CHƯƠNG BA
"Hôm qua tôi có phác họa sơ qua về những điều kiện sinh
hoạt ở cõi tình cảm, hôm nay tôi sẽ tiếp tục nói thêm về cõi này.
"Tòa thánh tại Rome đưa ra triết lý mà nếu tóm tắt thì đại
ý là sau khi chết, ai tội lỗi hết thuốc chữa sẽ rơi ngay vào địa ngục vĩnh viễn,
còn ai thánh thiện sẽ lập tức lên cõi thiên đàng. Người bình thường không tốt lắm
cũng không xấu lắm, sẽ trải qua một thời gian dài hay ngắn ở khoảng lưng chừng
là luyện ngục (Purgatory), để tội lỗi của họ được tiêu tan. Như tôi đã nói,
không hề có địa ngục đời đời, chuyện ấy không thể có vì lý do đơn giản là một nguyên
nhân giới hạn không thể sinh ra một kết quả vô hạn, và ai khi chết mang theo
lòng sợ hãi như vậy qua cõi tình cảm sẽ gặp khó khăn lúc ban sơ. Với người hết
sức tốt lành như các vị thánh thì triết lý trên có phần đúng một chút, vì có một
trạng thái được gọi là cõi thiên đàng, và rất có thể là một hai vị đại thánh lướt
qua chỗ giữa chừng là cõi tình cảm, đi thẳng lên cõi trí để tiếp tục cuộc tiến
hóa của họ nơi ấy. Cho đại đa số người thì câu hỏi lên thiên đàng hay xuống địa
ngục không cần đặt ra, tiến trình của họ là qua hai trạng thái mà cái thấp là
cõi luyện tội nên sáng nay tôi sẽ bắt đầu nói về nơi ấy.
"Giáo lý của Công Giáo La Mã có một phần sự thật khi nói
rằng cõi luyện tội là trạng thái chuyển tiếp, trong đó tội lỗi con người được
tiêu trừ một cách đau đớn, biểu hiệu với hình ảnh bị thiêu trong lửa; nhưng nó
không còn đáng được tôn trọng khi có giáo lý về xá tội, dạy là người ta có thể
bỏ tiền ra mua sự xá tội để tránh được trạng thái luyện tội, không cần bài học
của cõi này. Lẽ dĩ nhiên không thể có
chuyện đó, không số lượng tiền bạc nào có thể thay đổi mảy may chuyện sẽ xảy tới
cho một ai sau khi chết. Tiền bạc có thể khiến người ta qua mặt được luật pháp
lúc sống ở cõi trần, nhưng khi ta rời bỏ cõi đời này thì tiền không còn giá trị,
và bạn bè hay thân quyến có cúng bao nhiêu tiền để mua việc xá tội cho anh cũng
phí của mà thôi. Tôi luôn luôn nghĩ thật là khờ dại khi cho rằng tiền bạc có thể
thay đổi được luật của trời đất. Anh không thể thay đổi được sức hút của quả đất
bằng cách cho nó tiền bạc, thì việc thắp nến, cầu kinh, cúng dường cũng không sửa
được luật công bằng thiêng liêng.
"Cõi luyện tội được kêu như vậy không phải là không
đúng, vì nó là một trạng thái tâm thức nhằm thanh lọc và cải thiện con người, nằm
ở những cảnh thấp của cõi tình cảm, đây là nơi mà vừa mới chết thì gần như lập
tức ta bước qua đó. Ở đây con người tẩy sạch những ham muốn thấp kém làm trí
não mê muội, và khiến họ bị cột chặt vô hạn vào thể tình cảm. Sự tiến hóa đòi hỏi
linh hồn phải đi sang nơi cao hơn, mà muốn làm vậy, họ phải trải qua những cảnh
giới ở đó họ bị đau khổ y hệt như đã làm người khác điêu đứng lúc họ còn sống ở
cõi trần, vì gian dối, tàn nhẫn v..v. Nhờ thời gian và sự đau khổ họ học được
tính thành thật, công bằng, khoan hòa v..v. và khi học xong thì tiến sang bước
khác.
"Kiếp tới khi trở lại cõi trần họ sinh ra là trẻ con vô
tội tuy khuynh hướng chìu theo cùng loại dục vọng vẫn còn nằm đó, và mỗi điều
xúc phạm trong kiếp ấy là do tự ý muốn làm. Con người sẽ tiếp tục như thế cho tới
khi nhờ kinh nghiệm luyện tội cay đắng, họ học được rằng phải có tánh khoan hòa
và làm điều thiện cho kẻ khác bất kể mình được đối xử ra sao. Trời đất đã đặt
ra một số luật lệ vĩnh cửu mà chúng ta phải ráng hiểu cách luật tác động. Nếu
thiên nhiên không có những luật này thì sự việc sẽ hóa hỗn loạn và ta không biết
trông cậy vào điều chi, may thay có những luật trong trời đất và chúng là biểu
lộ của Thiên Ý.
