CHƯƠNG BẢY
Làm như tôi không có ngủ chút nào hết ! Khi sáng nay thấy
mình ở trong thể xác trở lại, trí não tôi nhớ rõ ràng mọi chuyện đã xẩy ra, giống
như tôi đi xem kịch và được yêu cầu viết lại mọi tình tiết của vở kịch ấy. Thế
nên tôi có thể ngồi xuống cầm giấy bút và ghi lại trung thực tất cả những gì đã
diễn ra.
Sau khi uống viên thuốc tôi nhìn cái đồng hồ nhỏ của Pháp thấy
kim chỉ 9:42 tối. Tôi không ráng ngủ nhưng trong vài phút thấy mình thoát ra khỏi
xác thân và đứng cạnh giường có thể xác nằm ngủ trên đó. Tôi nhìn giờ nữa thì
thấy là 9:55. Không có ai chung quanh nên tôi tới lui trong phòng, lạ lùng rằng
chuyện đơn giản biết bao, trong khi lần đầu tiên đi chơi cõi trung giới tôi lại
thấy nó hết sức phức tạp. Tôi không muốn ra khỏi phòng vì nhớ thật rõ là vị thầy
Ấn Độ có nói ông sẽ lại đây lúc 10 giờ, thế nên tôi chờ ông tới, chắc dạ rằng
ông sẽ không sai lời.
Lát sau tôi nhìn đồng hồ thì đã 10 giờ, vẫn không có gì xẩy
ra. Năm phút nữa trôi qua và tôi tự nhủ không chừng chuyện hỏng bét. Thời khắc
trôi đi và tôi càng lúc càng bồn chồn lo lắng, nhưng không muốn tự đi chơi một
mình. Khi tôi sắp nhìn đồng hồ nữa thì nghe có tiếng nói nay trở nên quen thuộc
ở sau lưng tôi cất lên:
– Anh có nghĩ là tôi làm anh thất vọng không ?
Vị thầy Ấn Độ bảo rằng ông đến trễ vì phải giúp một người bạn
của ông vừa qua đời hồi sáng. Người này rất sợ chết và tuy đau ốm từ mấy tháng
nay, vẫn cố chống chọi tử thần cho đến cùng. Ông giải thích rằng làm vậy chỉ vô
ích khi ngày giờ tới, và tuy ông bạn có thể duy trì sức sống trong thể xác thêm
được vài tuần bằng ý chí cứng cõi của mình, cuối cùng thì thần chết vẫn thắng.
Cơn bệnh mà người này mắc phải từ nhiều tháng qua làm thể xác họ bị yếu tới mức
thể sinh lực không sao ở lại trong đó được nữa. Vị thầy nói rằng ông giúp người
bạn thải bỏ thể sinh lực, tuy người này muốn giữ nó lại vì nó là cái gần gũi nhất
với sự sống cõi trần, là sự sống duy nhất mà người bạn hiểu được.
Làm cho người bạn chịu có ý chí cần thiết để thải bỏ thể sinh
lực khỏi thể tình cảm, khi cái trước quấn lấy cái sau, mất nhiều thì giờ hơn mọi
khi.
– Bạn tôi yên chuyện rồi, ông nói, tôi giao anh bạn cho vài
người cứu trợ ở cõi trung giới. Chắc họ muốn ở cạnh bạn tôi cho tới khi nhờ
kinh nghiệm rõ ràng anh sẽ học được đôi chút về Luật.
Tôi hỏi kỳ này đi chơi sẽ làm gì, ông đáp cái cần là trước
tiên tôi nên có kinh nghiệm của việc đi từ cảnh thấp lên cảnh cao. Ông giải
thích kỹ với tôi là tuy dùng chữ cảnh cao nhưng chúng không thực sự ở bên trên
nhau xếp thành tầng, tầng này chồng lên tầng kia, mà đúng ra là ở quanh chúng
ta, chỉ khác nhau ở mức đậm đặc nhiều hay ít.
Ông đề nghị khởi sự chuyến đi từ London nên cả hai chúng tôi
vút đi như lần trước. Chẳng mấy chốc chúng tôi bay chậm lại, thấp xuống đất liền
và tôi nhận ra gần như trong tích tắc thành phố London rộng lớn nằm dưới kia.
Tôi không nhìn rõ những vật mà chúng tôi vụt qua trên đường, tôi chỉ phân biệt
được giữa đất liền và biển mà thôi, nó làm như chúng tôi xem xi nê về phong cảnh
được chiếu rất mau. Tôi không thấy mình phải ráng sức để bay đi và tuy đến nơi
gần như chưa đầy một phút sau, chúng tôi không thở hổn hễn chi cả.
Như lần trước chúng tôi đáp xuống Hyde Park, tôi được cho hay
đây là chỗ tốt nhất để đáp xuống bởi chúng tôi sẽ đi ra Piccadilly Circus, đáp
xuống ngay nơi đó dễ làm tôi kinh hoảng vì xe cộ qua lại như mắc cửi, và cho cảm
giác (rất sai lầm) là tôi có thể bị xe cán dẹp. Nếu bị kinh hoảng như vậy thì nỗi
hoảng sợ đó truyền về thể xác của tôi đang nằm trên giường ở Colombo, nó sẽ lập
tức kêu chủ nhân quay lại nhập xác. Khi trong thể tình cảm vội vã trở về thể
xác theo cách đó, tôi sẽ choàng tỉnh với tim đập thình thịch như trống làng và
chắc sẽ tin là vừa có ác mộng bị xe cán dẹp lép, với ác mộng này không nhất thiết
phải giống chuyện thực đã xảy ra. Nỗi kinh khủng sinh ra do ác mộng tưởng tượng
như thế có thể làm tim tôi đánh loạn xạ, vì đó là phản ứng mà lòng sợ hãi thường
gây ra cho thể xác.
Xuống tới mặt đất tôi gặp lại khung cảnh quen thuộc mà tôi rất
thường nhìn thấy khi xưa. Trời chiều có nắng đẹp với nhiều người đi tản bộ. Trẻ
con với mẹ hay bà vú đang chơi đùa như thường lệ, và cách đó không xa cho lắm
tôi thấy được dòng xe cộ tuôn chảy không ngớt, xe hơi, xe taxi, xe bus trên đường
Park Lane về Piccadilly và Hyde Park.
Tôi đề nghị đi bộ dọc theo đường Oxford, và tuy vỉa hè đông
chật người đi sắm hàng trễ nay vội vã ra về cùng nhân viên cửa hàng vừa đóng cửa
tan việc, chúng tôi đi không bị cản trở chi. Như lúc trước tôi cảm thấy có sự
chạm phớt thoáng qua mỗi lần tôi đi xuyên qua một thể xác, và khó mà không lên
tiếng xin lỗi. Vị thầy không thích đám đông, ông lướt trên đầu khách bộ hành
khoảng gần hai thước; chẳng mấy chốc tôi cũng làm thế và cả hai chúng tôi đáp
xuống đất trở lại ở Piccadilly Circus. Ông hỏi:
– Anh có muốn nhìn lại cảnh lần trước ta đến London, và coi
xem anh nhận diện được ai đã gặp trong nhà hàng Trocadero không ?
Tôi đồng ý và chúng tôi bước vào. Phòng ăn đầy chật với người
ta đợi bạn, với người hầu bàn lăng xăng tới lui lấy đơn gọi món ăn và mang thức
ăn ra cho khách. Tôi không thấy ai quen ở đó cũng không thấy bóng dáng của
Charles hay Roy Chapman. Tôi tự hỏi anh chàng sau này có chán chưa việc gọi những
bữa ăn rượu thịt ê hề mà không phải trả tiền, nhưng tôi không lên tiếng. Vị thầy
ra dấu gọi và tôi hiểu là ông muốn lên lầu. Tôi đi theo không thắc mắc gì cả,
chẳng bao lâu chúng tôi đến một hành lang có nhiều cửa phòng dọc hai bên. Ông
vào một phòng hoá ra là phòng ngủ bỏ trống. Tự nhiên là hai chúng tôi lướt qua
cửa mà vào không cần chìa khóa.
