~ Tài liệu
dành cho các Phật Tử.
1 ~ TAM
BẢO
… Có một
hôm, sau lễ quy y của gần ba trăm người trẻ tuổi, đại đức Kondanna giảng cho
những người này về ba viên ngọc quý (Tam Bảo). Ba viên ngọc quý này là Bụt,
Pháp và Tăng. Khất sĩ Kondanna là vị đệ tử đầu tiên đã thực chứng đạo Tỉnh
Thức. Đại đức dạy:
1.1 ~ Bụt
(Buddha) là người tỉnh thức, và là người tỉnh thức cao độ.
Người tỉnh
thức biết được và thấy được chân tướng vũ trụ và cuộc đời. Vì vậy người tỉnh
thức không còn bị ràng buộc vào ảo vọng, sợ hãi, giận hờn và tham đắm. Người
tỉnh thức là người tự do, có đầy đủ an lạc, có đầy đủ tình thương và sự hiểu
biết. Bậc đại sa môn Gotama, thầy của chúng ta, là một bậc tỉnh thức hoàn toàn.
Người là kẻ chỉ đường cho tất cả chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi thế giới ảo
vọng để trở nên những người tỉnh thức.
Mỗi người
trong chúng ta đều có tính Bụt (Buddhata) trong lòng, và vì vậy ai cũng có thể
trở thành người tỉnh thức như Bụt. Tính Bụt này là khả năng tỉnh thức, khả năng
vượt thoát ảo vọng. Nếu chúng ta tu tập theo đạo lý tỉnh thức thì chúng ta làm
cho tính Bụt trong ta mỗi ngày mỗi sáng và một ngày kia chúng ta sẽ cũng sẽ đạt
được tự do và an lạc hoàn toàn như Bụt. Bụt ở ngay trong tâm của mỗi chúng ta.
Chúng ta phải trở về tìm Bụt ngay trong tâm ta. Bụt là viên ngọc quý thứ nhất.
1.2 ~ Pháp
(Dharma) là con đường đưa tới sự tỉnh thức.
Con đường
này đã được Bụt tìm ra và đã và đang chỉ dạy cho chúng ta. Con đường này đưa ta
thoát khỏi ngục tù ảo vọng, giận hờn, sợ hãi và tham đắm, và dẫn ta tới chân
trời tự do an lạc, vô úy, làm cho sự hiểu biết và tình thương phát hiện nơi ta.
Hiểu và thương là những hoa trái đẹp đẽ nhất của đạo lý tỉnh thức. Pháp là viên
ngọc quý thứ hai của chúng ta.
1.3 ~ Tăng
(Sangha) là đoàn thể những người đang cùng nhau thực tập đạo tỉnh thức và cùng
đi trên con đường giác ngộ.
Muốn tu
tập đạo giải thoát ta phải nương tựa vào đoàn thể này. Một mình đơn độc, ta sẽ
gặp nhiều khó khăn trong sự tìm học và thực hành đạo lý tỉnh thức. Vì vậy chúng
ta phải nương vào tăng đoàn. Người xuất gia cũng như người tại gia phải biết
trở về nương tựa nơi Tăng để có thể đi xa trên con đường tu tập. Tăng là viên
ngọc quý thứ ba của chúng ta.
Này các
thiện nam tử và thịện nữ nhân! Tất cả chúng ta phải trở về nương tựa nơi ba
viên ngọc quý của trần gian là Buddha, Dharma và Sangha. Có nương tựa rồi chúng
ta sẽ hết bơ vơ và chúng ta sẽ vững tiến trên con đường giác ngộ và trong cuộc
đời. Đã từ hai năm nay, tôi đã trở về nương tựa nơi ba viên ngọc quý. Hôm nay
quý vị cũng phát nguyện đi cùng một con đường. Chúng ta nên vui mừng và sung
sướng khi đưa ba viên ngọc quý vào lòng. Thật ra, ba viên ngọc quý ấy đã có sẵn
trong tự tâm của chúng ta từ vô thỉ. Ta tu tập đạo giải thoát là để làm cho ba
viên ngọc ấy chiếu sáng trong ta.