"Tôi sẽ ráng giải thích việc gì xẩy ra trong cõi luyện tội
bằng cách cho anh vài thí dụ. Thí dụ luôn luôn đưa ra đầu tiên - vì nó dễ hiểu
nhất - là trường hợp người say sưa nghiện rượu. Ai cũng biết nghiện rượu tai hại
như thế nào, quá nhiều trường hợp xẩy ra với con người làm tan nát đời mình, bỏ
đói vợ con và còn gây ra vô số tội phạm khác chỉ để thỏa mãn việc thèm khát cảm
giác mà rượu mang lại. Nếu một ai uống chỉ để hết khát thì họ sẽ không ham muốn
việc uống rượu sau khi chết, bởi không có cái khát hay cái đói ở cõi trung giới,
nhưng nguyên do của dục vọng không phải là cái khát mà là sự thèm muốn một
khoái cảm.
"Sau khi chết cũng sự thèm muốn mà khi sống đã thúc đẩy
họ làm bao chuyện tệ hại sẽ hóa mạnh mẽ gấp bội, nhưng nay họ không cách nào thỏa
mãn ham muốn ấy khi đã mất thân xác vật chất. Dục vọng không phải chỉ thuộc về
thân xác mà nó còn thuộc về thể tình cảm, và là một trong những cách sinh hoạt
của thể này. Tên khác của cõi tình cảm là cõi dục vọng, ở nơi đây những ham muốn
với cảm xúc lộ ra trọn không chút suy giảm, lòng ham muốn với trọn lực của nó
bây giờ dầy vò xâu xé con người cả trăm lần hơn khi còn sống. Đó là sự đau khổ
mà không ai có thể phủ nhận, nhưng cũng không ai có thể nói rằng người nghiện
rượu đang bị trừng phạt. Việc xẩy ra chỉ là luật nhân quả tác động và con người
gặt cái đã gieo, nay họ nhận lãnh kết quả của hành vi trong kiếp vừa qua nhưng
họ không bị trừng phạt.
"Họ tạo cho mình lòng ham muốn nên bây giờ đau khổ, thời
gian mà nỗi vò xé này diễn ra có vẻ như vô tận đối với họ nhưng trên thực tế nó
chỉ kéo dài vài ngày, vài tuần hay vài tháng. Họ có thể tưởng tượng để thỏa mãn
cơn thèm được rất ít, như tạo hình tư tưởng về rượu và tưởng tượng như đang uống.
Họ cũng có thể tưởng tượng hương vị của rượu nhưng không sinh ra được kết quả,
tức không cách chi họ có được sự khoái lạc như khi uống rượu ở cõi trần. Họ có
thể có được khoái lạc gần giống bằng cách tới nơi người sống uống rượu và thu lấy
hơi rượu nồng bay lên, hơi rượu sẽ cho họ thỏa mãn rất ít oi. Họ không thấy
khoái lạc mấy nhưng có còn hơn không, và đó là việc khá nhất có được lúc này khi họ không còn
thân xác.
"Vậy đây là trường hợp của người có thể nói là đã rơi
vào địa ngục. Dĩ nhiên là không kéo dài đời đời nhưng đủ lâu làm người ta điêu
đứng khổ sở và cho là vô tận. Cái đáng nói là không ai có thể giúp được họ tức
ngăn không cho chuyện như vậy xẩy ra. Điều duy nhất có thể làm là giải thích cẩn
thận cho họ biết chuyện gì đang diễn ra, lý do của sự việc và cho hay cách giải
quyết duy nhất là mất đi lòng thèm khát, vì bao lâu dục vọng còn chưa dứt bỏ
hay tàn lụi thì còn đau khổ. Sớm hay muộn họ sẽ nhận thức được việc này và giai
đoạn luyện tội chấm dứt.
"Kế tiếp thử xét trường hợp người hà tiện rít róng, thu
góp vàng bạc trong đời và dấu nó ở nơi chỉ có họ biết. Hãy tưởng tượng đến sự
hài lòng vui thích của họ lúc còn sống khi tới chỗ bí mật này, vốc tiền trên
tay cho từng đồng vàng hay giấy bạc rơi xuống đống tiền bên dưới. Hãy tưởng tượng
họ kêu lên khoái trá "Tiền của ta, của ta hết thẩy, không ai đụng vào được
ngoài ta.' Rồi hãy nghĩ cảm tưởng của họ ra sao khi ở cõi tình cảm, họ thấy có
người may mắn tìm ra chỗ cất dấu vàng bạc này, và không chừng xài phung phí tiền
ấy. Người hà tiện không thể làm gì được, tuy rất có thể anh lẩn quẩn một thời
gian lâu sau khi chết quanh chỗ dấu tiền.
"Anh có thể dụ người tìm vàng đi chỗ khác, chắc chắn anh
làm hết sức mình để đuổi họ đi, nhưng anh không biết cách nào để nói với họ ngoại
trừ lúc họ ngủ và tạm thời bước qua cảnh giới của anh. Trong đa số trường hợp
không ai nhớ những buổi nói chuyện như thế khi thức dậy, nên cố gắng của anh
không chi phối được ai. Thế nên ta lại thấy tuy không ai trừng phạt người này,
nhưng anh đau khổ vì lòng thèm muốn và tham lam không được kềm chế. Anh chỉ có
được sự an vui khi bỏ được lòng ham thích những gì thuần vật chất.