– Bây giờ, ông nói, ta làm việc đây. Tôi đến phòng này để
chúng ta được yên tĩnh, vì tôi muốn anh biết rằng việc đi từ cảnh thấp nhất lên
cảnh ít đậm đặc hơn là chuyện rất giản dị, chỉ cần có ý chí một chút là nó diễn
ra ngay. Tôi muốn anh nắm lấy tay tôi và có ý muốn làm điều tôi làm. Anh sẽ
không cảm biết gì hết nhưng sẽ thấy rằng khung cảnh chung quanh từ từ thay đổi.
Tường phòng có vẻ bao bọc chúng ta ở đây sẽ dường như tan biến, bàn ghế anh thấy
quanh đây sẽ chậm chạp nhạt nhòa dần biến thành sương khói, trong khi đó anh phải
giữ cho trí bình lặng để cái trí của tôi chế ngự anh. Chuyện gì xẩy ra cũng đừng
sợ hãi vì nếu kinh hoảng thì anh sẽ tỉnh giấc ngay ở Colombo. Nào, anh sẵn sàng
chưa?
Tôi đáp rồi và không thấy sợ hãi chi hết mà chỉ thấy hứng
thú. Tôi nắm chặt bàn tay của ông và cố hết sức mình để ý chí của ông kiểm soát
tôi, tường phòng gần như lập tức hóa mờ đi thành hư ảo, bàn ghế cũng vậy, và kể
thì lâu nhưng mọi việc diễn ra rất mau, chúng tôi thấy mình đứng ngoài trời giữa
cánh đồng nhỏ, xa xa trông giống như có ngôi làng tiêu biểu của Anh.
– Nào anh hãy nghe đây, ông nói, anh sẽ nghe rất rõ tiếng rì rầm
từ đằng xa. Đó là âm thanh rộn rịp huyên náo của thành phố London, anh nghe được
vì anh chỉ ở cảnh hay bầu ngay bên trên cảnh vừa rồi mà thôi, cái là phản ảnh của
cõi trung giới của London hồng trần mà anh biết rõ. Đây là cảnh thứ hai của cõi
trung giới, và anh thấy ngay là nó bớt đi rất nhiều nét vật chất so với cảnh đậm
đặc nhất, nơi mà anh bước qua ngay sau khi chết. Ta hãy đi quanh một chút để
anh hiểu tôi muốn nói gì.
Chúng tôi cất bước, lại bay nhẹ trên không cách mặt đất chừng
một thước cho tới khi tới ngôi làng mà tôi thấy từ xa. Nó rất giống ngôi làng
bình thường vì có mấy cửa hàng, hai rạp chiếu bóng, một khách sạn sang trọng thấy
quá lớn so với tầm vóc của làng, và ở ngoài bìa làng có ít nhất ba tòa nhà lớn
rõ ràng là các nhà thờ. Chung quanh làng và kéo dài ra xa tôi thấy nhiều ngôi
nhà tuyệt đẹp. Cái to, cái nhỏ nhưng cái nào cũng có vườn hoa đầy mầu sắc bao
quanh, trong đó có đủ loại hoa nở rộ.
Tôi thấy cả đàn ông, lẫn đàn bà đang làm vườn, nhưng hiển
nhiên họ làm là để vui chứ không vì bắt buộc phải làm. Nhiều giống chó khác
nhau chạy tung tăng trong sân cỏ, đi ngang qua đó chúng tôi nghe loáng thoáng
tiếng trẻ con. Cái khác biệt giữa nơi đây và nhà tương tự ở cõi trần là không
thấy có nhà để xe, tôi để ý là không có xe hơi trên đường. Sự việc được giải
thích là không cần có phương tiện di chuyển, vì người ta đi từ nơi nầy sang nơi
kia bằng những cách dễ dàng hơn, tức chỉ cần có ý trong đầu muốn đi đâu thì lập
tức họ lướt nhẹ lên không tới nơi muốn đến.
Tôi hỏi tại sao có cửa hàng khi người ta không cần tiền, thì
được cho hay là ai cảm thấy hạnh phúc ở chốn này thích sống cảnh giống với đời
lý tưởng mà họ luôn tưởng tượng lúc dưới thế. Vị thầy nói:
– Có người dùng tiền, họ tạo ra bằng óc tưởng tượng rồi mua thực
phẩm, rồi nấu nướng và cũng ăn như thật tuy tất cả đều là chuyện tưởng tượng,
vì họ muốn thế.
Tôi hỏi.
– Nhưng tất nhiên ta không cần có tiệm bán hàng khi chỉ cần
nghĩ mình muốn gì là tạo ra ngay trong nhà vật mà ta muốn có ?
Ông đáp:
– Những cửa hàng này có là do trí tưởng tượng của dân cư ở
đây, không cái nào có thật và người bán trong tiệm cũng không có thật. Một khi
dân cư nghĩ chuyện gì nó lập tức biến thành sự vật ở cảnh huyễn mộng này. Cửa
hàng đều là một phần của óc tưởng tượng cùng với tạp hóa bán trong đó, nhưng
bao lâu mà người ta muốn có tiệm gần nhà thì họ có chúng, vì họ tưởng tượng ra
chúng.
Ông nói tiếp:
– Nhà thờ cũng vậy. Người ta thích tiếp tục thờ phượng dù rằng
sau khi chết, họ có thể khám phá là nhiều chuyện mà giáo sĩ đoan quyết khi xưa,
nay không hoàn toàn đúng nữa. Dân cư cõi này tạo ra nhà thờ, chùa miếu và mục
sư, linh mục, tăng sĩ đã qua đời tiếp tục làm việc của họ, thu hút tín đồ lại với
họ y như lúc ở cõi trần.
Xi nê cũng rất được ưa chuộng, nhưng trong khi cảnh thứ nhất
có biết bao phim kể không hết thì cảnh thứ hai không giống thế. Ở đây rạp chiếu
phim không phải là thể vía của rạp ở cõi trần, mà là hình tư tưởng của dân cư
thường trú nơi đây. Ta luôn luôn có những nhà sản xuất phim đã chết, hay nhà
làm phim tài tử, sáng tạo ra phim mới theo óc tưởng tượng của họ, và hình tư tưởng
những phim ấy hiện lên màn ảnh cho mọi người cùng xem. Các phim đó hay hơn phim
làm ở cõi trần hay ở cảnh thứ nhất cõi trung giới về nhiều mặt, vì với điều kiện
ở đây nhà sản xuất có thể cho óc tưởng tượng hoạt động thả dàn. Họ không lo lắng
đến chi phí cuốn phim.
Kịch nghệ cũng rất phổ thông ở cảnh thứ hai, ai thích đóng kịch
tài tử thường cùng với diễn viên chuyên nghiệp dựng hết vở kịch này tới vở kịch
kia cho bạn bè thân hữu xem, và họ có thể làm vậy thật dễ bởi có được y trang
thích hợp, phông cảnh hay dàn nhạc là việc không khó. Chỉ cần tưởng tượng là tạo
ra được và không tốn một xu.
Có người vẫn còn thích sống trong khách sạn. Chắc đó là người
luôn luôn cho rằng ở trong khách sạn sang trọng đắt tiền lúc sống họ không thể ở
được là chuyện rất tuyệt, nay họ có thể sống trong đó. Ấy là lý do tại sao
khách sạn trông quá lớn so với tầm cỡ của làng. Khách sạn như vậy không thể hiện
hữu trong ngôi làng bình thường dưới thế, nhưng ở đây nó không cần sinh lời.
Người ta ở trong khách sạn và có mọi dịch vụ, chăm sóc chỉ bằng cách tưởng tượng,
nên họ được hạnh phúc trong một thời gian.
Tôi hỏi:
– Nhưng chắc rồi sau một lúc mọi chuyện này sẽ hóa nhàm chán
chứ ?
– Phải rồi, nó sẽ đi tới việc đó, ông đáp, khi ấy con người đi
tìm chuyện khác làm họ thoả mãn hơn trong đời như anh sẽ thấy về sau. Vì khi ao
ước nào đó mất đi họ có thể chuyển sang ao ước điều khác và đạt được nó. Nhiều
người hoàn toàn hạnh phúc với cảnh sống thiên đàng ở đây, nhất là những ai có đời
không may dưới thế. Người như vậy thường dành 90% quãng đời của họ ở cõi trung
giới sống trong khung cảnh này, nơi họ có bè bạn, chó mèo, nhà cửa đẹp đẽ với
vườn tược làm họ mãn nguyện. Họ chỉ đi sang cõi trí khi chân nhân của họ thúc đẩy
kêu đi, vì chân nhân muốn tiến bước trên đường Tiến Hoá.