2 ~ NGŨ
GIỚI
… Vua
Seniya Bimbisara đích thân ra tận ngọ môn để đón chào Bụt và tăng đoàn. Các
nhân sĩ và tân khách của vua, có tới hàng ngàn người, cũng theo vua ra đón Bụt.
Vua đưa Bụt vào hoàng cung. Sân rồng đã được che nắng bởi những chiếp rạp dựng
lên cho cuộc đón tiếp long trọng này. Rạp được kết bằng hoa lá rất mỹ lệ. Chỗ
ngồi của Bụt được đặt ở vị trí trung ương. Chỗ ngồi của một ngàn hai trăm năm mươi
vị khất sĩ cũng đã được chuẩn bị chu đáo. Sau khi Bụt đã ngồi xuống trên ghế
của người, vua Bimbisara thỉnh cầu các vị khất sĩ và toàn thể quan khách an
tọa. Vua ngồi một bên Bụt. Phía bên kia là khất sĩ Kassapa.
Vua
Bimbisara hướng về Bụt, cung kính chắp tay. Hiểu được ý vua, Bụt lên tiếng dạy
về chánh pháp. Người nói về năm giới như là phương thức tạo dựng và bảo vệ hòa
bình và hạnh phúc trong trong quốc gia. Người nói năm giới có thể được nhận
thức như là những nguyên tắc sống chung hòa bình và an lạc, trong gia đình cũng
như ngoài xã hội:
2.1 ~
"Giới thứ nhất là không sát hại.
Giữ gìn
giới này là để nuôi dưỡng lòng từ bi. Tất cả các loài sinh vật, từ người cho
đến chim muông và cầm thú, loài nào cũng sợ chết. Nếu ta biết tôn quý sự sống
của ta thì ta cũng phải biết tôn quý sự sống của loài sinh vật khác. Không
những ta không được tiêu diệt sự sống của con người, mà ta còn nên tránh việc
tiêu diệt sự sống của các chủng loại khác. Ta phải sống hòa bình với con người
và sống hòa bình với các loài sinh vật khác. Nuôi dưỡng được lòng thương, ta
làm cho cuộc đời bớt khổ và đẹp đẽ thêm lên. Nếu mọi người trong nước đều biết
giữ giới không sát hại thì đất nước sẽ không bị loạn lạc, và dân chúng được
sống hòa bình. Khi mọi người thương nhau và đoàn kết với nhau thì dân giàu và
nước mạnh, không nước nào sẽ có đủ sức để xâm lăng nước mình, và tuy có quân
đội hùng mạnh, quốc gia sẽ không cần sử dụng đến. Quân đội sẽ có thì giờ để làm
những công việc xây dựng đường xá, cầu cống, chợ búa và đê điều.
2.2 ~ Giới
thứ hai là không xâm phạm đến tài sản của kẻ khác.
Nếu tài
sản của mình là do mình tạo ra bằng sức làm việc hàng ngày của mình thì không
ai có quyền xâm phạm đến. Tất cả những lời nói và hành động nào nhằm tước đoạt
tài sản ấy đều được xem là phạm giới. Không được ăn trộm, ăn cướp, lường gạt,
hoặc dùng quyền lực mình để cưỡng chiếm tài sản của kẻ khác. Lợi dụng sự khờ
dại, sức lao động của kẻ khác và hoàn cảnh khó khăn của họ để làm giàu cũng
phạm vào giới này. Nếu dân trong một nước mà biết hành trì giới này thì trong
nước sẽ có công bằng xã hội và những tội ác như cướp của và giết người sẽ giảm
bớt rất mau chóng".
2.3 ~ Giới
thứ ba là không xâm phạm tiết hạnh của kẻ khác.
Ngoài vợ
mình hay chồng mình, người giữ giới không được chung chạ với kẻ khác. Giữ được
giới này thì tạo được đức tin và hạnh phúc trong gia đình mình, đồng thời cũng
tránh được sự gây ra đổ vỡ khổ đau trong các gia đình khác. Muốn có hạnh phúc,
muốn có thì giờ và tâm não để lo việc ích quốc lợi dân thì nên tránh việc có
nhiều tỳ thiếp.