"Một trường hợp khác rất hay thấy là của người hết sức
ghen tuông, tưởng mình thương yêu ai đó nhưng thực ra tất cả điều họ muốn là
chiếm hữu phần hồn lẫn phần xác của đối tượng để có thỏa mãn riêng tư. Ai thực
tâm thương yêu sẽ hân hoan thấy người mình yêu được kẻ khác ái mộ, chú ý nhưng
người ghen tuông thì khác. Lúc còn sống mà ghen tuông thì khi chết anh vẫn giữ
tính đó, tự dằn vặt mình không ngưng và vô ích khi lom lom trông chừng và ghét
bỏ ai đến tán tỉnh người anh nghĩ là anh thương yêu, tìm đủ cách để ảnh hưởng họ
nhưng chỉ tốn công vô hiệu. Cũng như trước không ai trừng phạt người hay ghen như
thế, họ chỉ nhận lấy kết quả của sự khờ dại của họ do luật nhân quả hay karma
mang tới, theo tác động không thể kềm chế được của luật. Cách duy nhất có thể
giúp họ là khuyên nhủ hợp lý, tìm cách cho thấy là họ đang hành động điên rồ,
giải thích rằng chuyện duy nhất phải làm để được bình an là gạt bỏ tánh ích kỷ
khi thương yêu, và cần nhận thức là không ai có thể chiếm hữu linh hồn cũng như
thân xác người khác, dù muốn tới đâu đi nữa.
"Ta qua thí dụ chót ở cõi luyện tội. Có nhà doanh thương
lần kia làm tiêu tan sự nghiệp của người cạnh tranh với mình, khi bạn hữu chỉ
trích thì anh nói mạnh tay hành động là tốt cho việc kinh doanh, và kẻ bị thiệt
hại có được bài học mà sau này sẽ hữu ích cho họ. Đúng thế, vài năm trôi qua, kẻ
bị thua khi trước nay vươn lên, thành công nhiều lần hơn người đã hại anh, và kẻ
nhẫn tâm lấy đó làm chuyện để chứng tỏ mình đúng, rằng cạnh tranh tàn nhẫn thực
ra là phước lớn cho người bị thua. Kẻ này không nghĩ gì thêm về chuyện ấy trong
kiếp đó, nhưng khi qua đời sang cõi luyện tội thì họ thấy sự việc khác hẳn.
"Ở đó anh được cho thấy là sau khi tiêu tan sự nghiệp, kẻ
bị hại về cho vợ hay việc bất hạnh của mình. Con trai người này bắt đầu vào đại
học phải bỏ ngang đi tìm việc, nhận làm chân thư ký nhỏ. Người cha bắt đầu trở
lại và như đã nói, ông trở nên giàu có về sau nhưng lúc đó đã quá trễ để giúp
con. Và chuyện gì xẩy ra cho cậu trai ? Cậu cho rằng định mạng đùa giỡn với
mình, hóa ra cay đắng nên thay vì tận dụng tối đa hoàn cảnh mới, cậu lại chơi với
bạn xấu, kiếm tiền bằng cách bất chính để cuối cùng vào tù. Sự việc gây khổ não
cho mẹ anh làm bà đau buồn rồi chết.
"Trọn câu chuyện thấy từ đầu tới cuối là một thảm kịch
to tát, và ta có thể tưởng tượng ra nỗi đau khổ của thương gia nhẫn tâm, khi họ
ý thức rằng lòng tham lam thiếu suy nghĩ của họ lúc ấy, không những đã tạm thời
làm tiêu tan sự nghiệp của kẻ cạnh tranh với mình, mà còn gây ra cái chết của một
người đàn bà và hại cuộc đời của cậu trai trẻ.
"Ở cõi bên kia con người thấy được trọn vẹn kết quả mọi
hành động của mình, và ít ai không bị đau khổ khi nhìn lại cùng tự hứa là trong
kiếp mai sau họ sẽ xử sự khác đi. Cõi luyện tội là nhằm làm ta thay đổi quan niệm
với những việc như thế, và khi quan niệm đổi khác thì ta học xong kinh nghiệm của
cõi này. Thông thuộc bài học bảo đảm rằng trong những kiếp sau khi qua đời và
bước sang những cảnh thấp của cõi tình cảm, ta chỉ phải dừng chân ngắn ngủi với
những kinh nghiệm tương tự như thí dụ ở trên. Ta chỉ phải học bài học một lần
mà thôi, và nếu nhờ vậy tâm tính thay đổi thì tránh được nhiều nỗi khó khăn,
đau lòng trong tương lai.