Vị hướng dẫn nay kêu tôi nắm lấy tay ông lần nữa và muốn như
ông, là đi từ cảnh thứ hai sang cảnh thứ ba. Tôi làm y như lời dặn , lập tức khung
cảnh chung quanh hai chúng tôi bắt đầu mờ dần và từ từ nhường chỗ cho cảnh mới.
Cảnh trí nay khác lạ hẳn, chúng tôi đứng ở khoảng trống ngoài trời làm như có
hàng chục cánh rừng thưa bao bọc. Nếu bạn tưởng tượng ra một công viên khổng lồ
có cây cao bóng cả khắp nơi, vườn cỏ, gò đất xen lẫn với lùm cây thì nó giống
như chỗ này. Dưới trần không có chỗ nào giống như nơi đây, nhưng tôi nghĩ là nếu
nhìn từ trên xuống thì có thể trọn cảnh trông giống như rừng Sherwood mênh
mông. Những khoảng vườn trống thì to nhỏ thay đổi, rộng từ hơn một mẫu tây (một
hectare 10.000m2) cho tới 15 mẫu, rất thơ mộng vì đâu đâu cũng có bụi hoa, và
chỗ cỏ mọc xanh rì có hoa thuỷ tiên với
hoa lưu ly lấm tấm nở rộ. Mới thoạt nhìn thì không có nhà nào, nhưng về sau tôi
thấy mấy toà nhà rất lạ, rất to, trông giống như dinh thự của nhà quí tộc hồi
xưa ở Anh.
Chúng tôi lướt đi và tôi thấy ở những khoảng đất trống vừa
nói có nhiều nhóm tụ họp. Lại gần một nhóm như thế, tôi thấy có khoảng trăm người
đang theo dõi một hoạ sĩ vẽ tranh trên khung vải, kích thước khoảng 17 x 10 m.
Thấy ngay là họ mê mẩn với hình đang ngắm vì không ai để ý tới việc có hai
chúng tôi ghé vào nhóm. Hoạ sĩ không dùng cọ mà trong tay có một thanh dài giống
như cần câu cá, khi ông chỉ thanh này vào những nơi khác nhau trên khung vải
thì hình hiện ra, ban đầu đường nét thô sơ rồi chi tiết rõ dần.
Trong lúc vẽ họa sĩ lên tiếng giải thích hình ảnh đang sáng tạo,
ông tạo nên thật rõ ràng ấn tượng mà ông muốn người đang đứng xem cảm biết, và
có lần ông bôi bỏ một khoảnh của bức họa, một phần của tranh bị xóa mất, và giải
thích rằng hình tư tưởng trước của ông chưa có đủ chi tiết để cho ra tác động
muốn có. Họa sĩ dường như tập trung tư tưởng nữa, cái thanh vung lên xuống, đi
ngang và lập tức một chi tiết mới thành hình, hòa hợp với những phần khác của
tranh. Việc vẽ lại này nhấn mạnh ngay điểm mà ông vừa trình bầy một phút trước.
Tôi không hiểu về mấy lời mà họa sĩ giảng giải, vì nó dùng
danh từ kỹ thuật chỉ có nghệ sĩ trong ngành mới thấu đáo. Nghe nói ông là một
trong những nhà danh họa ngày xưa. Vị hướng dẫn cho hay ai là họa sĩ khi qua đời
sẽ tiếp tục sáng tác, vì động cơ thúc đẩy họ làm việc lúc sống sẽ tiếp tục sau
khi chết. Họ không cần dùng cọ và sơn ở cảnh giới này, vì có thể dùng mầu biểu
lộ ý mình, chỉ bằng cách phóng ra tư tưởng. Chất liệu mềm dẻo của cõi trung giới
đáp ứng ngay với hình tư tưởng, bức tranh hiện ra như có phép thuật khi tư tưởng
nẩy sinh.
Tuy khung vải xem ra rất lớn so với những bức tranh thấy
trong các phòng trưng bầy họa phẩm ở cõi trần, nó không kềnh càng khó vẽ ở cõi
trung giới, bởi chỉ cần tập trung tư tưởng vào một phần của khung vải là hình
trong trí họa sĩ hiện ra trên khung. Tôi không sao diễn tả được mầu sắc lộng lẫy
vẽ nên tranh, vì chúng ta không có chữ để gọi tên bao nhiêu sắc đậm nhạt của mầu
được dùng. Khi nói rằng tôi thấy ít nhất ba mươi sắc khác nhau của một mầu, mà
nếu phải tả một sắc nào trong số đó tôi chỉ có một chữ "đỏ" để dùng,
thì bạn hiểu là tôi chỉ có thể tả lại rất khiếm khuyết hình mà tôi nhìn ngắm thật
rõ ràng ở đây.
Vị thầy Ấn Độ giải thích là nhiều nhà danh họa ngày xưa mà vẫn
còn ở cõi trung giới, sống ở bầu này và dùng cả đời để vẽ lên tranh những ý tưởng
đầy ắp trong trí họ. Cùng lúc ấy họ chỉ dạy cho ai chịu lắng nghe, quan sát,
phương pháp tạo nên hình. Tôi nghe chỉ cần vài giờ là họ tạo được một trong những
bức tranh khổng lồ, và chuyện thường thấy là khi họa sĩ xong bức này thì lập tức
bắt tay vẽ bức khác. Tôi hỏi:
– Nhưng một khi họa sĩ không còn chú tâm vào khung vải nữa thì
hình ảnh trong bức tranh đầu có mờ đi không ?
Ông trả lời:
– Không, nó vẫn y như anh thấy lúc này bao lâu còn có ai nhìn
vào tranh. Sự việc là khi bức tranh được tạo bằng chất liệu cõi trung giới thì
nó ngưng đọng cho mọi người xem, bao lâu còn một tư tưởng trụ vào nó. Khi mọi
tư tưởng rút khỏi tranh thì nó hoàn toàn tan rã trở về bầu không khí cõi trung
giới và mất hẳn, hay cho tới khi một tư tưởng mới tạo nó trở lại thành bức
tranh mới.
Tôi đứng xem cho tới khi tranh hoàn tất, mê mẩn với tài khéo
léo của nghệ sĩ sáng tạo và kết quả đạt thành. Khi họa sĩ đi ra xa và trò chuyện
với vài người trong đám đông ngồi quanh xem ông vẽ, tôi thấy mấy người khác
đích thị là học viên mỹ thuật, bắt đầu vẽ tương tự mô phỏng theo bức họa chính.
Tôi vẫn đứng nhìn và thấy ngay sự khác biệt lớn lao giữa tranh của họ và của họa
sư. Việc được giải thích là có sự khác biệt một trời một vực như thế vì học
viên thiếu hiểu biết so với sự hiểu biết của họa sư. Học viên không thể biểu lộ
bằng tư tưởng rõ ràng trong sáng điều họ muốn hiện lên khung vải, thế nên kết
quả rất là thiếu sót, vụng dại.
Hiển nhiên khung vải
chỉ trưng ra hình mà họ có thể biểu lộ bằng tư tưởng và tôi thấy rất rõ tại sao
như thế. Ngay cả trong các phòng triển lãm tranh ở cõi trần, nếu nhìn vào một bức tranh thường khi ta có thể cảm nhận đôi
chút về điều mà họ sĩ gắng công diễn tả. Cảm nhận ấy được nhấn mạnh ngàn lần
hơn nơi cõi trung giới, và nhìn vào bức họa tuyệt mỹ này tôi hiểu ngay không có
gì nghi ngờ điều họa sĩ muốn thể hiện bằng hình và mầu sắc.
Chúng tôi đi khỏi nơi ấy và gặp nhiều nhóm tụ quanh những người
làm việc tương tự, nhưng bởi vùng quê này có hơi nhấp nhô lên xuống nên khó mà
thấy hai nhóm cùng một lúc. Trong một thung lũng với dòng suối trôi lững lờ, có
nhóm ngồi bên bờ suối dường như không làm gì cả, tuy nhiên khi đến gần tôi thấy
nhóm này không nhìn ngắm họa sĩ làm việc, mà đang phát ra âm thanh giống như một
hòa tấu khúc đẹp đẽ do một trong những giàn nhạc nổi tiếng của thế giới trình
diễn. Chỉ khi đến thật gần nhóm tôi mới nghe được, và khi ấy tôi thấy không khí
chung quanh tràn đầy loại âm nhạc tuyệt vời nhất mà tôi chưa từng được nghe. Ở
giữa nhóm là một người đàn ông có gương mặt xem ra quen thuộc, nhưng tôi biết
là mình chưa hề gặp ông ngoài đời. Tôi hỏi vị hướng dẫn về người này thì ông
nói nhỏ:
– Đó là nhà soạn nhạc tài danh Johann Strauss.
