Hai phi thẳng
ra cửa. Nó nổ máy giòn tan và lướt êm ra đầu ngõ, đầu óc nhẹ tênh chẳng muộn
phiền.
"Thức ăn mẹ nấu sẵn rồi.
Trưa đi học về con hâm lại mà ăn cho nóng”.
"Tôi đã nói là không ăn
cơm bà nấu. Phiền phức quá đi!”
Con em út tức tối đóng mạnh
cánh cửa ra vào. Tiếng kêu rất mạnh làm thức giấc cả mùa đông tê buốt. Bóng đứa
con vừa khuất sau bờ tường bao quanh ngôi nhà, bà lặng lẽ ngồi xuống, tức tưởi
khóc.
Ngày thằng anh vào đại học,
con em vào cấp III, bà mừng rỡ sửa soạn mâm cơm tươm tất để mừng chúng nó. Bà hết
sức chú ý đến khẩu vị của hai đứa, thằng anh thích ăn cay và bỏ ít đường, con
em chuộng đồ luộc và đặc biệt thích món sườn xào chua ngọt. Lúc dọn bữa, thằng
anh một câu: "Bà cho quá nhiều đường rồi”, con em một câu: "Sườn xào chua ngọt
bà làm không ngon bằng mẹ!”. Bà cúi gằm mặt, ăn quýnh quáng cho xong bữa cơm. Dọn
dẹp bát đũa một hồi thật sạch sẽ, bà lên giường nằm đắp chăn. Đêm đó, bà sốt
cao.
Được một dạo, bà tức tưởi
từ quê lên thành phố thăm thằng Hai đang trọ học. Bà mang theo nhiều trái cây,
rau quả tươi và một con gà ta cho nó tiếp đãi bạn.
"Bác chu đáo quá! Còn lặn
lội đường xá xa xôi lên tận đây thăm con nữa cơ đấy!”. Cả dãy phòng trọ nhao
nhao lên.
"Mẹ con gì bọn mày. Người
quen thôi!”. Thằng Hai vội vã thanh minh như mắc tội với tụi bạn.
Đoạn, nó quay sang bà, lạnh
lùng: "Không có việc gì nữa. Bà mau mau về sớm đi!”.
Chết lặng người, môi bà
run run. Bà bối rối nhìn vào lố nhố đám đông những con người trước mặt. Bà lúng
túng đội cái nón mê, xách cái làn, lụm khụm đứng dậy. Ra đến cửa, bà mếu máo
trông vào: "Con nhớ ăn uống cho đầy đủ. Dạo này con xanh xao lắm. Mấy bữa nữa rảnh
rỗi, mẹ lại lên thăm con!”.
Nhiều năm nữa trôi qua...
Cả hai đứa con đều đã
thành đạt và có gia đình riêng. Bà ngỏ ý muốn giúp gia đình thằng anh mấy việc
vặt, vợ chồng chúng từ chối. Đứa em út sinh con đầu lòng, bà tất tả từ quê đến
giúp đỡ nó trông con, nhưng đều bị cự tuyệt. Bà hết sức đau lòng.
Bà ngày càng già yếu, đi
đứng đã chậm chạp, giọng nói thều thào không ra hơi. Bữa vừa rồi lên thăm thằng
Hai, bà không quên dặn dò: "Các con có bận gì thì bận, nhớ về thăm mộ của ba mẹ
các con. Sẵn tiện mẹ sẽ chuẩn bị cho con mấy thang thuốc bổ mang về”. Chúng nó ậm
ừ cho qua chuyện, mà không có ai về thăm cả.
Bệnh tình của bà ngày
càng thêm trầm trọng. Bà gọi điện cho từng đứa, nói rằng không sống được bao
lâu nữa, và rất mong được nhìn thấy chúng. Đó là lần duy nhất chúng nghe thấy
tiếng bà khóc. Tiếng khóc thút thít như kìm nén ấm ức theo năm theo tháng mà
không thể giãi bày.
Nghe chúng bảo sắp về, dù
bệnh và vẫn lọ mọ xuống giường, thu dọn nhà cửa, quét mạng nhện giăng khắp nơi,
cắt gọn mấy cây mọc tùm lum, nhổ cỏ trước sân cho đỡ rậm rạp. Bà còn cố sức chống
gậy đi ra đến chợ, mua thêm mấy đồ dùng mới, cả mấy bông hoa cúc vàng về cắm lọ.
Xong việc, bà đấm khẽ khẽ vào tấm lưng mỏi mệt, miệng mỉm cười, bà đăm đắm nhìn
ngôi nhà sắp chào đón các con trở về.
Và bóng dáng những người
con vẫn xa khuất chân trời...
Người ta tìm thấy xác bà
chết gục bên hai ngôi mộ. Một là của chồng bà. Một là của người mẹ sinh ra hai
đứa con mà bà hết lòng thương yêu.
Người ta kể lại rằng, trước khi chết, bà chỉ để lại mấy lời ngắn ngủi :
"Tôi không thể sinh con. Bản năng của người đàn bà trong tôi dồn hết cho hai đứa
chúng. Chỉ mong một lần được nghe chúng gọi tiếng "Mẹ ơi…”.