~ Tài liệu
dành cho các Phật Tử.
~ Chú
thích hình minh họa: Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) năm 80 tuổi phủ phục dưới chân
Phật (khi ấy mới 39 tuổi) vì cảm ân đức cao trọng của Người sau khi được nghe
Người giảng giải về tình thương và sự hiểu biết.
1 ~ THƯƠNG
~ MẦM MỐNG CỦA ĐAU KHỔ
Vua
Pasenadi không tin là một người trẻ tuổi như Bụt mà đã chứng đạt được quả vị
giác ngộ và giải thoát như lời đồn đại. Theo lời thái tử thì Bụt chỉ mới có ba
mươi chín tuổi. Ba mươi chín tuổi cũng chính là tuổi của vua. Vua nghĩ đức độ
của Bụt làm sao cao bằng đức độ của những bậc lãnh tụ tôn giáo lớn tuổi như
Purana Kassapa, Makkhali Gosala, Nigantha Nathaputta và Sanjana Belatthiputta?
Lòng vua nửa tin nửa ngờ. Vua nghĩ thầm là khi nào có cơ hội vua sẽ tìm tới
thăm Bụt để tìm hiểu trực tiếp con người mà cả hoàng hậu Mallika cả thái tử
Jeta đều tỏ lòng cảm mến và kính phục.
Mùa Mưa
sắp tới, Bụt quyết định sẽ cùng đại chúng an cư tại tu viện Jetavana. Một buổi
chiều nọ, Bụt tiếp một người đàn ông còn trẻ nhưng mặt mũi bơ phờ. Được Bụt hỏi
thăm, người này nói là đứa con trai độc nhất của ông ta mới chết. Suốt mấy ngày
nay, ông ta cứ ra ngoài bãi tha ma, vừa khóc vừa kêu lên: "Con ơi, bây giờ
con ở đâu?", ông ta không thiết gì đến ăn uống và nghỉ ngơi.
Bụt nói:
- Đời là
như thế đó, này ông bạn. Hễ có thương là có khổ.
Người đàn
ông không chấp nhận lời của Bụt. Ông ta phản đối.
- Thầy nói
sai rồi, thương không làm cho người ta khổ, thương chỉ đem lại cho người ta
hạnh phúc và niềm vui mà thôi!
Nói xong,
người ấy bất mãn đứng dậy và bỏ đi, không cho Bụt có cơ hội giải thích thêm về
lời người vừa nói. Ông ta đi lang thang một hồi thì gặp một toán người đang xúm
lại đánh bạc. Ông ta ngồi xuống tham dự và nhân tiện kể lại cho bọn người này
nghe về cuộc gặp gỡ vừa rồi với Bụt. Những người đàn ông đang cờ bạc với nhau
đều đồng ý với ông ta, cho rằng lời Bụt nói là sai: "Thương làm sao mà lại
đem tới sầu khổ và thất vọng cho được? Thương chỉ đem tới hạnh phúc và niềm vui
mà thôi! Anh nói đúng đấy, ông sa môn Gotama nói sai rồi".
Câu chuyện
này được truyền ra và chẳng mấy chốc đã trở nên đề tài bàn tán sôi nổi của
những giáo phái ở thủ đô Savatthi. Nhiều vị lãnh tụ giáo phái cũng cho rằng Bụt
có một quan niệm sai lầm về thương yêu, và rốt cuộc câu chuyện được truyền đến
tai quốc vương Pasenadi.
Chiều hôm
ấy, trong bữa cơm gia đình, vua nói với hoàng hậu:
- Cái vị
sa môn mà người ta thường gọi là Bụt ấy có thể không phải là người giỏi.
Hoàng hậu
hỏi:
- Tại sao
hoàng thượng nói như vậy? Ai đã chê sa môn Gotama?
- Sáng nay
ta có nghe các quan trong triều bàn tán về sa môn Gotama. Họ nói rằng theo sa
môn Gotama, càng thương nhiều thì càng lo lắng, sầu khổ và thất vọng nhiều mà
thôi.
Hoàng hậu
Mallika tâu vua:
- Nếu sa
môn Gotama đã nói như thế thì chắc đó là sự thật.