Lúc đó nhạc sư đang trưng ra cách diễn tả âm thanh của nước
chảy róc rách bằng tiếng nhạc, tôi nhớ ra ông là người soạn bản nhạc 'Dòng Sông
Xanh, Blue Danube', và tiếng nhạc nơi đây dường như có nhiều âm hưởng của bản
valse tưng bừng ấy, mà còn tươi vui hơn nữa.
Trong khi đứng sững mê mẩn nghe, tôi thấy bên kia bờ suối có
những hình người như sương khói mà về mặt nào đó là một phần của tấu khúc đầy
thi vị tôi đã nghe. Vị thầy Ấn Độ bảo tôi quan sát kỹ những người mới nầy, ông
nói:
– Họ thuộc về loài thiên thần, theo đường tiến hóa song song với
con người như tôi đã giải thích với anh.
– Nhưng họ đang làm gì vậy ? tôi hỏi, và sao thấy họ khác với
đám đông ở bờ suối bên này phía chúng ta.
Tôi được dạy là trông họ khác vì quả thực họ dị biệt với loài
người. Thể của họ thanh nhẹ, mờ ảo hơn; họ thuộc đường tiến hóa khác nên cơ thể
khác với ta, dù làm bằng chất liệu cõi tình cảm nó vẫn ít cô đặc hơn với thể
tình cảm của người. Đây là những thiên thần âm nhạc có sự sống của họ thể hiện
bằng âm thanh, và họ đang trợ giúp nhà soạn nhạc ngồi bờ suối bên này biểu lộ ý
mình đúng như ông muốn. Tôi không thể nói được là họ giúp như thế nào vì họ
không hề thốt lời, nhưng có vẻ như thiên thần tập trung vào nhạc sư và qua tư
tưởng của họ, cho phép nhạc sư biểu lộ nhiều chi tiết hơn điều ông nỗ lực sáng
tạo bằng âm thanh. Âm lượng có đó và mỗi nốt được nghe rõ ràng, nhưng tôi thấy
là khi đi ra xa khỏi chừng 50 thước thì không còn nghe gì cả.
Khó mà diễn tả cho dễ hiểu bằng lời các nhân vật thuộc thế giới
thiên thần. Hình dạng họ tuyệt đẹp nhưng khi di động thì giống như họ bốc hơi
nhòa ra, khi đứng yên như cũ thì hình dạng có đường nét rõ ràng trở lại. Tôi
nghĩ cách diễn tả hay nhất là nói rằng thân thể họ giống như sương khói, chỉ tụ
thành hình khi thiên thần đứng yên một chút. Chúng tôi đi sang bờ bên kia nhưng
khi tiến lại gần thì có vẻ như thiên thần lướt tránh ra xa, tựa như thú vật
nhút nhát. Họ không sợ hãi chúng tôi nhưng tuyệt không có ý mời gọi chúng tôi
tiếp xúc, và tôi cảm nhận là nếu chúng tôi muốn đến gần họ với ý định trò chuyện
(bằng cách nào thì lúc ấy tôi không biết), hẳn họ sẽ biến mất trong không. Vị
thầy Ấn Độ nói rằng cảm nghĩ ấy khá đúng.
Ông ra dấu cho tôi theo ông đi tiếp. Chẳng mấy chốc tôi thấy
là ông hướng về một trong những toà nhà đồ sộ mà tôi nghĩ như là dinh thự của một
trang trại. Tiến đến gần tôi thấy kiến trúc rất thanh tú, có cửa kính mở ra
hàng hiên nhìn bao quát vùng đồng quê chung quanh. Sân cỏ rộng từ tòa nhà đứng
trên đỉnh đồi chạy thoai thoải dốc xuống, những khóm cây trổ hoa bao quanh nhà
và nếu nhìn kỹ, ta có thể thấy biển ở ngoài xa cách đây chừng 15 cây số. Chỗ
này thật nên thơ, tôi tự hỏi ai sống ở đây và để làm gì. Chúng tôi đáp xuống đất
trong sân trước và đi qua cánh cửa rộng vào gian phòng thênh thang, trần thiết
giống như tôi nghĩ nhưng với một khác biệt đáng nói, đó là trong phòng có cây
nhỏ và bụi hoa, chính yếu là hoa hồng đang nở rộ với rễ mọc xuyên qua sàn nhà.
Cảnh vật không có gì là giả tạo mà thật sự ta thấy mình đang đứng ở vườn trong
nhà, rất hài hòa đẹp mắt.
Không thấy có ai chung quanh và không có âm thanh nào cho biết
là có người, nhưng vị hướng dẫn lập tức đưa tôi vào một cánh cửa thông với gian
phòng; khi cửa mở tôi nghe có tiếng nhạc vẳng đến. Chỉ có một người trong phòng
và ông đang dạo nhạc trên cây đại dương cầm, cách thức cho thấy ngay ông chẳng
phải là nhạc sĩ tầm thường. Ông không để ý gì đến chúng tôi mà tiếp tục chơi
đàn và chúng tôi lắng nghe, mê say với tài nghệ của nhạc sĩ trên cây đàn. Có
vài chiếc ghế dựa đầy vẻ mời mọc và chúng tôi ngồi xuống, nghe nhạc sĩ tấu nhạc
khoảng hơn một khắc đồng hồ. Sau một lúc tôi thấy bản nhạc tương tự như bản
Préludes của Chopin, và tôi thì thầm hỏi vị thầy hướng dẫn rằng nhạc sĩ là ai.
Ông đáp:
– Anh không nhận ra sao, đó là nhà soạn nhạc nổi tiếng Chopin,
ông vẫn tiếp tục dùng âm nhạc để biểu lộ tâm hồn cao cả của mình giống như ông
thường làm lúc còn sống. Anh để ý thấy là ông không có vẻ ốm yếu nơi đây, vì hồi
còn ở cõi trần nhạc sĩ bị nhiều bệnh và trong phần lớn kiếp đó ông không phải
là người mạnh khỏe. Bây giờ mọi việc đều thay đổi, ở đây không còn sự mệt nhọc
quấy nhiễu ông, và ông sáng tác càng ngày càng nhiều âm nhạc đẹp đẽ mà thỉnh
thoảng ông cho các nhạc sĩ khác thưởng thức.
"Ở cảnh này lúc nào cũng có hòa nhạc thế nên dự những buổi
ấy không có gì là khó khăn, nếu anh thực sự ưa thích và có thể thưởng thức vẻ mỹ
lệ trong thiên nhiên mà nhạc sĩ gắng công diễn tả bằng âm thanh."
Tôi nhìn chăm chú nhạc sĩ hơn, thấy không có nét nào giống với
vị đại nhạc sĩ mà tôi đã xem hình, nhưng chắc ký ức của tôi mơ hồ về những đại
nhạc sĩ và có lẽ tôi không nhìn hình họ kỹ cho lắm. Lát sau nhạc sĩ ngưng chơi
đàn và quay sang chúng tôi, không tỏ vẻ gì là bị phá rối hay bực bội vì sự hiện
diện của hai chúng tôi. Ông cho rằng chúng tôi là người yêu nhạc nên giải thích
việc ông đang nỗ lực diễn tả, và tuy ông dùng vài chữ kỹ thuật tôi vẫn hết sức
hứng thú với lời ông nói. Nhạc sĩ nhấn mạnh rằng theo ý của ông, mỗi âm thanh
là sự diễn tả của hoặc mầu sắc hoặc sự chuyển động. Các hợp âm, hòa âm là bức
tranh bằng âm thanh của khu vườn diễm lệ, và khi có giai điệu thì người ta phải
có thể lập tức 'cảm' ngay một dòng suối trôi êm nhẹ, thí dụ giữa hai khu vườn với
cây hoa được xếp đặt tuyệt hảo, và ráng thấy bức hình mà nhạc sĩ ra công diễn tả.