"Kinh nghiệm về cõi tình cảm của người trung bình và dưới
mức trung bình tương ứng với đời sống của họ ở cõi trần, chuyện cũng y vậy cho
người trí thức trên trung bình và phù hợp theo cách sống của họ. Người như thế
đi qua những cảnh thấp của cõi tình cảm mau hơn rồi vào cảnh cao, nơi chẳng những
họ có thể tiếp tục bất cứ cuộc thí nghiệm nào ưa thích, mà còn có thể qui tụ
thêm những ai cùng sở thích quanh họ. Ta thường thấy những tụ tập như thế giữa
khoa học gia với sinh viên, nhà toán học với nhóm nhỏ hơn. Cả hai nhóm thấy cõi
tình cảm thích hợp để làm việc hơn là cõi trần, vì nay họ có thể nghiên cứu
không gian bốn chiều và có cơ hội thí nghiệm.
"Nghệ sĩ thì có nhóm học trò chăm chú bắt chước tài nghệ
của ông, và nhạc sĩ cũng vậy. Người sau thật là hạnh phúc vì họ có cơ hội được
nghe âm nhạc của thế giới mà luôn cả âm nhạc của thiên nhiên từ biển, gió,
không gian, vì quả là có âm nhạc của các hành tinh khi chúng di chuyển trong
không gian lồng lộng. Âm nhạc và mầu sắc nối kết với trọn không gian bao la,
nhưng ta ý thức về nét vinh diệu của sự sống trong vũ trụ ít như con kiến hiểu
về cuộc sống của con người, với biết bao sinh hoạt. Nhạc sĩ có thể gặp các đại
thiên thần âm nhạc, các ngài biểu lộ qua âm nhạc, bằng âm nhạc và âm nhạc đối với
các vị này thì như ngôn ngữ đối với ta. Về sau anh sẽ được nghe thêm về sinh hoạt
của các ngài.
"Với người thiên về tinh thần, suy gẫm sâu xa điều thanh
cao thì họ bước vào nơi an lạc vô tận. Trong suốt cuộc sống ở cõi trần họ phải
dựa vào niềm tin và khả năng lý luận của mình, nay họ có thể chứng minh được sự
thật của những thuyết lý mà họ đã nghiên cứu dưới thế, ta không thể tưởng tượng
hết được niềm vui và an lạc mà hiểu biết này mang lại cho người như vậy, họ đã
phấn đấu trong cảnh tối tăm và bây giờ phần nào tìm ra ánh sáng.
"Có lẽ người từ tâm với ý tưởng, mục tiêu duy nhất trong
đời muốn giúp đỡ đồng loại là người có
cơ hội tốt đẹp hơn hết thẩy, vì nay họ được tự do để dành trọn thì giờ cứu
giúp, an ủi kẻ nào cần đến họ. Nếu làm phần việc đặc biệt là giúp ai vừa qua đời
thì họ sẽ còn bận rộn trong suốt khoảng thời gian ở cõi tình cảm. Trong thời
chiến có nhu cầu rất lớn cho việc này vì người không hiểu biết thì nhiều mà người
cứu trợ lại ít. Ai làm công tác đó là nắm lấy cơ hội bằng vàng để tạo nhân quả
hết sức tốt đẹp cho mình.
"Vậy hãy học hỏi không phải để giúp riêng mình mà vì nhờ
hiểu biết này, anh có thể giúp người khác lúc nguy khó, cũng như anh có thể dự
phần vào cơ tiến hóa vĩ đại và trở thành, như ai biết suy nghĩ người dẫn đường,
giúp đỡ kẻ chưa hiểu biết."
"Hôm nay ta đi tới một trong những chuyện lý thú nhất về
cõi tình cảm là Trẻ Con, vì nói cho cùng không phải trẻ con thực ra đã làm nên
thế giới sao ? Chỉ cần dự lễ Giáng Sinh trong gia đình không có trẻ con là sẽ
thấy giọng nói vui vẻ, chơi đùa nhộn nhịp làm cho Giáng Sinh là lễ tưng bừng nhất
trong năm; thiếu trẻ con thì trong nhà hóa trống vắng và thế giới như không có
hạnh phúc chút nào. Tiếng cười của trẻ thơ là điều tuyệt vời nhất trên thế
gian, và ai từng chăm lo cho trẻ nhỏ sẽ là người thấy mất mát nhiều nhất, khi
chúng trưởng thành bước vào vòng đời quay cuồng người lớn. Dường như trẻ con là
kẻ hồn nhiên nhất trong nhân loại, là kẻ duy nhất biết vui sống là gì.
"Lý do nằm ở sự kiện là khi trở lại cõi trần, chúng vẫn
còn nhớ cuộc sống tuyệt diệu ở cõi thiên đàng vừa rời bỏ, còn giữ lại phần nào
ký ức về cảnh đời cao đẹp nhất với thiên thần, tinh linh, nơi có nét mỹ lệ mà
ta không sao mơ tưởng nổi khi ta trưởng thành nhiễm tính duy vật, tập cư xử cho
hợp thói đời. Loài thú cho thấy điều tương tự, ngay cả sư tử con cũng dễ yêu
như các em bé, khi mới sinh ra chúng chưa biết sợ vì chúng vừa từ cõi tình cảm
xuống là nơi không có lòng sợ hãi. Nhưng sau vài tháng hay một năm, bản năng là
một phần của hồn khóm mà chúng thuộc về, nay từ từ thấm vào, sư tử con nẩy lòng
sợ hãi và nghịch với người khiến chúng không được xem là thú nhà an toàn nữa.