2.4 ~ Giới
thứ tư là không nói dối và không nói những lời gây chia rẽ căm thù.
Lời nói
phải phù hợp với sự thật: có thì nói có, không thì nói không. Lời nói có thể
tạo nên niềm tin và hạnh phúc. Lời nói cũng có thể tạo nên đổ vỡ và sự thù oán,
có khi còn đưa tới sự chém giết lẫn nhau. Có khi lời nói cũng có thể tạo ra
chiến tranh. Ta phải rất cẩn thận cho lắm mới được.
2.5 ~ Giới
thứ năm là không uống rượu và không sử dụng các chất ma túy.
Rượu và
các chất ma túy làm cho ta mất sáng suốt. Khi say ta có thể tạo ra nhiều đổ vỡ
cho bản thân, cho gia đình và cho tổ quốc. Giữ giới này, ta giữ cho thân thể ta
được khỏe mạnh và tâm hồn được sáng suốt, vì vậy bậc thức giả luôn luôn phải
giữ giới này. Nếu đại vương và các vị chức sắc của triều đình mà thấu triệt và
vâng giữ được năm giới này thì đó là một điều đại phước cho quốc gia và cho tất
cả bàn dân thiên hạ trong vương quốc.
Đại vương,
bậc quốc vương đứng đầu một nước cần sống trong tỉnh thức và biết được những gì
đang xảy ra trong vương quốc mình. Nếu đại vương làm cho trong triều ngoài quận
ai cũng hiểu thấu và thực hành được năm giới, tức là năm nguyên tắc sống hòa
bình và an lạc, thì vương quốc Magadha sẽ trở nên vương quốc thịnh vượng nhất
trong hoàn vũ”.
***
Vua
Bimbisara sung sướng tiến tới trước Bụt và làm lễ người. Hoàng hậu Vedehi cũng
đứng dậy từ chỗ ngồi của bà. Cầm tay thái tử Ajatasattu, bà đi tới trước Bụt.
Bà dạy thái tử chắp tay thành búp sen để vái chào người.
Thái tử
Ajatasattu cũng được bà bảo sụp xuống lạy Bụt. Bụt mỉm cười đưa tay cầm lấy tay
thái tử. Hoàng hậu quay lại làm dấu hiệu. Tất cả các thiếu nhi có mặt đều được
đưa ra trình diện. Đây toàn là trẻ em nhà quyền quý và khá giả, nên em nào cũng
được phục sức rất tươm tất. Trai cũng như gái đều có đeo vòng ở cổ tay và cổ
chân. Các em gái mặc những chiếc sari lộng lẫy đủ màu trông rất tươi mát. Thái
tử Ajatasattu cũng ngồi xuống ngay dưới chân Bụt.
Bụt nhớ
lại những em bé nghèo mà người đã gặp dưới cây hồng táo ở ngoại thành
Kapilavatthu. Người tự hứa là mai này về lại quê hương sẽ đi tìm gặp lại những
em bé như thế để làm tròn ước nguyện.
Người nói:
- Này các
con, trước khi ta được làm người, ta đã từng làm đất đá, cây cối, chim chóc và
muông thú. Các con cũng vậy, trong những kiếp xưa các con đã từng làm đất đá,
cây cối và chim muông. Ngày hôm nay ta được gặp các con, cũng có thể là vì
trong những kiếp xa xưa ta và các con đã từng gặp nhau. Chúng ta đã có thể làm
cho nhau sung sướng. Chúng ta cũng đã có thể làm cho nhau khổ đau.
Hôm nay ta
muốn kể cho các con nghe một chuyện đã từng xảy ra hàng ngàn kiếp trước. Đây là
chuyện một còn cò, một con cua, một cây bông sứ và rất nhiều tôm cá. Hồi ấy, ta
là cây bông sứ, và trong số các con có thể có đứa đã làm con cò, có đứa có thể
đã làm con cua và nhiều đứa có thể đã làm tôm cá.