Tôi thường tự cho mình có khiếu về âm nhạc, nhưng nhận ra
ngay là mình hiểu về nghệ thuật này ít biết chừng nào, và hứa với lòng rằng sau
khi qua đời tôi sẽ là một trong những người miệt mài theo đuổi việc học nhạc.
Điều không may là ở cuộc sống dưới trần, những đại nhạc sư này trong đa số trường
hợp nằm ngoài tầm tay và cơ hội của người bình thường phải đi làm mưu sinh.
Chúng tôi rời y như khi đến không chào hỏi cáo biệt ai, và
lúc chúng tôi đi ra thì Chopin quay trở lại dương cầm của ông bắt đầu chơi tiếp.
Khi đóng cửa và bước ra hành lang, không còn âm thanh nào vẳng qua cánh cửa. Chỉ
có tiếng chim, nhiều loại lông cánh đủ mầu bay lượn đó đây không những chỉ
trong vườn mà cả trong nhà. Vị thầy nói rằng dinh thự rộng lớn này là một trong
những Trường Mỹ Thuật lớn ở cảnh thứ ba cõi tình cảm, và hằng trăm cư dân thường
trú nơi đây dành phần lớn thì giờ của họ để học nghệ thuật mà họ đặc biệt ưa
chuộng. Tôi nghe là luôn luôn có sẵn lớp chỉ dẫn, vì tất cả những bậc sư trong
ngành đều sẵn lòng dạy ai hăng hái muốn học, và cơ hội lúc nào cũng có đó vì
không còn ngày hay đêm hay sự mệt nhọc làm bận trí người, nhưng tôi hỏi:
– Tuy nhiên người ta đâu thể học và thực hành sáng trưa chiều
tối liên tục, tuần này sang tuần kia, tháng này sang tháng nọ, năm này rồi năm
sau không ngừng nghỉ ?
– Có chứ, và như tôi đã nói với anh, họ không thấy mệt hay thấy
ngày giờ dài lê thê, trôi qua nặng nhọc khi họ yêu thích và mê say với việc họ
làm. Nếu phân tích phản ứng của anh ở cõi trần, anh sẽ thấy thời giờ không hề
dài dằng dặc khi anh làm chuyện muốn làm.Thường thường người ta mệt nhọc và phải
ngưng lại nhưng ở đây không phải thế, vì không ai biết mệt và cũng vì không có
ngày giờ theo như ta hiểu ở cõi trần, anh không phải về nhà ăn cơm, không có vợ
con chờ ở nhà và không có trách nhiệm hay bổn phận chi hết. Những giới hạn đó
không có ở cõi tình cảm nên con người làm việc hay nghỉ ngơi theo ý họ muốn,
không phải bận tâm là có được bao nhiêu thì giờ dành cho chuyện học hay giải
trí này.
Rồi vị thầy hướng dẫn bảo ông có chút việc phải làm, nhã nhặn
xin phép được rời trong một lúc ngắn, ông nói:
– Anh cứ đi chơi nơi nào anh muốn, không ai ngăn trở chi và
tôi đề nghị anh thả bộ vào thăm các gian phòng khác nhau, vì tôi có thể bảo đảm
là anh sẽ không gặp cấm cản nào. Tòa nhà này rất giống những dinh thự ở nơi
đây, đáng bỏ công đi thăm cho biết thêm chuyện gì xẩy ra tại các chỗ này. Tôi sẽ
trở lại với anh khi xong việc riêng của tôi, và tôi chắc là anh sẽ không thấy
chán trong lúc tôi vắng mặt.
Nhìn từ bên ngoài tôi đã thấy tòa nhà cao ít nhất là ba tầng,
nên tôi quyết định sẽ đi xem sơ qua một chút như ông đề nghị. Để bắt đầu tôi
vào một số phòng ở tầng dưới, trong một phòng tôi thấy có điêu khắc gia và lớp
đầy học trò, ông đang giải thích làm sao để tạc một đường cong đặc biệt. Tôi đứng
nghe giảng một lát, vài học viên không nói năng gì mà mỉm cười với tôi trong
lúc tôi đang nghe, hiển nhiên muốn nói không phản đối gì về sự hiện diện của
tôi. Ở phòng khác một ban tứ tấu đang dượt, phòng khác một nhạc sĩ vĩ cầm chơi
tới chơi lui một khúc nhạc với bản nhạc trên giá trước mặt anh. Khung cảnh rất
giống như học viện mà tôi thấy ở cõi trần, chỉ có cái khác biệt lớn lao là
không có ai hối thúc hay đòi hỏi gì, thấy có đủ mọi ngành nghệ thuật, và cũng
thấy rất rõ là những người tham dự tuy học tập rất mực chăm chú nhưng tỏ ra thật
hân hoan, không căng thẳng chút nào như các sinh viên mà tôi gặp lần chót ở Viện
Hoàng Gia Âm Nhạc Anh.
Hồi sau tôi vơ vẩn đi lên lầu và gặp chuyện ngạc nhiên đầy
thú vị. Khi mở một cánh cửa (tôi thích thú ghi nhận là ở nơi đây người ta mở cửa
chứ không đi xuyên qua nó, giống như đi xuyên qua cửa ở cõi trần) và đi vào
trong các phòng của tầng này, tôi thấy một thiếu nữ ngồi trên ghế dựa gần cây đại
dương cầm mở nắp. Nàng cầm trên tay một nhạc phổ và đang chăm chú đọc. Lúc tôi
bước vào nàng ngẩng lên và tức khắc tôi nhận ra đó là Daphne Hillier, tôi gặp
nàng lần chót tại Anh năm 1935 ở một hội quán chơi golf.
Đối thủ của tôi hôm ấy quen thân với nàng, anh giới thiệu
chúng tôi với nhau và chẳng bao lâu hai chúng tôi trò chuyện vui vẻ. Tôi gặp
nàng nhiều lần trong kỳ nghỉ phép ấy và hai chúng tôi trở nên rất thân thiết với
nhau. Mấy lần tôi muốn ngỏ lời cầu hôn vì nghĩ là mình yêu nàng nhưng chẳng biết
sao tôi không nói. Phần vì tôi nghĩ mình chưa đủ tài chánh để thành hôn, và tôi
cũng muốn lên tới bậc cao nhất trong ngành trước khi cưới vợ.
Tôi quay về Sri Lanka và trong hai năm chúng tôi trao đổi thư
từ thường xuyên, rồi chuyện chấm dứt với việc nàng bị sưng phổi và tôi thương
tiếc vô cùng khi mẹ nàng viết thư cho hay nàng đã mất. Tôi đáp lại với thư chia
buồn rồi dần dần mất liên lạc với gia đình nàng. Nay Daphne ngồi trước mặt tôi,
trông rất sống động và dáng vẻ y như khi tôi gặp nàng lần cuối mà lại có nét
tươi vui hơn trước, quả thật trọn gương mặt nàng sáng rỡ hân hoan thư thái, và
tôi hãnh diện thầm rằng một phần của niềm vui là do nàng gặp lại tôi.
– Daphne em yêu, có thật em đấy không ?
– Vâng, chính em đây, nàng nói. Nhưng anh làm gì ở đây ? Theo
em biết anh chưa rời cõi trần mà, vậy chuyện gì mang anh tới đây ?
Tôi ráng giải thích đôi điều về việc đã xảy ra và tại sao tôi
ở đây cho nàng nghe. Nàng bảo rất ngạc nhiên khi gặp tôi, vì dù có nhiều người
tiến hóa đi vơ vẩn nơi cõi tình cảm trong lúc cơ thể họ say ngủ để lấy lại sức
lực cho hôm sau, nhưng hiếm người còn sống lên tới cảnh thứ ba của cõi trung giới.
Trong đa số trường hợp họ không biết cách lên nơi đây, và rất ít người biết có
những cảnh khác nhau. Nàng nói tiếp.
– Nhưng anh yêu, bây giờ tới đây thì anh có thể trở lại nữa và
đôi ta phải gặp nhau nhiều lần về sau, có nhiều điều em có thể chỉ cho anh. Tuy
anh không hề cầu hôn lúc còn sống, nhưng em biết anh yêu quí em và em cũng yêu
quí anh.