Vua
Pasenadi không bằng lòng. Vua nói:
- Hoàng
hậu đừng nên nói thế. Mình phải biết suy xét chứ. Đừng làm như một em bé hễ
thầy giáo nói điều gì thì cứ cho ngay điều ấy là đúng.
Hoàng hậu
im lặng không nói gì. Bà biết là vua chưa có cảm tình với Bụt. Sáng hôm sau bà
nhờ một người Bà-la-môn tâm phúc là Nalijangha tới viếng Bụt và hỏi xem có thật
là người đã nói rằng "thương là nguồn gốc của lo lắng, sầu khổ và thất
vọng" không? Bà dặn là nếu Bụt có nói như thế thì hãy xin Bụt giải nghĩa
thêm cho rõ ràng và phải ghi nhớ hết những điều người dạy để về thuật lại cho
bà.
Nalijangha
tới thăm Bụt và được Bụt kể cho mấy câu chuyện chứng tỏ rằng thương là khổ. Bụt
nói:
- Tại Savatthi
này tôi nghe nói một người thiếu nữ vừa mất mẹ. Cô ta đau khổ quá đến phát
điên, cả ngày cứ đi ngoài đường gặp ai cũng hỏi: Ông có gặp mẹ tôi đâu không?
Bà có thấy mẹ tôi đâu không? Cũng tại Savatthi, tôi lại mới nghe nói có hai
thanh niên nam nữ yêu nhau, nhưng gia đình cô lại ép gả người con gái cho một
chàng trai mà cô ta không yêu. Do đó mà hai người yêu nhau phải rủ nhau tự tử,
nghĩ rằng chỉ có cái chết mới kết hợp họ với nhau được. Nội hai câu chuyện này
cũng có thể chứng tỏ rằng thương là khổ.
Nalijangha
về thuật lại những câu chuyện ấy cho hoàng hậu Mallika nghe.
Một hôm
nhân lúc vua Pasenadi rảnh rỗi, hoàng hậu hỏi vua:
- Bệ hạ
nghĩ thế nào, công chúa Vajiri có phải là người bệ hạ thương yêu và cưng chiều
nhất hay không?
- Đúng như
vậy, ta thương yêu và cưng chiều con gái ta nhất.
- Vậy nếu
có gì không may xảy ra cho công chúa Vajiri thì bệ hạ có lo lắng, sầu khổ và
thất vọng không?
Vua
Pasenadi giật mình. Vua thấy rằng trong cái thương, có những mầm mống của lo
lắng, sầu khổ và thất vọng. Vua tự nhiên mất hết an lạc. Câu nói của Bụt chứa
đựng một sự thật phũ phàng làm cho vua ngẩn ngơ. Vua nói:
- Hôm nào
có dịp trẫm cũng sẽ đến thăm viếng viếng sa môn Gotama.
Nghe vua
nói như thế, hoàng hậu rất vui mừng. Bà tin rằng không được gặp Bụt thì thôi,
chứ nếu được gặp Bụt thế nào vua cũng sẽ có cảm tình với Bụt.
2 ~ KHÔNG
HIỂU BIẾT THÌ KHÔNG THỂ THƯƠNG YÊU
Vua
Pasenadi đến thăm Bụt một mình, không có hoàng hậu và công chúa đi theo. Vua
cũng không đem theo vị văn quan hay võ quan nào. Ngài để xe và thị vệ ngoài
cổng tu viện Jetavan và đi bộ vào một mình. Vua được Bụt tiếp trước chiếc am lá
của người. Sau khi an vị và trao đổi những lời thăm hỏi, vua hỏi Bụt một cách
trực tiếp:
- Sa môn
Gotama, người ta thường ca ngợi ngài là Bụt, là đã đạt tới quả vị giác ngộ cao
nhất. Trẫm băn khoăn tự hỏi: Tuổi của ngài còn nhỏ, năm tu của ngài cũng còn
ít, thế mà tại sao ngài lại đạt tới thành quả đó được? Trẫm đã nghe nói đến
những vị đạo cao đức trọng như Puruna Kassapa, như Makkhali Gosala, như
Nigantha Nathaputta, như Sanjaya Belatthiputta ... những vị này là người người
tu lâu năm, tuổi tác đều lớn, tại sao họ không tự nhận họ là bậc giác ngộ hoàn
toàn? Lại còn những vị như Pakudha Kaccayana và Ajita Kesakambali nữa. Ngài có
nghe nói đến những vị ấy không?