"Quan niệm chung cho rằng không có gì đáng buồn hơn việc
trẻ chết sớm, vào bất cứ lúc nào trong giai đoạn thơ ấu nhất là khoảng chúng được
ba tuổi. Tính thơ ngây của trẻ không thuộc vào tuổi tác, có trẻ mất tính này
khi bắt đầu vào trường, có trẻ vẫn giữ được tới tuổi thiếu niên. Ai chưa rõ phần
sơ đẳng của luật tiến hoá cho rằng trẻ chết sớm là chuyện không nên có, vì lẽ tự
nhiên là người đời thắc mắc tại sao cha mẹ phải bị đau khổ như vậy, và trẻ ra
đi quá sớm thì có lợi gì.
"Tuy nhiên ai hiểu luật tiến hóa hẳn ý thức rằng trẻ con
là cá nhân riêng biệt, xuống cõi trần để học kinh nghiệm và có vận mạng riêng của
chúng. Nếu chết sớm trẻ có ít kinh nghiệm và chỉ cần ít thì giờ để chuyển hóa số
kinh nghiệm này sau khi rời cõi trần, nên trẻ chết yểu thường trở lại ngay để bắt
đầu kiếp khác. Trẻ không bị mất mát hay đau khổ gì vì chết non. Nếu người trung
bình chịu bỏ công học hỏi để có hiểu biết này thì đời sẽ vui hơn biết bao.
"Khi em bé sắp sửa qua đời thì nên có nghi lễ tôn giáo để
bảo vệ em, tạo nên một làn rung động có ảnh hưởng rõ rệt để không gì có thể gây
nguy hại cho em. Khi trẻ qua cõi tình cảm chúng có cuộc sống thật hạnh phúc vì
không có gì cấm đoán ngăn cản. Chúng không hề bị bỏ rơi vì luôn luôn có những
bà mẹ đã qua đời sẵn lòng chăm sóc cho trẻ thơ chết sớm. Các bà vẫn giữ tình mẫu
tử ở cõi tình cảm như lúc sống ở cõi trần, và các bà mẹ này không còn phải lo về
cái nghèo, sự thiếu ăn, thiếu mặc, lạnh giá.
"Ngủ cũng không còn cần thiết nên bà mẹ có thật nhiều giờ
để lo cho trẻ mà bà nhận vào lòng. Ngoài nỗi hân hoan sinh ra do việc trông nom
chơi đùa với trẻ, bà có thể dạy em học, chỉ cho thấy bao nét mỹ lệ dưới nhiều hình
thức khác nhau ở cảnh giới này. Việc dạy dỗ như vậy có thể lưu lại trong tiềm
thức của trẻ, khiến chúng quan tâm đến nét mỹ thuật của sự sống trong kiếp sau.
Ngoài các bà mẹ nuôi lúc nào cũng sẵn đó, còn rất đông người cứu trợ ở cõi tình
cảm sẵn sàng chỉ dẫn ai chân ướt chân ráo mới qua đời bước lên cõi tình cảm.
"Giống như người lớn, trẻ con không thay đổi khi qua cảnh
bên kia. Lúc nào cũng có nhiều người muốn chơi đùa cùng em, có cả tinh linh dự
vào nhiều trò chơi của trẻ nơi này. Thử nghĩ đến trẻ nhỏ giàu tưởng tượng tạo
ra trong trí của mình khung cảnh tuyệt vời của chuyện thần tiên em đọc trong
sách. Sang cõi tình cảm em không còn phải giả bộ chơi, vì ở đây hễ vừa tưởng tượng
chuyện gì thì nó hiện ngay lập tức cho thấy, bởi vật chất cõi tình cảm được
nhào nặn theo tư tưởng, bao lâu trẻ còn tưởng đến chuyện gì thì chuyện sẽ còn
đó. Thay vì ngồi trong bồn tắm cũ kỹ với hai khúc cây là mái chèo, em nhỏ muốn
chèo thuyền trên sông chỉ cần nghĩ đến dòng sông, đến con thuyền, mái chèo là tất
cả có ngay cho em sử dụng.
"Trẻ nào thích làm anh hùng trong chuyện thì chỉ cần
nghĩ đến một cách mạnh mẽ rằng mình là anh hùng, và lập tức em trở thành người
hùng theo óc tưởng tượng của em. Chất liệu mềm dẻo của cõi tình cảm được uốn
thành bất cứ hình dạng nào, nên trong khoảng thời gian đó em nhỏ y hệt là điều
mà em tưởng tượng. Em có thể thành vua Quang Trung, Batman diệt bạo trừ gian,
Harry Potter. Nghĩ tới cái gì là em thành cái đó, và khi chơi chán một trò em
chỉ cần nghĩ tới nhân vật khác là chất liệu tuân theo ý em ngay. Điều học hỏi
này hết sức bổ ích cho trẻ, vì bằng cách ấy em học được nhiều việc không thể có
trong điều kiện ở cõi trần.