Khi đó tôi ý thức rằng nàng gọi tôi là 'Anh yêu, Darling' thì
không có gì lạ cả, vì hồi xưa tôi thường gọi nàng là 'Em yêu' và nàng gọi tôi lại
tương tự như thế. Tuy đó là chuyện mấy năm trước nhưng nó trở lại trong chớp mắt
và tôi lại cảm thấy bị nàng thu hút, có sự rung động thích thú ở cạnh nàng y
như tôi cảm biết trong những ngày tháng xa xưa. Tôi nói:
– Thật tuyệt quá, mà nếu anh không thường gặp em về sau thì chắc
chắn không phải tại anh. Không chừng em có thể giúp anh trong việc này vì anh
không rõ là tự mình có thể tới đây được hay không, cho dù lần này chuyện xem ra
thật dễ dàng nhờ có người hướng dẫn.
Tôi kể cho nàng hay về những nỗ lực của tôi trong thời gian vừa
qua, và làm sao ngoại trừ cuộc đi chơi sang cõi tình cảm lần đầu, tôi vẫn chưa
thể hồi nhớ mọi chuyện tuy đã cố hết sức.
– Mai sau anh rất muốn nhớ lại chúng ta đã làm gì và nói gì.
Không biết anh sẽ làm được chăng.
Tôi vừa nói mấy lời này thì vị thầy Ấn Độ bước vào phòng, ông
nói:
– Vậy là hai bạn đã gặp lại nhau, tôi nghĩ chuyện sẽ xẩy ra
như thế nếu tôi để cho anh có đủ thì giờ, mà anh gặp lại Daphne là chuyện hay lắm,
vì cô giúp anh được rất nhiều và do tình thương hai bạn có với nhau, nhiều chuyện
khi trước khó khăn nay trở thành khả hữu. Một là anh sẽ có mối liên lạc rõ ràng
ở cảnh này, nó là cái anh có thể tập trung tư tưởng ngay vừa khi anh ra khỏi
thân xác lúc thiếp ngủ. Việc anh nghĩ đến Daphne sẽ lập tức khiến cô biết vì tư
tưởng là vật rất mạnh, và tư tưởng được tập trung không bị vật chất khác nhau của
những cảnh ngăn trở, thế nên Daphne – nếu cô cho phép tôi gọi cô như vậy – sẽ
biết ngay khi anh chú tâm vào cô, y như thể người ta biết anh muốn nói chuyện với
họ khi anh gọi điện thoại.
"Daphne không dễ gì gặp anh khi anh ra khỏi thể xác và ở
cảnh thấp nhất hay là cảnh đầu tiên của cõi tình cảm, nhưng cô có thể là trụ
liên lạc cho anh đi từ cảnh đó lên cảnh thứ ba nơi anh hiện có mặt, theo cùng
cách thức như nắm tay tôi là cái trụ cho anh, khi tôi bảo là anh dùng ý chí đi
từ cảnh thấp nhất lên cảnh thứ hai, và sau đó cảnh thứ hai lên thứ ba. Anh sẽ
thấy là khi sử dụng ý chí của mình, cộng thêm với việc có người tiếp xúc biết
đường đi nước bước thì không có khó khăn chi cả. Ông nói tiếp:
– Anh thấy chăng, anh chưa biết mấy về luật Karma, cái luật
đóng vai trò rất lớn trong việc khiến anh có được tiếp xúc và mang lại cơ hội
vô cùng quan trọng cho việc tiến hóa của anh. Luật Karma hay nhân quả quản trị
từng lời nói, tư tưởng và hành động của anh ở cõi trần. Việc anh yêu quí Daphne
ở nơi ấy và cô đáp trả tình thương này, dù không dẫn tới kết quả là thành hôn
như cuộc đời gọi, có nghĩa là hai người có dây kết nối với nhau mà sớm hay muộn
cả hai phải giải quyết.
"Có nhiều chuyện đáng nói khi người ta biết yêu, vì khi ở
trong tâm trạng ấy hoặc tưởng rằng mình đang yêu, con người muốn cho ra và
trong một thời gian ngắn không muốn đòi hỏi được trả lại cho cái mà họ cho ra.
Nói khác đi họ phát ra rung động cao nhất mà họ có thể làm được. Sự cho ra ấy
là nguyên do bắt buộc phát sinh hệ quả tức luật Karma tác động một cách tự
nhiên. Khi có tình thương chân thật trao đổi giữa hai người thì nó tạo nên sự hợp
tác lý tưởng cho việc tiến bộ trong bất cứ chuyện gì, vì mỗi bên chỉ muốn và sẵn
sàng giúp người kia bằng bất cứ cách nào, thế nên tôi rất mừng là hai bạn liên
lạc được với nhau và xin thú thật là tôi đã mong có việc ấy.
"Tôi không thể chủ ý mang hai bạn lại với nhau, vì làm vậy
là can thiệp vào cách luật Karma diễn ra tự nhiên như tôi đã nói. Có lẽ phần số
hai bạn là gặp nhau trở lại trong điều kiện khác biệt như vầy, và nay hai bạn tự
quyết định sẽ tận dụng ra sao cái lực đã khiến có sự tái ngộ này. Cách Thượng đế
và số mạng làm việc thật lạ lùng. Nếu Charles không bị thiệt mạng hẳn anh sẽ
không sầu não đến mức tôi được chỉ định tới gặp và giúp anh. Nay nhờ nỗ lực tìm
hiểu đôi phần về Cơ Tiến Hóa, anh đã được cho phép gặp trở lại người mà anh tưởng
là đã mất luôn, hay mất trong phần đời còn lại của anh ở cõi trần.
"Tôi không thể bảo đảm là mỗi lần hai chúng ta sang cõi
tình cảm, sáng ngày hôm sau anh sẽ luôn luôn nhớ lại hết mọi kinh nghiệm, vì việc
phát triển ký ức trọn vẹn để ghi nhận tất cả những gì anh làm trong lúc rời thể
xác, đòi hỏi rất nhiều thực tập mà lúc này anh chỉ mới là học viên rất trẻ. Tôi
sẽ giúp anh nhớ lại điều anh thấy tối nay, và khi ghi lại chuyện gì xảy ra
trong đêm, anh sẽ ý thức việc não bộ nhớ lại kết quả của cuộc du hành là quan
trọng tới bực nào. Có thể anh sẽ gắng công hơn trong tương lai, nó sẽ dần dần
cho phép anh có được tâm thức liên tục là điều thiết yếu.
"Việc anh tìm được ở cõi tình cảm người mà anh yêu quí ở
cõi trần, sẽ khuyến khích anh cố gắng tận lực để vượt qua giới hạn của anh.
Daphne cũng có thể giúp anh nhiều lắm, vì đã sống ở nơi đây vài năm cô biết quyền
lực của tư tưởng, cô cũng biết chuyện gì có thể làm ở cõi tình cảm và chuyện gì
không thể làm. Nếu tiếp tục gắng sức nhớ lại việc anh làm khi rời khỏi thân xác
lúc ngủ, anh sẽ có thể có cuộc sống thứ hai, cảnh đời mà anh chỉ sống được khi
thể xác say ngủ."
Khi ấy Daphne quay sang vị thầy của tôi và nói.
– Nhưng Acharya, thầy nói tôi có thể giúp ích nhiều cho Henry,
tuy nhiên sao tôi không thể tiếp xúc với anh trước đó ? Tôi đã ráng hết sức sau
khi lên tới cảnh này, dầu vậy trong những ngày đầu khi mới lên cảnh thứ nhất của
cõi tình cảm, tôi vẫn không thể gây ấn tượng gì cho anh ấy cả.
Trước khi ông có thể đáp, tôi ngắt lời và hỏi.
– Hai vị nghe đây, hai vị có biết nhau à ? Em gọi thầy là
Acharya mà thầy chưa hề cho tôi biết tên của thầy, dù tôi đã gặp thầy nhiều lần
trong mấy ngày qua. Tên thầy là Acharya ư?