Trong câu
chuyện ấy, con cò là một đứa nham hiểm và có tính hay lường gạt. Nó đã làm cho
biết bao nhiêu con khác chết chóc và khổ đau. Hồi ấy, như các con đã biết, ta
làm cây bông sứ. Con cò cũng đã làm cho khổ đau, nhưng ta đã học được một bài
học. Đó là: "Khi mình lường gạt và làm khổ đau kẻ khác thì mình cũng sẽ bị
lường gạt và sẽ bị khổ đau trở lại”.
Trong kiếp
xa xưa đó, ta làm cây bông sứ đứng gần một cái hồ sen rất thơm và rất mát. Hồ
sen này lại không có cá.
Cách hồ
không xa, lại có một cái ao nhỏ hẹp, ít nước và nóng bức, nhưng lại có nhiều
tôm cá. Một con cò đi ngang qua đây thấy tôm cá quá nhiều mới nảy sinh ra một
mưu kế. Nó tới đứng gần bên bờ hồ và tự tạo cho mình một vẻ mặt đăm chiêu.
Bọn cá
hỏi:
- Bác Cò,
bác suy nghĩ gì đấy?
- Ta đang
suy nghĩ đến số phận của các chú. Ở đây, ao hẹp, nước ít lại nóng bức. Các chú
lại thiếu thức ăn. Đời sống của các chú có vẻ khổ cực, ta thương lắm.
- Vậy bác
có cách gì giúp tụi cháu không, bác Cò?
- Nếu tụi
bay để ta chở từng đứa tới bỏ xuống cái hồ sen đàng kia, thì ở đó tụi bay sẽ
được tha hồ bơi lội trong nước mát và sẽ có vô số thức ăn.
- Bác Cò
ơi, tự thuở cha mẹ sinh ra, chúng cháu chưa bao giờ nghe nói là loài cò mà lại
có lòng tốt với loài tôm cá. Bác bày ra cách đó chẳng qua chỉ là để ăn thịt
chúng cháu, đứa này rồi tới đứa khác, vậy thôi. Có phải không?
- Tụi bay
đa nghi lắm. Tao là bác của tụi bay, không lý tao lại gạt tụi bay hay sao. Sự
thật là đàng kia có một cái hồ sen rộng lắm, nước nhiều mà lại mát nữa. Nếu tụi
bay không tin thì một đứa hãy theo tao qua đó xem. Xem xong tao lại trả nó về
đây để nó báo cáo lại sự thật cho tụi bay biết.
Bọn tôm cá
châu đầu vào nhau để bàn luận một hồi lâu. Cuối cùng chúng cử một bác cá nhám
đi với con cò. Con cá nhám này đã già, thân thể gần như một cục đá. Nói bơi lội
giỏi đã đành, mà nó cũng có thể di chuyển dễ dàng trên đất cạn. Con cò cáp lấy
con cá nhám vào mỏ và bay về phía hồ sen. Nó thả con cá vào hồ sen để các bơi
lội thỏa thích và đi thăm mọi nơi trong hồ. Quả thật là hồ rộng, nước rất mát
và thực phẩm rất nhiều. Một lát con cò chở con cá nhám về ao, và nó kể lại tất
cả những gì nó đã thấy cho bọn chúng trong ao nghe.
Bọn tôm cá
nghe kể rất lấy làm vui sướng. Chúng yêu cầu con cò chở chúng sang hồ, mỗi
chuyến một đứa. Cò bằng lòng. Nó cắp con cá đầu tiên vào mỏ và bay đi, nhưng
thay vì thả cá xuống hồ sen, nó bay về phía cây bông sứ, nó buông cá vào một
chỉa ba của thân cây. Nó dùng mỏ rỉa cá ra và ăn thịt con cá. Ăn xong, nó hất
xương cá xuống gốc cây bông sứ. Rồi nó bay về phía ao để "chở" một
con cá khác, và luôn luôn bỏ xương cá xuống gốc cây.
Ta là cây
bông sứ. Ta chứng kiến tất cả những điều này. Ta rất tức giận con cò nhưng
không thể nào ngăn cản được con cò. Các con biết, cây bông sứ chỉ có thể đâm rễ
sâu thêm vào đất, mọc cành mọc lá và làm hoa, nhưng không thể chạy đi đâu được.