"Chúng ta đều biết rằng trẻ con hỏi luôn miệng và biết
bao lần ta không trả lời được câu hỏi của em, vì có những điều trẻ không hiểu
được do trí óc còn non nớt, thơ dại. Đôi khi ta còn la rầy không muốn trẻ hỏi,
chẳng phải vì muốn ngăn cản sự tiến bộ của em, nhưng không đáp xem ra tốt hơn
là đáp lại mà tạo cảm tưởng sai lầm. Sang cõi tình cảm những điều kiện nơi đây
thay đổi tất cả, thắc mắc của em được trả lời bằng hình ảnh hiện ra ngay trước
mắt, hình còn đó sống động bao lâu ta còn tập trung tư tưởng vào nó, và hình giải
đáp thắc mắc tuyệt hơn là cắt nghĩa dài dòng.
"Người ta hỏi "Trẻ có nhớ cha mẹ, bạn bè hay
không?" Không, chúng không nhớ vì khi ngủ ai cũng sang cõi tình cảm là nơi
trẻ qua đời đang sống. Cha mẹ thương tiếc con vì nghĩ là đã mất nó, nhưng họ gặp
con trở lại khi vừa thiếp ngủ, tách ra khỏi xác thân; họ có thể nói chuyện và
chơi với con, tiếp tục dạy con.v..v. Thực tế là có thể tiếp tục làm cha làm mẹ
như ở cõi trần nhưng tiếc là cha mẹ không nhớ chút gì khi tỉnh giấc vào buổi
sáng.
Trẻ khi chết trở thành vô hình với cha mẹ bình thường chưa có
thông nhãn (clairvoyance), trong khi đó em luôn thấy cha mẹ tức thể tình cảm
bao quanh xác thân họ. Cha mẹ không hề vô hình đối với trẻ nên thường khi, lúc
họ khóc thương con đã chết thì chính trẻ ấy đang đứng ngay bên cạnh, tìm đủ mọi
cách để nói chuyện với họ. Lúc đó trẻ thấy cha mẹ sao lạ lùng kỳ cục, bởi không
hiểu rằng tuy em thấy cha mẹ nhưng họ lại không thấy em.
"Thắc mắc khác cũng thường nêu ra là 'Trẻ có lớn lên ở
cõi tình cảm không ?' Khó mà trả lời câu này vì nếu ta hỏi trẻ thì em hay đáp: 'Có, em lớn nhiều lắm'.
Như đã nói, thể tình cảm không tăng trưởng sau khi chết, và tuy trẻ nẩy nở tâm
trí, học hỏi nhiều hơn nhưng thể tình cảm vẫn y như lúc em qua đời. Sự nẩy nở của
cơ thể chỉ cần thiết ở cõi trần, sau khi chào đời cơ thể lớn từ từ cho tới khi
cao lớn trọn vẹn, và khi chết vào bất cứ lúc nào thì sự tăng trưởng tự động
ngưng lại. Nay không còn thân xác cho thể tình cảm tượng hình theo thì nó cũng
dừng, không lớn nữa. Khi trẻ bảo em có lớn, nó muốn nói là trẻ 'nghĩ' em có lớn,
thể tình cảm lập tức đáp ứng theo tư tưởng đó nên trong một lúc nó lớn hơn,
nhưng khi em nghĩ sang chuyện khác thì thể tình cảm trở lại kích thích cũ. Chuyện
không có gì là bí ẩn mà chỉ là tác động của luật thiên nhiên, và vật chất cõi
cao hay thấp đều tuân theo luật.
"Có lần tôi gặp chuyện rất lý thú về việc này. Có cặp vợ
chồng cùng thiệt mạng trong tai nạn xe hơi, muời năm trước họ mất con gái nhỏ
năm tuổi. Người chồng từng học hỏi về huyền bí học thì tin là sẽ thấy con gái y
như lúc còn sống, nên khi gặp ông đưa tay bế con lên như khi xưa hay làm vậy
lúc ở sở về. Người vợ không học về những chuyện này nên tự nhiên tính là con
gái bây giờ phải mười lăm tuổi, và tin rằng một thiếu nữ dậy thì sẽ đón mình ở
thế giới bên kia. Bà không bị thất vọng chút nào, vì gặp cô gái xinh xắn có
gương mặt và đôi mắt quyến rũ như bà thường tưởng tượng là vóc dáng của con
mình khi em lớn lên. Bà đón con và nói 'Chao ơi, con của mẹ lớn mau quá, sắp
thành một thiếu nữ rồi !'