– Phải và không phải. Vị thầy Ấn Độ trả lời. Nó quả là một phần
của tên tôi, và ai tiếp xúc với tôi ở cảnh này hay gọi tôi như vậy. Tên đó dùng
được cho chuyện của chúng ta vậy anh gọi tôi như thế nếu muốn nhưng về sau anh
sẽ thấy rằng tên, hay ít nhất, họ của chúng ta trong đời không quan trọng chút
nào. Cô Daphne không thể tiếp xúc với Henry – anh có để ý rằng đây là lần đầu
tiên tôi gọi tên anh ?– là vì Henry khi ấy chưa thức tỉnh theo nghĩa tinh thần,
do đó anh không nhớ lại chuyện gì đã làm khi xuất ra khỏi thân xác, ngoài những
giấc mơ không đầu đuôi, nửa chừng lộn xộn chẳng có nghĩa lý. Thế nên lần sau
khi ra khỏi thân xác anh không có kế hoạch để định trí là mình muốn làm gì.
"Cô có nói chuyện với anh, tôi biết, nhưng như cô nói
anh không có vẻ thích thú như khi nói chuyện ở cõi trần; khi cô nghĩ là anh sẽ
nhớ lại những gì cô nói trong mấy đêm trước, anh lại tỏ ra mơ mơ màng màng
không hứng thú. Ấy là vì anh chưa thức tỉnh, cần phải có một thảm kịch lớn lao
như việc người em yêu quí của anh là Charles qua đời, mới làm anh quyết tâm đi
tìm sự sáng, muốn có hiểu biết tinh thần. Cần phải có một khủng hoảng để nhờ vậy
sinh ra ý muốn được giác ngộ, và cái gì mà con người muốn thì họ có thể đạt được
miễn là họ sẵn lòng và hăng hái tìm kiếm. Đức Chúa có nói:
Hãy gõ, cửa sẽ mở,
và
Hãy tìm, sẽ gặp
"Những lời ấy đúng từng chữ một. Nhưng chúng ta phải tiếp
tục việc làm tối nay, còn có nhiều việc tôi muốn chỉ cho anh trước giờ anh phải
quay về thể xác. Cô Daphne có muốn đi với chúng tôi ?"
Daphne nói.
– Vâng, tôi rất muốn vì tôi biết với sự hiểu biết và giúp đỡ của
thầy, tôi có thể đến những chỗ mà tôi chưa đủ sức tới theo sự hiểu biết giới hạn
của tôi.
– Trước hết hãy xem giờ, Acharya bảo tôi, coi là anh đã rời
xác bao lâu.
Tôi nhìn đồng hồ tay, thấy mặt kính đồng hồ hóa mờ mịt thật lạ
lùng. Tôi ráng nghĩ xem bây giờ là mấy giờ, mỗi lần tôi đoán thì kim đồng hồ
thay đổi hợp với ý nghĩ của tôi. Tôi đáp:
– Chịu thôi, tôi không biết, vì đồng hồ có vẻ như thay đổi giờ
theo tư tưởng phát ra trong đầu tôi.
Acharya nói tiếp:
– Đúng lắm, vì anh thấy
không anh đang nhìn không phải vào thể tình cảm của một cái đồng hồ, mà là cái
đồng hồ anh tưởng mình có trên cổ tay. Anh thường đeo đồng hồ nên anh tự động
đưa tay lên mỗi lần muốn biết giờ, sự việc anh tin là có đồng hồ ở cổ tay làm
cho một cái đồng hồ hiện ra trên cổ tay, bởi đây là cõi ảo tưởng và điều gì anh
nghĩ hiện giờ thì cho phút này thôi. Bây giờ quí vị chờ ở đây để tôi đi xem giờ
cho chắc, vì chúng ta chỉ muốn biết giờ ở nơi thể xác anh đang ngủ và khi nào
thì anh phải trở về với nó. Ta không cần quan tâm đến giờ khắc ở những nơi khác
trong trường hợp này.
Nói xong làm như ông biến mất hút trong không. Tôi chưa kịp hết
ngạc nhiên thì thầy đã trở lại đứng cạnh tôi. Ông tiếp:
– Tôi quay về thể xác của anh đang ngủ trong phòng ở Colombo,
thấy đồng hồ trên tay anh chỉ 11:30.
– Như vậy là đồng hồ
tôi đứng rồi, tôi nói. Có vẻ như chúng ta ở cõi trung giới đã mấy tiếng đồng hồ
rồi chứ không phải chỉ mới một tiếng rưỡi. Acharya giải thích:
– Anh sẽ mau lẹ khám
phá là thì giờ ở cõi tình cảm, khác với cái anh quen thuộc ở cõi trần. Quả đúng
là chỉ mới một giờ rưỡi trôi qua khi anh ra khỏi xác và chúng ta bắt đầu cuộc
du hành này. Anh sẽ hiểu thêm về sau điều tôi nói đây, khi ngày mai anh viết lại
kinh nghiệm này và ý thức mình đã làm được gì chỉ trong một giờ rưỡi ở cõi trần.
Hẳn anh đã có kinh nghiệm sau, nơi cõi trần khi anh thức dậy buổi sáng và thấy
mới 6 giờ, anh biết mình có thể ngủ thêm một tiếng nữa. Anh lăn qua bên ngủ tiếp
và mơ một giấc mơ dài nhiều tình tiết tưởng như dài trọn một ngày. Rồi choàng tỉnh
và đồng hồ chỉ là anh mới ngủ có hai mươi phút. Điều tôi vừa kể với anh là sự
thực ở cõi trung giới, anh cần nhớ rằng thời gian không có ở đây.
Chúng tôi rời phòng tập của Daphne đi trở ra hành lang, lướt
xuống cầu thang vào tiền sảnh và ra vườn. Không thấy có ai chung quanh tuy
chúng tôi đi ngang qua một người đang đi vào học viện để tiếp tục việc học của
mình, bởi thấy anh kẹp nách một cái hộp giống như hộp đựng cây sáo. Anh cười
khi chúng tôi đi ngang qua tuy không nói chi.
Acharya bảo muốn đưa chúng tôi đến nghe một buổi hoà nhạc đặc
biệt mà thiên thần sẽ tấu sâu trong rừng, ở nơi hẻo lánh của cõi trung giới chỗ
con người ít khi đến. Ông bảo đã được phép cho tôi và ông tới rồi và tin rằng
không có gì trở ngại với Daphne đi theo, nhất là khi nàng dành phần lớn thời
gian ở cõi trung giới để học nhạc. Ông giải thích là buổi hòa nhạc này sẽ khác
hẳn với tất cả những gì chúng tôi đã nghe trước đó, vì nó không phải chỉ nhắm tới
việc tạo ra âm nhạc tuyệt vời mà có mục tiêu đặc biệt là sinh ra xoáy lực, có
thể dùng để ảnh hưởng một hội nghị đặc biệt quan trọng đang diễn ra ở cõi trần
lúc bấy giờ.
Ông không nói đó là hội nghị gì nhưng hàm ý nó có liên quan đến
cuộc chiến, và quyết định đạt tới trong hội nghị sẽ có ảnh hưởng đến kết quả
sau này của thế chiến, cũng như thời điểm mà một khi thế giới ngưng chiến và
quyết định dàn xếp những dị biệt của mình, bằng sự thương thảo thay vì bằng
súng đạn. Ông giải thích rằng lực như vậy có thể tạo ra theo hai cách, một là tập
trung tư tưởng mãnh liệt và hai là qua âm thanh. Sự hòa lẫn các hợp âm sinh ra
do việc mỗi cá nhân đóng vai trò của mình trong buổi hòa tấu, tập trung rất mực
vào mục tiêu muốn đạt tới, sinh ra một xoáy lực mà khi tư tưởng chuyển đi tới địa
điểm của hội nghị, sẽ thực sự chi phối người tham dự cuộc họp đó.
Thí dụ ông đưa ra là thử xem một nhóm người mà ai nấy cũng bực
bội cáu kỉnh, có người giận dữ và ai cũng bị căng thẳng ít nhiều. Trước khi
khai mạc cuộc họp như vậy người chủ tịch dàn xếp cho mọi người có trà nước,
cùng lúc ông xem chắc là ai cũng có ghế ngồi thoải mái, nhiệt độ trong phòng dễ
chịu. Khi buổi họp mở đầu thì người chủ tịch có thể kể một câu chuyện vui, có
trà nước lần nữa rồi những chi tiết quan trọng của nghị trình được thảo luận. Kết
quả là sao ? Tham dự viên chỉ mới vài phút trước cau có sẵn sàng bất đồng ý với
nhau, sẽ nẩy sinh tình liên đới khiến có thể có cuộc thảo luận hợp lý và công
việc của người chủ tịch hóa dễ dàng hơn. Cũng y vậy mà ở mức độ lớn hơn, lực
sinh ra do gắng sức của thiên thần tối nay, có thể được dùng để ảnh hưởng nhóm
người mà thế lực mạnh mẽ của họ có thể chi phối vận mạng của hang triệu sinh
linh. Điều gì họ quyết định sẽ thực sự ảnh hưởng nhân loại trong tương lai, nên
nỗ lực của thiên thần chắc chắn đáng công sức.