Ta không thể chạy tới ao để vạch rõ cho bọn tôm cá biết âm mưu của con cò. Ta
cũng không thể vươn cành ra để ngăn con cò không cho cò ăn thịt cá. Ta đứng yên
chịu trận. Mỗi lần cò mang tới một con cá và mổ cho cá toét ra để ăn thịt là
mỗi lần cây bông sứ đau đớn rúng động cả châu thân, nhựa cây như chảy dồn dập
hơn, da cây như co rúm lại. Có khi cây bông sứ rung rung và những giọt sương
rơi xuống như là cây cũng biết khóc. Con cò không để ý tới những dấu hiệu đó.
Ngày này sang ngày khác, nó mang cá tới cây bông sứ để ăn thịt. Ăn hết cá nó ăn
đến tôm. Đống xương cá dưới gốc cây đã cao bằng hai cái thùng lớn.
Làm một
cây bông sứ, ta biết mình có bổn phận nở hoa để làm thơm làm đẹp cho núi rừng,
nhưng ta rất đau khổ vì không làm được gì để cứu bọn tôm cá. Nếu ta là một con
nai hoặc một con người thì ta đã có thể làm được một cái gì. Đàng này ta bị
chôn chân xuống đất không đi đâu được. Với niềm thương trong lòng, ta thầm
nguyện sau này nếu được làm thú hay làm người, ta sẽ gắng hết sức để bênh vực
kẻ yếu và ngăn chận không cho kẻ hung bạo và giảo quyệt đi lừa gạt và tàn sát
kẻ khác.
Ngày hôm
ấy, dưới ao cá và tôm đã hết. Chỉ còn có một con cua. Lúc đầu cò ta chê, nhưng
sau đó đói bụng quá, nó lại gần bờ nước và nói:
- Này
cháu, tất cả những tôm cá mà ta đã chở tới hồ sen, hiện đang sung sướng vẫy
vùng bên đó. Cháu lại đây, bác chở qua đó luôn.
- Bác thì
làm sao chở được cháu? Cháu là một con cua mà.
- Thì bác
cắp cháu trong mỏ bác, như đã chở những đứa khác.
- Bác mà
cắp cháu trong mỏ bác thì không chắc lắm. Bác có thể để cho cháu rơi xuống và
cháu sẽ vỡ toang.
- Đừng có
sợ, cháu. Báu sẽ ngậm cháu thật chặt.
Con cua
suy nghĩ: có thể là cò đã thả tất cả tôm cá xuống hồ sen. Cũng có thể là cò đã
ăn thịt hết tất cả họ hàng nhà tôm và họ hàng nhà cá. Ta hãy cẩn thận. Ta phải
đề phòng. Nếu cò thả ta xuống hồ thì đó là chuyện tốt. Nếu cò muốn ăn thịt ta
thì ta cũng có sẽ cách tự vệ.
Nghĩ như
thế, Cua nói với Cò:
- Bác ơi,
mỏ bác không đủ mạnh để giữ cho cháu khỏi rơi dâu. Bác phải để cháu bám vào cổ
bác bằng hai cái càng của cháu mới được.
Cò bằng
lòng ngay, nó để cho Cua bám vào cổ nó. Cò vỗ cánh bay đi, nhưng thay vì bay
thẳng xuống hồ, cò lại bay qua cây bông sứ.
- Bác ơi,
tại sao bác không đưa cháu xuống hồ mà lại đem cháu đi đâu thế?
- Cháu ơi,
ai dại dột mà đi chở mướn cho bọn bay. Tao đâu có phải là đầy tớ của bọn mày.
Ta chỉ muốn chở bọn mày tới đây để ăn thịt từng đứa mà thôi. Coi kìa, mày có
thấy đống xương cá cao nghệu dưới gốc cây bông sứ không? Đó, mày cũng sẽ chấm
dứt cuộc đời của mày nơi đó.