Người chồng biết về đặc tính mềm dẻo của vật chất cõi tình cảm
nên không ngạc nhiên chi hết, không giải thích làm bà cụt hứng rằng cái bà thấy
chỉ là hình tư tưởng, do bà tự tạo ra về con gái mà họ vẫn gặp mỗi đêm lúc ngủ
trong mười năm qua. Thí dụ này cho thấy tuy sự thực là thể tình cảm của ta
không lớn lên ở cõi đó, nhưng với ai không tin hay thấy sự việc khó hiểu thì ảo
tưởng của họ cũng làm thỏa mãn, và chuyện không có hại cho ai.
"Trước khi chấm dứt phần nói về trẻ con ở cõi tình cảm,
xin đưa thí dụ cho thấy cái chết trẻ của một em bé có thể có lợi đáng kể cho
em. Có cặp vợ chồng tuy sống trong cảnh thiếu thốn nhưng mong ước có con, chẳng
bao lâu bà sinh bé trai nhưng em chỉ sống được hai năm rồi chết. Hai người đau
đớn vì mất con không sao nguôi được. Cuộc đời khi trước hạnh phúc bao nhiêu thì
nay trống rỗng, lạnh lẽo và bầu không khí trong gia đình sầu thảm cực độ. Theo
với thời gian họ nguôi ngoai dần nhưng nỗi buồn mất con vẫn còn đó, và họ làm
chuyện tệ hơn cho nhau do việc không ai nhắc tới điều ấy nữa, có nghĩa trong
lòng hai người càng thương nhớ con hơn. Đứa trẻ mà cả hai cùng thương yêu và
cùng hoạch định tương lai cho con, nay đã rời bỏ họ. Sự mất mát, nỗi đau khổ thật
lớn lao và tự hỏi làm sao gọi Thượng Đế là Cha Lành cho được, khi ngài bắt họ
phải chịu số phận ấy.
"Hai vợ chồng phản ứng khác nhau với chuyện đau lòng,
trong lúc người vợ lo công việc nhà và cầu Trời rằng ngày kia mình sẽ có em bé
khác thì người chồng vùi đầu vào chuyện làm ăn, tin rằng miệt mài như vậy sẽ
làm anh quên sự mất mát to lớn kia. Năm năm sau cái chết của con đầu lòng, người
vợ sinh một bé trai khác và không gì làm họ vui sướng hơn. Bé trai này cũng chính
là bé trai đã mất cách đây năm năm. Kết quả bao năm cần cù làm ăn của người cha
khiến gia đình khá giả hơn và tới lúc con đi học, anh có khả năng cho con học
hành đầy đủ, trong khi năm năm trước anh sẽ không có đủ tài chính để lo.
"Kết quả của cái chết có vẻ như vô ích là trước tiên cặp
vợ chồng trả bớt một số nhân quả khi mất con và đau khổ, kế đó đứa trẻ mà linh
hồn có quyền hưởng một nền học vấn tốt đẹp nhờ hành động kiếp trước, phải rút
lui khỏi thân xác của đứa con đầu, chờ năm năm để trở lại sinh làm đứa con thứ
hai. Linh hồn không bị thiệt hại gì do những chuyện này, mà được lợi nhờ vào những
cơ hội có đó khi tái sinh lần thứ hai. Sinh trễ vài năm không có nghĩa lý gì
trong cuộc tiến hóa, nhưng có khi sớm hay trễ vài năm cho ra khác biệt to tát
trong cảnh nhà một gia đình ở cõi trần, và có thể mang lại hệ quả sâu xa cho
linh hồn nào sinh vào khung cảnh ấy.
"Tóm tắt lại, nói chung là con người cần lên cõi thượng
trí là nơi cư ngụ của linh hồn nếu anh đã sống một kiếp dài trung bình. Muốn
lên nơi ấy con người phải qua cõi tình cảm, sống một lúc ở chỗ đó rồi bỏ thể
tình cảm để sống trong thể trí ở cõi thượng giới. Tại đây anh đúc kết mọi kinh
nghiệm trí tuệ và nỗ lực học hỏi ở cõi trần. Làm xong việc này anh cũng thải bỏ
thể trí và chỉ tạo thể tình cảm và thể trí mới khi đến ngày giờ tái sinh. Nói
như vậy để anh thấy rằng đôi khi trẻ nào chỉ sống một kiếp ngắn ở cõi trần rồi
chết đi, em sẽ có rất ít kinh nghiệm để đúc kết nên chỉ sống vài năm ở cõi tình
cảm mà thôi, rồi có thân xác mới nhưng giữ y thể tình cảm và thể trí của kiếp
ngắn ngủi trước.
"Hẳn anh bắt đầu hiểu rằng cuộc tiến hóa là tiến trình
chậm chạp, ta sẽ hiểu được nó dễ hơn nếu có thể nhìn được trọn cơ trời thay vì
chỉ một phần mà đa số chúng ta thấy sơ qua khi ở dưới trần.