Bụt ôn
tồn:
- Đại
vương, tôi có nghe nói tới các vị ấy và có vị tôi cũng đã từng được gặp. Đại
vương, sự tỉnh thức không tùy thuộc vào tuổi tác, và năm tháng không quyết định
được sự có mặt của giác ngộ. Đại vương, có những cái bé nhỏ mà ta không nên
khinh thường: Một vị vương tử bé, một con rắn con, một đốm lửa nhỏ và một nhà
tu trẻ. Vị vương tử tuy bé nhưng cũng có vương tính của một đức vua như bệ hạ
bậy giờ, một con rắn nhỏ có thể làm ta mất mạng trong chốc lát. Một đốm lửa
hồng có thể làm thiêu rụi một khu rừng hay một thành phố lớn và một nhà tu trẻ
có thể đạt tới quả vị giác ngộ hoàn toàn. Đại vương! Người khôn ngoan không bao
giờ khinh thường một một vương tử bé, một con rắn nhỏ, một đốm lửa hồng và một
nhà tu trẻ.
Vua
Pasenadi nhìn Bụt kinh ngạc. Người ngồi trước mặt vua đã nói với vua những điều
trên một cách điềm đạm. Những điều Bụt nói không hàm chứa một hào ly mặc cảm
nào. Vua bắt đầu có đức tin nơi Bụt. Vua hỏi Bụt về điều mà vua còn thắc mắc và
chưa giải quyết được xong xuôi:
- Sa môn
Gotama, có người nói rằng ngài chủ trương không nên thương yêu, bởi vì càng
thương nhiều thì càng lo lắng nhiều, càng thương nhiều thì càng sầu khổ nhiều,
càng thương nhiều thì càng thất vọng nhiều. Trẫm nghĩ rằng điều đó có thể đúng,
nhưng lòng trẫm vẫn không yên. Trẫm nghĩ nếu không có thương yêu thì cuộc đời
sẽ khô khan và vô vị lắm. Xin ngài giải dùm những nghi nan ấy cho trẫm.
Bụt nhìn
vua:
- Đại
vương, câu hỏi của ngài rất hay, và nhiều người sẽ được khai sáng nhờ câu hỏi
này. Tiếng thương yêu có nhiều nghĩa, ta phải xét cho kỹ về bản chất của từng
loại thương yêu. Cuộc đời cần đến đến sự thương yêu, nhưng không phải là thứ
thương yêu dựa trên căn bản của dục vọng, của đam mê và vướng mắc, của phân
biệt và kỳ thị. Đại vương, có một thứ tình thương mà cuộc đời rất cần đến, đó
là lòng TỪ BI. TỪ là Maitri, còn BI là Karuna.
Đại vương,
tình thương mà người đời thường nói tới là tình thương giữa cha mẹ và con cái,
giữa vợ và chồng, giữa những người cùng trong họ hàng, cùng thân tộc, cùng giai
cấp hoặc cùng quốc gia. Vì tình thương ấy còn dựa vào ý niệm "tôi" và
"của tôi" cho nên bản chất của nó còn là sự vướng mắc và phân biệt.
Người ta
chỉ muốn thương cha của mình, thương mẹ của mình, thương chồng của mình, thương
vợ của mình, thương con của mình, thương cháu của mình, thương họ hàng của
mình, thương đất nước của mình, cho nên người ta còn vướng mắc và phân biệt.
Vướng mắc cho nên lo lắng về những bất trắc có thể xảy đến dù chúng chưa xảy
đến, vướng mắc cho nên phải gánh chịu sầu đau và thất vọng mỗi khi có những bất
trắc xảy đến.
