"Dù ta có tài năng đến đâu, dù ta có chuẩn
bị kỹ lưỡng đến mức nào, thì những điều bất như ý vẫn cứ xảy ra theo lẽ tự nhiên
của nó..."
~ Chỉ là bất như ý:
Người ta vẫn thường nói rằng nghèo là khổ,
nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thật ra, người nghèo có nỗi khổ của người
nghèo mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp
nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn được giàu nên mới khổ. Còn người giàu
lại sợ bấy nhiêu tài sản chưa đủ làm người khác nể phục, sợ bị phá sản, sợ bị kẻ
xấu lợi dụng hay hãm hại nên mới khổ. So ra cái khổ của người giàu đôi khi còn
phức tạp và nan giải hơn người nghèo. Phải chi trong xã hội ai cũng như ai, ai
cũng sở hữu tài sản như nhau thì chắc chắn ý niệm giàu nghèo sẽ không có. Nhưng
điều ấy không bao giờ là thực tế khi con người ngày càng ưa chuộng vật chất và
xem đó là điều kiện căn bản của hạnh phúc. Cho nên, nếu ta may mắn không bị cuốn
theo quan niệm của xã hội mà thoát ra khỏi ý niệm giàu nghèo, ta thấy sự hưởng
thụ vật chất không phải là lý do lớn nhất để ta có mặt ở trên cõi đời này, thì
chắc chắn ta sẽ không còn than nghèo khổ nữa.
Người ta cũng thường gộp chung cực với khổ, cực
khổ. Nhưng bản thân của sự cực nhọc chưa chắc là đã khổ. Chỉ vì ta kháng cự lại
nó, ta muốn mình không phải vất vả mà vẫn có đầy đủ mọi thứ tiện nghi như bao người khác nên ta mới
khổ. Ta chỉ biết so sánh, đòi hỏi, chứ không chịu tìm hiểu căn nguyên sâu xa tại
sao mình lại cơ cực. Chắc ta cũng đã từng chứng kiến, có những người chỉ cần
người thân của họ qua khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, dù người thân ấy không thể tiếp
tục lao động nữa, thì họ vẫn vui lòng đem hết thân mạng của mình ra để bảo bọc.
Có những người làm công tác cứu hộ, họ biết lao vào lửa dữ, chui xuống lòng đất
hay đi ngang qua làn tên mũi đạn sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng vì tình
thương mà họ không hề xem đó là một nỗi khổ. Có người lại cho rằng cái cực tâm
trí mới thật là khổ, vì phải suy tính đủ điều mới gánh vác nổi công việc. Nhưng
trong thời buổi kinh tế suy thoái mà còn có công việc để làm, để suy tính, thì
đã là điều hạnh phúc lắm rồi. Cho nên, cực có trở thành khổ hay không là tùy vào
thái độ của mỗi người.
Điều mà ta thường than thở với nhau nhiều
nhất đó là đau khổ, hễ đau là phải khổ, như là một sự thật không thể thay đổi.
Thí dụ, ai đó tát vào mặt ta một cái có thể làm ta rất đau. Nhưng nếu ta biết
mình có lỗi rất lớn với người ấy và sẵn sàng đón nhận, thì cái tát đó sẽ không
làm ta khổ. Đằng này bằng một thái độ khinh miệt, họ đã "tặng" cái tát để sỉ
nhục ta trước mọi người thì ta khổ thật đấy. Làm ăn bị thất bại khiến tiền bạc
mất trắng ai mà chẳng đau xót, vì đó là mồ hôi nước mắt mà ta đã chắt chiu gây
dựng suốt bao năm trời. Nhưng từ cái đau ấy đến cái khổ vẫn còn một khoảng cách
khá xa, nếu ta biết rõ nguyên nhân thất bại và chấp nhận sự thất bại ấy như một
bài học kinh nghiệm. Và có lẽ, cái đau thống thiết nhất của nhân sinh chính là
sự chia lìa, nên thường được ví như khúc ruột cắt đứt làm đôi (đoạn trường
thương đau). Nhưng nếu ta ý thức được chuyện hợp tan là do nhân duyên, biết đây
chia lìa lại là cơ hội để hai bên cùng nhìn lại mình để tạo ra cái duyên mới tốt
đẹp hơn trong tương lai, thì ta sẽ không còn thấy đó là nối thống khổ nữa. Quả
thật, đau và khổ là hai cung bậc cảm xúc rất khác nhau.