- Bác Cò
ác độc ơi, tụi tôm cá ấy dại dột quá nên mới bị bác lừa dối và ăn thịt, nhưng
cháu thì bác đừng có hòng mà ăn thịt được cháu. Bác hãy mang cháu về dưới hồ
đi, nếu không cháu sẽ kẹp đứt cổ bác cho mà xem.
Nói xong,
Cua bắt đầu xiết những gọng kềm của Cua trên cổ Cò. Những cái càng cua siết
cứng như những chiếc gọng kềm bằng sắt khiến cho Cò ta đau quá. Cò kêu lên:
- Thôi anh
Hai ơi, anh Hai đừng kẹp tôi đau quá. Để tôi đưa những Hai xuống hồ. Tôi không dám
ăn thịt anh Hai đâu.
Cò nghiêng
cánh liệng bay trở lại hồ sen và đạt Cua xuống bờ nước, nơi có chút ít bùn lầy.
Cua vẫn chưa buông cổ Cò. Nghĩ tới bao nhiêu tôm các trong hồ bị Cò tàn sát
hết. Cua nghiến răng kẹp hai cái càng thật mạnh, khiến cho cổ Cò đứt rời ra, và
Cò lăn xuống chết. Rồi Cua đi xuống nước.
Các con
ơi, lúc ấy ta là cây bông sứ, ta chứng kiến từng chi tiết nhỏ của tấn kịch này.
Ở đời, ăn hiền ở lành thì sẽ được người hiền lành giúp đỡ. Ăn ở độc ác sớm muộn
gì cũng lâm vào cảnh thảm thương. Ta đã học được bài học đó. Ta nguyện đời đời
sẽ làm việc lợi ích cho muôn loài. Ta đã làm người trong nhiều vạn kiếp. Giờ
đây, gặp các con, ta muốn truyền lại bài học ta đã học ngày xưa cho các con
nghe.
Tất cả các
thiếu nhi có mặt đều chăm chú nghe Bụt thuật chuyện tiền thân. Đứa nào cũng
thương cho cây bông sứ và cho tất cả những loài tôm cá bị lừa gạt. Đứa nào cũng
căm giận con cò và khen con cua là biết lo xa. Bụt lặng yên và bọn thiếu nhi
quay lại thầm thì với nhau về câu chuyện người vừa kể.
***
3. GIÁO
PHÁP LÀ CHIẾC BÈ GIÚP TA QUA SÔNG
Một buổi
chiều nọ, hai vị đại đức Sariputta và Moggallana đến thăm Bụt nơi tịnh xá của
người và giới thiệu với Bụt một người quen thân của họ, du sĩ Dighanakha. Du sĩ
Diganakha không phải là đệ tử của đạo sĩ Sanjaya nhưng cũng rất nổi tiếng,
Dighanakha là cậu ruột của đại đức Sariputta. Nghe nói hai người thân nhất của
mình đã xuất gia theo Bụt, ông tìm tới để hỏi thăm Bụt về giáo pháp của người.
Thay vì mô tả và tường thuật, hai vị đưa ông đến trực tiếp gặp Bụt.
Diganakha
nói với Bụt:
- Sa môn
Gotama, ngài dạy giáo pháp gì? Chủ thuyết của ngài là chủ thuyết nào? Riêng
tôi, tôi không thích một chủ trương hay một lý thuyết nào hết. Tôi không tin
vào một chủ trương hay một lý thuyết nào hết.
Bụt mỉm
cười hỏi:
- Vậy ngài
có thích cái chủ trương "không thích" của ngài không? Ngài có tin cái
chủ trương "không tin" của ngài không?
Vị du sĩ
ngỡ ngàng. Ông ta nói liều:
- Sa môn
Gotama, tôi thích hay không thích, tôi tin hay không tin, thì cũng như vậy
thôi, điều đó không quan hệ gì mấy.