Phân biệt
cho nên có thái độ nghi kỵ, hờ hững và ghét bỏ đối với những người mình không
thương. VƯỚNG MẮC VÀ PHÂN BIỆT ĐỀU LÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ ĐAU, KHỔ ĐAU
CHO MÌNH VÀ CHO NGƯỜI.
Đại vương,
thứ tình thương mà muôn loài đang khao khát là lòng TỪ BI. TỪ là thứ tình
thương có thể đem đến an vui cho kẻ khác, BI là thứ tình thương có thể làm vơi
đi những khổ đau của kẻ khác. TỪ và BI là THỨ TÌNH THƯƠNG KHÔNG CÓ ĐIỀU KIỆN,
KHÔNG BẮT BUỘC VÀ KHÔNG ĐÒI HỎI BẤT CỨ MỘT SỰ ĐỀN ĐÁP NÀO. Trong TỪ BI, người
được thương không phải chỉ là cha ta, mẹ ta, vợ ta, chồng ta, con ta, huyết
thống ta, giai cấp ta ... KẺ ĐƯỢC THƯƠNG LÀ TẤT CẢ MỌI NGƯỜI VÀ MỌI LOÀI.
Trong TỪ
và BI không có sự phân biệt TA và KHÔNG TA, CỦA TA và của KHÔNG CỦA TA. Vì
KHÔNG PHÂN BIỆT nên KHÔNG CÓ VƯỚNG MẮC. TỪ và BI chỉ đem lại niềm vui và làm
giảm đi nỗi khổ; TỪ và BI không gây lo lắng sầu khổ và thất vọng. Thiếu TỪ BI,
cuộc đời sẽ khô khan, khổ đau và buồn chán như đại vương nói. Có TỪ BI, cuộc
đời sẽ có an lạc, hạnh phúc và tươi vui. Đại vương, ngài là bậc nhân chủ cầm
đầu của cả một nước, dân chúng vương quốc ngài sẽ được thấm nhuần ân đức ngài
nếu ngài tu tập được tâm TỪ và tâm BI.
Vua cúi
đầu suy nghĩ một lúc. Sau đó vua ngửng lên hỏi Bụt:
- Trẫm có
một gia đình để coi sóc, có một vương quốc phải chăm lo. Nếu trẫm không thương
yêu gia đình của trẫm và dân chúng trong vương quốc của trẫm thì làm sao trẫm
có thể coi sóc và chăm lo cho họ được? Xin Bụt soi sáng điểm này cho trẫm.
- Cố nhiên
là đại vương phải thương yêu gia đình hoàng gia và phải thương yêu dân chúng
của vương quốc. Nhưng tình thương yêu của đại vương có thể vượt khỏi phạm vi
gia đình và vương quốc. Đại vương thương yêu và chăm sóc cho các hoàng tử và
công chúa. Điều đó không ngăn cản việc đại vương có thể thương yêu và chăm sóc
cho tất cả những người trẻ khác trong vương quốc như là thương yêu và chăm sóc
chính con trai và con gái của đại vương. Nếu đại vương làm được như vậy thì
tình thương hạn hẹp trở thành tình thương rộng lớn, và đột nhiên tất cả những
người trẻ tuổi trong vương quốc đều trở nên con trai và con gái của đại vương.
Đó đích thực là tâm từ bi. Đây không phải là một điều quá lý tưởng. Đây là một
điều con người có thể thực hiện được nhất là khi con người ấy có trong tay
những phương tiện như đại vương. Nếu đại vương phát được nguyện lớn thì đại
vương chắc chắn có thể làm được điều này.
- Nhưng
còn những người trẻ tuổi trong các vương quốc khác?
- Không có
gì ngăn cản đại vương thương yêu những người trẻ tuổi trong các vương quốc khác
như con trai và con gái của ngài, dù những người này không nằm trong vùng cai
trị của đại vương. Không phải vì thương yêu dân chúng của quốc gia mình mà mình
không thể thương yêu dân chúng của các quốc gia khác.
- Thương
yêu như thế nào? Họ có nằm dưới quyền cai trị của mình đâu?