Cuộc sống luôn có những điều hợp với ý ta
nhưng lại mâu thuẫn với suy nghĩ của người khác, hoặc thỏa mãn nhu cầu người
khác nhưng lại trái nghịch với sở thích của ta. Ngay với chính bản thân ta cũng
có lúc "sáng nắng chiều mưa" mà chính ta còn không hiểu nổi, thì làm sao hoàn
cảnh có thể làm vừa lòng ta mãi được? Có những điều trước kia ta ghét cay ghét
đắng nhưng bây giờ lại tất yêu thích; có những thứ trước kia ta hết sức say mê
nhưng bây giờ lại không muốn nhìn tới nữa; có những vấn đề trước kia ta vốn xem
thường nhưng bây giờ lại cảm thấy quá hệ trọng. Giả sử mọi mong muốn của ta đều
thành tựu hết thì thử hỏi ta sẽ trở thành cái gì và cuộc đời này sẽ ra sao? Vậy
mà ta chỉ biết đòi hỏi, chứ không chịu suy xét nó có thật sự đúng đắn và phù hợp
với khả năng của ta và hoàn cảnh hiện tại hay không? Rõ ràng cái khổ của ta
không hẳn là cái khổ của kẻ khác. Vì thế, hầu hết những nỗi khổ mà ta thương kêu
ca chỉ là sự bất như ý mà thôi.
Vậy thay vì than: "Tôi khổ quá!" thì ta hãy
nên nói: "Nó bất như ý với tôi quá!". Cách gọi này chính xác hơn. Nó sẽ đánh
động vào ý thức, giúp ta nhìn lại thói quen hay cách phản ứng của mình, thay vì
cứ rượt đuổi theo đối tượng khác để đổ lỗi hay trừng phạt. Từ đó, ta sẽ nhận ra
quan niệm "đời là bể khổ" chỉ là do cách nghĩ, hay chỉ là định kiến mà
thôi.
~ Giá trị của khổ đau:
Ta đừng bao giờ quên rằng ta không phải là
một cá thể tồn tại biệt lập. Ta phải luôn chịu sự tương tác của bao nguồn lực
xung quanh, từ bạn bè, gia đình, đến xã hội và cả vụ trũ bao la nữa. Dù ta có
tài năng đến đâu, dù ta có chuẩn bị kỹ lưỡng đến mức nào, thì những điều bất như
ý vẫn cứ xảy ra theo lẽ tự nhiên của nó. Có thành thì phải có bại, có hợp thì
phải có tan. Tại sao ta chỉ muốn thành và hợp, còn bại và tan để cho ai? Lúc may
mắn sao ta không tự hỏi mình có thật xứng đáng với những thành quả ấy và có nên
đón nhận nó hay không? Vậy mà mỗi khi gặp xui rủi thì ta lại khóc than ầm ĩ, đòi
hỏi sự công bằng. Ta đã hưởng thụ quá nhiều từ những tặng phẩm của vũ trụ rồi
thì lâu lâu bị vũ trụ lấy lại để chia sớt cho kẻ khác, thiết tưởng đó cũng là lẽ
tự nhiên chứ đâu có gì là thua thiệt!
Đối với những mất mát quá lớn thì tất nhiên
phải cần có thời gian ta mới chấp nhận hoàn toàn được, nên việc phản ứng lại
cũng là lẽ thường tình. Nhưng có những điều quá đỗi bình thường, nếu không nói
là quá tầm thường mà ta cũng than khổ thì đó là lỗi của ta. Như trời mưa cũng
khổ, kẹt xe cũng khổ, bị lỗi hẹn cũng khổ, thức ăn không vừa miệng cũng khổ,
chiều cao không như ý cũng khổ, mau già cũng khổ, không ai hỏi thăm cũng khổ,
được nhiều người thương cũng khổ... Những nỗi khổ ấy là do nơi hoàn cảnh hay vì
lòng tham của ta quá lớn? Hãy bình tâm nhìn lại xem! Không ai có thể làm cho ta
khổ được cả, nếu ta có hiểu biết đúng đắn và khả năng chấp nhận đủ lớn. Để có
được khả năng chấp nhận rộng lớn, ta cần phải biết thu gọn lại những mong cầu
không cần thiết của mình. Ngay cả với những điều được cho là chính đáng, nếu
thấy không có nó mà ta vẫn có thể sống vững vàng và hạnh phúc được, thì ta cũng
nên cố gắng khước từ để tâm ta bớt lệ thuộc vào hoàn cảnh. Nhờ vậy, khi hoàn
cảnh biến động thì ta vẫn an nhiên bất động.