Bụt từ
tốn:
- Một khi
đã bị kẹt vào một chủ thuyết rồi thì người ta mất hết tự do, người ta trở nên
độc đoán, cho rằng chỉ có chủ thuyết của mình mới là chân lý còn tất cả những
chủ thuyết khác đều là tà đạo. Những tranh chấp và cãi cọ được phát sinh từ
thái độ cố chấp này. Những tranh chấp và cãi cọ ấy có thể kéo dài bất tuyệt,
làm mất rất nhiều thì giờ quý báu và có thể tạo ra xung đột và chiến tranh. Vì
vậy cho nên kiến thủ là trở ngại lớn lao nhất trên con đường tu học.
- Kiến thủ
là gì?
- Kiến là
nhận thức, là quan điểm. Thủ là sự cố chấp. Kiến thủ là cố chấp vào một nhận
thức hay một quan điểm. Cố chấp như vậy là bị kẹt, vì bị kẹt cho nên cánh cửa
chân lý không còn cơ hội mở ra cho mình nữa.
Này ông
bạn, để tôi kể cho ông bạn nghe câu chuyện này. Có một người lái buôn góa vợ
kia đang sống với một đứa con trai năm tuổi. Anh ta cưng chiều con, xem đứa nhỏ
là lẽ sống của đời mình. Một bữa nọ trong khi anh ta bỏ hàng đi vắng, kẻ cướp
đến đốt xóm đốt làng, cướp bóc và bắt đứa con của anh đi theo. Khi về tới nơi,
người cha trẻ thấy thi hài một em bé cháy đen nằm bên căn nhà đã cháy rụi của
mình, anh ta tin ngay rằng con mình đã chết. Anh ta khóc lóc, làm lễ hỏa thiêu
thân xác đứa bé, vì thương con quá, anh ta cất tro của đứa bé vào một cái túi
gấm và đi đâu cũng mang theo bên mình. Mấy tháng sau, đứa con của anh ta thoát
được tay ke cướp và tìm về được vào lúc nửa đêm. Nó gõ cửa đòi vào. Lúc ấy
người cha trẻ đang ôm chiếc túi gấm đựng tro và than khóc một mình. Anh ta
không chịu đứng dậy mở cửa. Anh ta tin rằng con anh đã chết thật rồi, và đứa
trẻ đang gõ cửa ngoài kia là một đứa trẻ hàng xóm mất dạy nào đó đang cố tình
trêu ghẹo anh. Vì vậy mà đứa con thật của anh ta phải thất thểu ra đi, và người
cha khốn khổ kia vĩnh viễn mất đứa con duy nhất.
Này ông
bạn, nếu ta cố chấp vào một chủ nghĩa và cho đó là chân lý tuyệt đối, ta sẽ lâm
vào tình trạng của người cha trẻ kia. Ta sẽ không mở lòng ta ra được để đón
nhận chân lý. Ta sẽ có cảm tưởng rằng ta không cần đi tìm sự thật nữa, vì ta đã
có sự thật rồi. Lúc ấy nếu sự thật có tới gõ cửa tìm ta, ta cũng sẽ từ chối
không mở cửa.
Diganakha
hỏi:
- Vậy giáo
pháp của ngài dạy có phải là một chủ nghĩa không? Cố chấp vào nó có phải là
kiến thủ không?
- Giáo
pháp của tôi chỉ dạy không phải là một chủ nghĩa hay một lý thuyết. Nó không
hình thành do công phu suy tư và ức đạt của trí năng, như những chủ thuyết chủ
trương về bản chất của vũ trụ, cho rằng bản chất ấy là lửa, nước, là đất, là
gió hay là thần linh hoặc cho rằng vũ trụ hữu hạn hay vô hạn, hữu biên hay vô
cùng v.v...
Trí năng
ức đạt và suy tư về sự thật cũng như con kiến bò quanh miệng bình bát không đưa
ta đi đến đâu cả.