Bụt nhìn
vua:
- Sự giàu
mạnh và an ổn của một quốc gia không phải được tạo nên bởi sự nghèo hèn và loạn
lạc của những quốc gia khác. Đại vương, nền hòa bình và thịnh vượng lâu dài của
một quốc gia chỉ có thể được xây dựng trên sự hòa hiếu giữa các quốc gia và ý
hướng về một nền thịnh vượng chung. Nếu đại vương thực sự muốn cho vương quốc
Kosala có hòa bình và những người trai trẻ trong vương quốc không phải xông pha
nơi lửa đạn thì đại vương cũng phải giữ gìn làm sao cho các vương quốc kế cận
cũng có hòa bình và để những trai trẻ các xứ đó cũng khỏi phải xông pha trong
vòng lửa đạn. Chính sách ngoại giao và kinh tế của đại vương phải thực sự đi
theo con đường của tâm từ bi thì đại vương mới có thể làm được chuyện này. Như
vậy trong khi đại vương thương yêu và chăm sóc cho quốc gia Kosala, đại vương
cũng chăm sóc cho các vương quốc khác như Magadha, Sasi, Videha, Sakya và
Koliya.
Đại vương,
mới năm ngoái đây, sau khi về thăm gia đình và vương quốc Sakya, tôi và nhiều
vị khất sĩ có tới du hóa ở Arannakutila, thuộc lãnh thổ của quý quốc, sát chân
núi Hy Mã Lạp Sơn. Ở đó tôi đã suy nghiệm về một chính sách trị nước căn cứ
trên nguyên tắc bất bạo động. Tôi thấy các vị quốc vương rất có thể cai trị
nghiêm minh, đem lại an hòa và hạnh phúc của muôn dân mà không cần sử dụng đến
những biện pháp bạo động như chinh phạt, xử tử, giam hãm, tù đày v.v... Tôi đã
nói những điều này với phụ vương tôi, vua Suddhodana. Nhân tiện đây tôi cũng
muốn xác định điều đó với đại vương. Làm nhà chính trị giỏi, đại vương có thể
trị nước mà không cần đến những phương thức bạo động, nếu ngài biết hun đúc và
nuôi dưỡng Từ Bi.
Vua thốt
lên:
- Thật là
kỳ diệu! Thật là kỳ diệu! Chưa bao giờ trẫm được nghe những lời giáo huấn mới
lạ và sâu sắc như thế! Ngài thật là một bậc tôn quý trên đời! Những điều Bụt
dạy, trẫm xin lĩnh giáo để về chiêm nghiệm, bởi vì trẫm biết những lời dạy ấy
có những chiều sâu cần phải khám phá. Bây giờ trẫm xin hỏi ngài một câu hỏi
thật đơn giản. Thói thường, thì tình thương của người đời bao giờ cũng ẩn chứa
ý niệm phân biệt, và ít nhiều cũng mang tính chất đam mê và vướng mắc. Theo Bụt
thì thứ tình thương có thể gây nên lo lắng, sầu khổ, và thất vọng. Vậy nếu không
thương như thế thì ta phải thương làm sao? Ví dụ như trẫm đây, trẫm phải thương
con cái của trẫm như thế nào để tránh được những lo lắng, sầu khổ và thất vọng?
- Không ai
cấm cản chúng ta thương yêu, nhưng ta PHẢI BIẾT QUÁN SÁT ĐỂ THẤY ĐƯỢC BẢN CHẤT
CỦA TÌNH THƯƠNG CHÚNG TA. Tình thương theo lẽ thì phải làm cho người được
thương yêu có an lạc và hạnh phúc, nhưng nếu chỉ là đam mê, là ích kỷ, là ý chí
chiếm hữu thì tình thương này không thực sự là tình thương, tình thương này
không làm cho người được thương có an lạc và hạnh phúc. Trái lại nó làm cho kẻ
kia cảm thấy tù túng, lệ thuộc, mất hết tự do, mất hết phẩm cách của một con
người có tự do. Tình thương trong trường hợp này chỉ là một tù ngục. Nếu người
được thương không có hạnh phúc, nếu người ấy không chấp nhận cái nhà tù của sự
chiếm hữu thì tình thương kia sẽ dần dần biến thành sự ghét bỏ và hận thù.