Ngoài ra, ta cũng nên luyện tập cho mình
cách đối mặt với khó khăn, hoặc tự tạo cho mình một cách nghĩ, cách sống đừng
quá cầu mong sự an toàn, để cho sức chịu đựng trong ta được lớn mạnh. Ta thấy
những đứa trẻ lớn lên trong môi trường được bảo bọc quá đầy đủ, khi bước vào đời
không có chút vốn liếng kinh nghiệm nào mang theo để chống chọi với những nghịch
cảnh, nên chỉ cần một tác động nhỏ như bị chê bai là chúng dễ dàng chao đảo và
muốn bỏ cuộc ngay. Cũng như những loại cây mọc trên đất tơi xốp, trông xanh tươi
mơn mởn, nhưng chỉ cần một cơn gió lớn đi ngang qua là gãy đổ. Còn những loại
cây mọc trên đá núi, tuy dáng dấp khẳng khiu nhưng độ bám rất vững vàng. Cho
nên, ta không thể cầu nguyện cho cuộc đời đừng xô đẩy mình vào những hoàn cảnh
nghiệt ngã, nhưng ta có thể làm cho mình không bị gục ngã trước sóng gió cuộc
đời bằng sự vững chải từ chính trái tim mình.
Để có được trái tim ấy, ta phải biết đặt
mình vào trong khuôn khổ của sự đào luyện, chứ không thể do sự ép buộc mà được.
Nghĩa là ta vừa phải giới hạn sự hưởng thụ, cũng vừa phải tập đối đầu với mọi
nghịch cảnh. Ta đừng vội kêu ca: Sống mà không hưởng thụ thì sống để làm gì? Có
ai cấm ta hưởng thụ đâu. Nhưng cái gì cũng có cái giá của nó cả. Nếu ta cứ vun
dưỡng cho cái tôi yếu đuối mãi thì đừng hỏi tại sao đời mình cứ khổ đau hoài. Dĩ
nhiên, với một người đã có trái tim vững chãi thì bao nhiêu danh lợi cũng không
là vấn đề. Họ có đủ bản lĩnh để vượt lên trên danh lợi, hay sử dụng nó một cách
hữu ích cho đời. Song, thực tế số người có ý niệm muốn buông bỏ thói quen hưởng
thụ rất hiếm, và số người làm được lại càng hiếm hơn. Nhất là trong tình trạng
hiện nay, người ta dám đạp đổ cả thành trì đạo đức để tranh giành quyền lợi, bất
chấp mọi hậu quả. Có lẽ vì thế mà đời sống ngày càng nhiều khổ đau hơn. Nó đã
trở thành bản trường ca bất tận của con người.
Đúng, khổ đau là một thực tại không thể chối cãi,
nhưng đó chỉ là do trình độ cảm nhận của con người. Khổ đau vốn không phải là
bản chất đã định sẵn của cuộc đời này. Bởi xét cho cùng thì không có gì là đau
khổ cả nếu con
người
hiểu
được
những quy luật
của
tự nhiên
và
biết
chấp
nhận
chúng. Do guồng máy tâm thức trong ta vận hành
sai lệch, nên nó đã tạo ra những phản ứng chống đối lại những hoàn cảnh mà nó
cho là trái nghịch. Rất may, guồng máy tâm thức ấy là một hợp thể linh động, nên
có thể điều chỉnh được. Chỉ cần ta có nhận thức đúng đắn thì mọi cảm xúc trong
ta đều không ngừng tương tác với vạn vật, để tâm lý không tiếp tục tạo ra những
phản ứng ích kỷ. Đồng thời, ta cần có một khả năng quan sát thật tinh tường về
những thói quen mà ta đã tạo dựng từ trong quá khứ đến nay. Tiến trình tháo gỡ
những tâm lý tiêu cực ấy chính là tiến trình vượt thoát khổ đau. Nói chung càng
bớt tự ái là càng bớt khổ đau. Hết vì cái tôi là hết khổ
đau.
Đúng ra, ta cần phải biết ơn khổ đau. Khổ đau vừa
giúp ta ý thức được cái gì là hạnh phúc, vừa giúp khả năng chịu đựng trong ta
lớn mạnh, để ta có thể phát tiết hết bản năng sinh tồn tiềm ẩn của mình. Cũng
như nếu không bị lạc đường, ta sẽ khó biết mình vốn rất sợ hãi; nếu không bị xúc
phạm, ta sẽ khó biết rõ mức độ nóng giận của mình; nếu không bị dối gạt, ta sẽ
khó biết mình cũng rất dễ tổn thương; nếu không bị bỏ rơi, ta sẽ khó thấy được
tính yếu đuối và dựa dẫm của mình. Chính nhờ bản năng sinh tồn biểu hiện mà ta
thấy rõ từng ngõ ngách sâu kín của phiền não tại nên khổ đau. Từ đó, ta biết
cách điều chỉnh lại tâm thức và nếp sống của mình, sao cho hài hòa với sự vận
hành của vũ trụ. Nhờ đó, sự hiểu biết và tình thương trong ta bừng nở. Ta có thể
đi giữ thăng trầm của cuộc đời này một cách thong dong tự tại mà không còn lo sợ
những nghịch cảnh bất ngờ.
Có thể nói tâm ta như thế nào thì ta sẽ cảm nhận
khổ đau như thế ấy. Vì khổ đau vốn từ tâm sinh ra, mà cũng từ tâm diệt
đi.