"Còn nhiều điều tôi sẽ phải chỉ dẫn anh về cuộc sống ở
cõi tình cảm và anh sẽ có dịp hỏi về những chuyện chưa thông suốt. Trước khi
chia tay tôi đề nghị một thí nghiệm mà tôi tin là anh rất muốn làm. Tối qua tôi
được phép của Chân Sư cho anh cơ hội để thấy tận mắt những gì tôi trình bầy với
anh trong mấy ngày qua. Ngài là Vị gửi tôi đến nói chuyện cùng anh và là một
trong những đấng cao cả giúp chăm sóc địa cầu.
"Việc tôi đề nghị anh làm một cuộc hành trình qua cõi
tình cảm, và nếu anh theo đúng lời chỉ dẫn, tôi có thể giúp anh nhớ được nhiều
việc anh thấy và làm trong lúc rời khỏi xác. Sáng mai tôi không tới đây như thường
lệ, anh có thể dành trọn buổi sáng coi lại tất cả bài đã ghi trong sáu ngày
qua, xem kỹ chi tiết càng nhiều càng tốt vì nếu muốn cuộc thí nghiệm này có lợi,
anh sẽ phải nhớ nhiều chuyện tôi đã nói với anh. Điều anh nhớ được sẽ khiến những
gì bây giờ còn mù mờ hóa rõ ràng, dễ hiểu.
"Anh không được ăn thịt hay uống rượu hôm nay và ngày
mai. Tôi biết anh ăn rất ít thịt và hiếm khi uống rượu nhiều, nhưng một chút rượu
cũng gây khó khăn cho tôi, vì phần việc của tôi là gây ấn tượng lên tế bào não
của anh để anh nhớ lại đã làm chuyện gì nơi cõi tình cảm khi trở về thân xác.
Có thể ta không thành công 100% nhưng cứ thử và bởi Chân sư thỏa thuận chương
trình, tôi tin là Ngài sẽ giúp tôi thực hiện.
"Tối mai anh phải ăn tối lúc 7 giờ, về phòng sau khi ăn
và lên giường ngủ lúc 9:45. Tôi có viên thuốc anh cần uống khi đi ngủ, để giúp
anh ngủ say hồi 10 giờ là lúc tôi tới. Trước khi ngủ hãy ráng tưởng tượng anh nằm
trên giường trông ra sao. Cách đơn giản nhất là tưởng tượng có một tấm gương thật
lớn ở trần nhà ngay bên trên giường, và anh sẽ thấy gì trong gương khi lên giường.
Tôi muốn anh giữ hình ảnh này trong trí khi thiếp ngủ, vì đó là cái anh sẽ thấy
ngay khi rời khỏi xác.
"Mới đầu anh sẽ ngạc nhiên khi thấy có vẻ như anh đang nằm
trên giường, trong khi anh là người thật đang nhìn xuống thân xác, nên tự nhiên
anh cảm thấy sợ hãi và muốn vội vã trở về thân xác, làm vậy sẽ khiến anh thức dậy
ngay. Tôi cho anh hay trước điều này để tránh không cho nó xẩy ra. Tuy mỗi đêm
anh rời khỏi xác nhưng anh không nhớ gì cả, bởi anh không tỉnh thức khi lìa xác
thân, bây giờ tôi giúp để không có gián đoạn nào trong tâm thức lúc anh bắt đầu
thiếp đi và ý thức mình đang tách khỏi cơ thể. Tôi sẽ giúp anh duy trì sự liền
lạc tâm thức đó, từ khi chìm vào giấc ngủ tới lúc trở về với xác thân vào buổi
sáng, như thế anh sẽ không gặp chút khó khăn nào trong việc hồi nhớ và có thể tả
lại chi tiết mọi chuyện anh làm khi ở trong thể tình cảm, lúc cơ thể nằm ngủ
trên giường.
"Nếu không có sự liên tục về tâm thức đó anh sẽ nhớ chút
ít hay không nhớ gì cả, chỉ nhớ loáng thoáng phần nào một hay hai chuyện xẩy ra
và xem đó là giấc mơ. Giấc mơ của đa số người là những phần rời rạc của chuyện
gì họ làm trong lúc ngủ và thường bị tế bào não biến đổi. Nhớ lại chính xác tất
cả chi tiết là chuyện không dễ, mà phải mất nhiều năm học hỏi, tập trung tư tưởng
và thực hành mới đạt kết quả hoàn hảo. Cho nên tôi không dám bảo đảm là anh sẽ
nhớ hết mọi điều ngay cả khi được Thầy tôi giúp. Bằng giả dụ được thành công
hoàn toàn thì anh không nên thất vọng khi trong những dịp tới lúc thức dậy, anh
không nhớ lại chút gì. Đây là điều chắc chắn sẽ xẩy ra.
"Bây giờ tôi phải đi, xin hẹn gặp anh tối mai. Ngày mốt
tôi cũng không đến gặp anh vì tôi muốn anh viết lại tất cả những gì nhớ được về
kinh nghiệm ở cõi tình cảm. Ta sẽ thảo luận các chuyện này khi tôi đến ba ngày
sau, cũng vào giờ thường lệ. Hãy tự tin và mọi chuyện sẽ tốt lành."