Đại vương
biết không, tại kinh đô Savatthi này cách đây chỉ có mười hôm, một chuyện
thương tâm đã xảy ra chỉ vì tình thương không được thỏa mãn đã biến thành hận
thù. Có một bà mẹ cảm thấy mất mát khi đứa con trai duy nhất của bà đem lòng
thương yêu một cô thiếu nữ và sau đó cưới cô ấy về làm vợ. Bà mẹ kia thay vì
thấy rằng mình có thêm một đứa con, lại cảm thấy rằng mình đã mất một đứa con,
và cho rằng con trai mình đã phản bội tình thương của mình. Nghĩ như thế, hận
thù nảy sinh trong tâm bà. Một hôm bà đã bỏ thuốc độc vào thức ăn, và cả con
trai lẫn con dâu đều chết vì ngộ độc. Đại vương! Trong đạo lý giác ngộ, THƯƠNG
YÊU PHẢI ĐI ĐÔI VỚI HIỂU BIẾT, THƯƠNG YÊU CHÍNH LÀ HIỂU BIẾT. NẾU KHÔNG HIỂU
BIẾT THÌ KHÔNG THỂ THƯƠNG YÊU, vợ chồng không hiểu nhau thì không thể thương
nhau, anh em không hiểu nhau thì không thể thương nhau. MUỐN CHO MỘT NGƯỜI NÀO
ĐÓ CÓ HẠNH PHÚC, MÌNH PHẢI TÌM HIỂU CHO ĐƯỢC NHỮNG ƯỚC VỌNG VÀ NHỮNG KHỔ ĐAU
CỦA CHÍNH NGƯỜI ẤY. HIỂU ĐƯỢC RỒI MÌNH MỚI CÓ THỂ LÀM MỌI CÁCH ĐỂ CHO NGƯỜI ẤY
BỚT KHỔ ĐAU VÀ CÓ HẠNH PHÚC. Như vậy mới gọi là tình thương chân thật, CÒN NẾU
MÌNH CHỈ MUỐN KẺ KIA LÀM THEO Ý MÌNH, VÀ KHÔNG BIẾT GÌ ĐẾN NHỮNG KHỔ ĐAU VÀ
NHỮNG NHU CẦU CHÂN THỰC CỦA NGƯỜI ẤY THÌ ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ THƯƠNG. Đó chỉ là ước
muốn chiếm hữu hoặc ước muốn thỏa mãn ý nguyện của mình, cho dù đó là ý nguyện
muốn cho người kia sung sướng.
Đại vương!
Dân chúng trong vương quốc Kosala có những đau khổ và những ước vọng của họ.
Nếu đại vương thực sự hiểu thấu những đau khổ và những ước vọng ấy thì đại
vương sẽ thực sự thương yêu được họ. Các quan chức trong triều cũng có những
đau khổ và những ước vọng của họ. Nếu đại vương thực sự thấu hiểu những đau khổ
và ước vọng ấy, đại vương có thể làm cho họ sung sướng và họ sẽ suốt đời trung
thành với đại vương. Hoàng hậu, các thái tử và công chúa, mỗi người đều cũng có
những đau khổ và những ước vọng của mình; nếu đại vương thực sự thấu hiểu được
những đau khổ và những ước vọng ấy, đại vương cũng sẽ làm cho họ sung sướng, và
khi mọi người được sung sướng và an lạc thì chính đại vương cũng sẽ được sung
sướng và an lạc. Đó là nghĩa THƯƠNG YÊU TRONG ĐẠO LÝ TỈNH THỨC.
Vua
Pasenadi cảm thấy xúc động. Chưa có một vị đạo sĩ hay một vị Bà la môn nào đã
chiếu rọi ánh sáng vào các ngõ ngách tâm tư của vua và làm cho vua thấy hiểu
được tâm mình một cách rõ ràng như thế. Vị sa môn, vua nghĩ là một bảo vật quý
giá không lường của vương quốc, xứng đáng làm thầy của ta.