Không,
giáo pháp của tôi dạy không phải là một chủ thuyết xây dựng trên trí năng. Đó
là kinh nghiệm thực chứng, những gì tôi nói ra tôi đều đã thực chứng, và ông
bạn cũng có thể kiểm điểm lại bằng kinh nghiệm thực chứng của ông bạn. Tôi nói
vạn vật là vô thường và không có tư ngã. Điều này tôi đã chứng nghiệm và các
bạn cũng có thể chứng nghiệm. Tôi nói vạn vật nương vào nhau mà sinh khởi, tồn
tại, và hoại diệt, chứ không phải xuất phát từ một nguyên nhân đầu tiên nào
hết. Điều này tôi cũng đã chứng nghiệm và các bạn cũng có thể chứng nghiệm. Tôi
nói quán chiếu về vô thường, vô ngã và duyên sinh thì có thể đạt tới giải thoát
và an lạc. Điều này tôi cũng đã chứng nghiệm và các bạn cũng có thể chứng
nghiệm. Những điều tôi nói không có mục đích thuyết minh về vũ trụ mà chỉ có
mục đích hướng dẫn sự thực tập và chứng nghiệm thực tại. Lời nói không diễn tã
được thực tại, chỉ có kinh nghiệm trực tiếp mới làm cho ta tiếp xúc được với
thực tại.
Diganakha
thốt lên:
- Hay quá,
hay quá, sa môn Gotama! Nhưng trong trường hợp mà có người nhận thức giáo pháp
của ngài như một chủ thuyết thì sao?
Bụt im
lặng gật đầu:
- Du sĩ
Diganakha, câu hỏi của ông bạn hay lắm. Giáo pháp của tôi không phải là một chủ
thuyết do trí năng tạo dựng, nhưng sau này và ngay cả bây giờ nữa, đã có thể có
những người nhận giáo pháp ấy như một chủ thuyết. Tôi cần nói rõ: giáo pháp của
tôi là một phương tiện để đi vào thực tại chứ không phải là để miêu tả thực
tại, cũng như ngón tay chỉ lên mặt trăng không phải là mặt trăng. Người khôn
khéo phải nương vào ngón tay để thấy được mặt trăng. Nếu cố chấp vào ngón tay,
nếu cho ngón tay là mặt trăng thì sẽ không có cơ hội nào thấy được mặt trăng
cả. Giáo pháp của tôi là để thực tập chứ không phải là để cất giữ mà thờ phụng
và ca ngợi. Chiếc bè là để giúp ta qua sông chứ không phải để ta vác lên trên
vai mà tự hào. Này các bạn, giáo pháp tôi dạy cũng như một chiếc bè. Phải sử
dụng nó để đi sang bên bờ bên kia, bờ giải thoát.
- Xin Bụt
chỉ bày cho tôi con đường có thể vượt thoát được những cảm thọ sầu khổ.
- Cảm thọ
có ba loại: cảm thọ dễ chịu, cảm thọ khó chịu và cảm thọ không dễ chịu cũng như
không khó chịu. Cả ba loại cảm thọ đều có gốc rễ hoặc trong thân thể hoặc trong
tâm ý và nhận thức. Cảm thọ có sinh có diệt như bất cứ hiện tượng tâm vật lý
nào. Phương pháp tôi chỉ bày là phương pháp quán chiếu. Quán chiếu để có thể
thấy được bản chất và nguồn gốc của các cảm thọ, dù là lạc thọ, khổ thọ hay xả
thọ. Thấy được nguồn gốc của các cảm thọ rồi, ta sẽ thấy được bản chất của cảm
thọ. Ta sẽ thấy cảm thọ cũng có tánh vô thường và vô ngã như tất cả các pháp
khác. Sự sinh diệt của chúng dần dần sẽ không động được tới ta. Hầu hết các cảm
thọ khổ đau của ta đều bắt nguồn từ nhận thức sai lầm của ta về thực tại. Nhổ
bật gốc rễ của những sai lầm ấy lên thì khổ thọ không còn. Các vị nên biết:
nhận thức của con người đầy dẫy sai lầm. Vạn pháp vô thường mà cho là thường,
vạn pháp vô ngã mà cho là ngã. Đó là vô minh. Vô minh là nguồn gốc của khổ đau.
Tu tập đạo giải thoát tức là diệt trừ vô minh của nhận thức. Điều này quý vị
chỉ có thể thực tập bằng phép quán chiếu chứ không thể thực tập bằng cách cầu
nguyện và tế tự.
(Trích từ
cuốn sách "Đường Xưa Mây Trắng” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)