Vua cúi đầu
suy nghĩ. Một lát sau, vua ngửng mặt nhìn Bụt:
- Trẫm cảm
ơn ngài đã soi sáng nhiều cho trẫm, nhưng còn một điều này nữa, trẫm còn thắc
mắc. Ngài đã nói rằng tình thương có đam mê và vướng mắc thường có tác dụng gây
khổ đau và thất vọng, trong khi thương theo đạo lý từ bi tuy không ích kỷ và
không vụ lợi nhưng cũng vẫn đem lại khổ đau và thất vọng như thường. Trẫm cũng
thương dân, nhưng mỗi khi thấy dân chịu khổ đau vì những thiên tai như bão tố
lụt lội, dịch lệ ... thì trẫm vẫn cảm thấy khổ đau và thất vọng, mà trẫm nghĩ
ngài cũng thế, mỗi khi thấy người khác khổ đau vì bệnh hoạn, chết chóc, ngài
cũng không thể không khổ đau.
- Câu hỏi
của đại vương rất hay, nhờ câu hỏi này mà ngài có thể hiểu sâu thêm về bản chất
của từ bi. Trước hết, đại vương nên biết rằng những khổ đau do thứ tình thương
có bản chất đam mê và vướng mắc đem lại thì nặng nề và to lớn gấp muôn vạn lần
những khổ đau mà lòng từ bi đã làm phát khởi trong lòng ta. Kế đó, đại vương
phải phân biệt HAI LOẠI KHỔ ĐAU: một loại khổ đau hoàn toàn vô ích và chỉ có
công dụng tàn phá cơ thể và tâm hồn người, một loại khổ đau nuôi dưỡng được
lòng từ bi, ý thức trách nhiệm và đưa tới ý chí hành động diệt khổ. Thứ tình
thương có bản chất đam mê và vướng mắc vì được nuôi dưỡng trong tham đắm và si
mê nên chỉ có thể đem lại những phiền não khổ đau làm tàn phá con người, trong
khi từ bi chỉ nuôi dưỡng xót thương cho hành động cứu khổ. Đại vương! sự xót
thương rất cần cho con người. Đó là một niềm đau có ích. Không biết xót thương
thì con người không thể là con người, vì vậy những khổ đau do lòng xót thương
đem lại là những khổ đau cần thiết và có lợi lớn.
Sau nữa,
đại vương nên biết là TỪ BI LÀ HOA TRÁI CỦA SỰ HIỀU BIẾT. Tu tập theo đạo lý
tỉnh thức là để chứng ngộ được thực tướng của sự sống. Thực tướng ấy là vô
thường. Một vật đều vô thường, vô ngã vì vậy không vật nào là không có ngày
phải tàn hoại. Thấy được tự tính vô thường của vạn vật, người tu có một cái
nhìn điềm đạm và trầm tĩnh, vì vậy những vô thường xảy đến không làm xáo động
được tâm mình. Cũng vì vậy niềm xót thương do lòng từ bi nuôi dưỡng không bao
giờ có tính cách nặng nề và chua cay của những đau khổ thế tục. Trái lại, niềm
xót thương này còn đem đến sức mạnh cho người tu đạo. Đại vương! Hôm nay đại
vương đã nghe khái quát về đạo lý giải thoát. Một hôm khác, tôi sẽ giảng giải
thêm cho đại vương về đạo lý này.
Với tâm
hồn tràn đầy sự biết ơn, quốc vương Pasenadi phủ phục dưới chân để cảm tạ Bụt.
Vua tự nhủ là một ngày nào đó vua sẽ xin Bụt nhận vua làm đệ tử.
(Trích từ
cuốn sách "Đường Xưa Mây Trắng” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh)
GHI CHÚ:
Có thể
định nghĩa 4 khái niệm: Từ ~ Bi ~ Hỷ ~ Xả bằng 4 câu thơ sau:
TỪ ~ là
sống với thương yêu.
BI ~ là
thấy khổ lòng nhiều xót xa.
HỶ ~ là
vui sống chan hòa.
XẢ ~ là
buông bỏ thứ tha mọi điều.