Không bàn thảo gì thêm chúng tôi cất bước lên đường, lướt
trên mặt đất chừng năm thước và đi với tốc độ khoảng 80km/giờ. Chỗ này của cõi
trung giới xem ra không có người ở, tôi không nhớ khi lướt đi bọn tôi có gặp ai
hay nhóm người nào. Tôi để ý là vùng quê nơi đây thật diễm lệ, thỉnh thoảng
chúng tôi bay ngang qua những tòa nhà gần hay xa có vẻ giống như Học Viện mà
chúng tôi vừa rời vài khoảnh khắc trước. Chỗ nào cũng có hoa nở rộ và nhiều cây
mọc khắp nơi. Rải rác đó đây tôi thấy có những khoảng rừng rậm giữa đồng quê,
nhưng chúng tôi đi quá mau nên không ghi nhận được gì đặc biệt về mấy cánh rừng
này. Tôi nghĩ là Acharya nói nhiều nhất, mô tả vùng mà chúng tôi đi ngang qua,
nhưng trí tôi đầy hình ảnh lạ lùng của cuộc du hành lẫn sự mong chờ chuyện sắp
tới, nên tôi không thể nhớ điều gì đặc biệt để ghi lại.
Sau khi đi chừng một khắc, tôi thấy phía trước có khoảng giống
như khu rừng dầy, và nhớ là Acharya đưa tay chỉ mốc đất này khi chúng tôi đến gần
lúc cuối chuyến đi, nhưng chúng tôi không hạ xuống ở đầu cánh rừng mà vẫn lướt
bên trên ngọn cây khoảng vài thước một quãng chừng 8 cây số, rồi với vận tốc chậm
lại như đi bộ Acharya dẫn chúng tôi đi xuyên qua một khoảng trống giữa mấy cây,
và tôi thấy một cánh đồng cỏ xinh đẹp trống trải, hình tròn đường kính khoảng
50 thước.
Khi chúng tôi hạ xuống đất, không có dấu hiệu nào cho thấy có
sinh hoạt gì, mà tôi cũng không thấy ai hay thấy vật chi di động trong khoảng đất
trống trước mặt. Chúng tôi được dẫn tới một cây cổ thụ, rễ nó làm chỗ ngồi hết
sức thoải mái và được dặn ngồi yên lặng. Có lẽ cũng nên nói tới cảm tưởng của
tôi về ánh sáng ở đồng cỏ này. Nơi đây có cây mọc dầy bao bọc chung quanh giống
như rừng già ở Ấn Độ, ngọn cây đâm nhánh nên khoảng trống trên đầu ngọn cây hẹp
hơn rất nhiều, so với khoảnh đất trống ở dưới mà chúng tôi ngồi ngoài bìa.
Như đã nói, ở cõi tình cảm ánh sáng có màu xám xanh, trong trẻo
hơn ánh sáng trăng rằm tuyệt mỹ, nhưng nó không chói hay có ảnh hưởng trực tiếp
như ánh nắng mặt trời. Hãy thử tưởng tượng vùng đất trống này được chiếu sáng
trọn vẹn, nếu có con thỏ chạy ngang qua vòng tròn trống thì ai cũng thấy cho tới
khi nó mất tăm vào rừng dầy. Thế nên chúng tôi nhìn thấy hết mọi việc xẩy ra
nơi đây, và cùng lúc có rừng rậm vây quanh mà không có hay có rất ít ánh sáng lọt
qua được.
Ngồi chừng vài phút tôi để ý thấy một nhóm người thấp bé như
các chú lùn, từ trong rừng tít đầu mé trái của tôi đi ra, họ ngồi xếp bằng theo
hình bán nguyệt. Tôi nhớ là có khoảng mười người và mỗi người cầm theo một nhạc
khí nửa như cái trống tròn, nửa như cái trống cơm. Họ mặc bộ quần áo mầu nâu,
giầy nhỏ, mũ bằng vải màu xanh lục sáng hơn lá cây, diện mạo họ giống như của
người đàn ông trung niên, trong khoảng từ 40 đến 70 tuổi xét theo tiêu chuẩn
cõi trần. Ai đã xem phim "Bạch Tuyết và Bẩy Chú Lùn" của Walt Disney
sẽ có ý niệm rõ rệt về hình dạng của những chú lùn này. Họ không nói mà cũng
không phát ra âm thanh nào. Một lát sau có nhóm người cao hơn từ rừng đi ra gồm
cả nam lẫn nữ, thuộc loại khác hẳn. Họ giống người nhưng bề ngoài thực là thanh
nhẹ. Người nữ là các cô gái tuổi từ 18 đến 25 đều có tóc dài, hoặc buông lơi hoặc
cột lại với giải băng mầu xanh dương hay xanh lục. Cả nam lẫn nữ đều tuyệt đối
yên lặng, nhóm này có tổng cộng khoảng 35 người, và họ cũng mang theo vật thấy
ngay là nhạc khí nhưng có khác chút ít với vĩ cầm, trung hồ cầm (cello), hắc
tiêu (clarinet) và sáo mà ta thấy trong một dàn nhạc tây phương. Họ không ngồi
xuống, mà xếp sao cho ai có cùng nhạc cụ thì ít nhiều tụ chung với nhau, và tất
cả xếp thành một nhóm sát vào nhau, đứng cách nhóm đầu tiên là các chú lùn chừng
20 thước.
Nghe như không có tiếng gió nào vậy mà cành trên đầu của những
cây cổ thụ đong đưa rất nhẹ. Một sự yên lặng lạ kỳ tràn ngập khoảng hai phút rồi
cùng một lúc những chú lùn khởi sự chơi trống. Gần như đồng loạt họ bắt đầu hát
bằng giọng thật trầm, hòa vào tiếng nhạc nền là tiếng trống mà không làm mất đi
nét đẹp của những nốt từ miệng họ phát ra. Hiển nhiên đây là một chú ngữ huyền
bí hay mantra, ta thấy rõ họ đang cố gắng tạo một lực tuôn tràn thấm nhuần
trong không khí. Sau khoảng năm hay sáu câu xướng lên thì nhóm thứ hai hay dàn
nhạc chính bắt đầu chơi.
Không làm sao tả hết nét mỹ lệ của nhạc được tấu, nó hòa hợp
hết sức tuyệt vời vào chú ngữ đang xướng lên và tiếng trống nhẹ. Âm thanh không
lớn lắm nhưng nó làm say mê tâm hồn do nét thanh khiết và diễm lệ của nhạc. Bài
đang chơi là một bản hòa tấu, vì nó có những hành âm riêng rẽ và khác biệt với
nhau, với chủ đề thỉnh thoảng được nhắc lại.
Hai hành âm trọn vẹn được tấu xong và khi dàn nhạc chơi hành
âm thứ ba được nửa chừng, bất thình lình có âm nghe như giọng người mà đẹp đẽ kỳ
lạ vang lên trong không. Có vẻ như nó phát từ trên cao nên tôi lập tức ngó lên,
mới đầu tôi không thấy gì và không thấy ai, một lát sau Acharya kêu tôi nhìn về
một cây ngoài xa phía đối diện của cánh đồng, và tôi thấy tít trên ngọn có người
giống như một thiếu nữ trẻ hết sức kiều diễm, ngồi trên cành lá với tóc xõa sau
lưng, đơn ca trong buổi hòa tấu tuyệt diệu. Cô có giọng kim thuần tuý, tiếng
hát không lớn nhưng nét trong trẻo của mỗi nốt cất lên làm tim tôi thổn thức tới
nỗi muốn bật khóc.
Bài hát kéo dài chừng mười phút, ban nhạc chơi vài trường
canh rồi cô gái hát một mình không có nhạc đệm, sau đó chuyển qua lối thường là
hát với dàn nhạc phụ họa, tăng dần sức mạnh mà dàn nhạc hòa theo. Hành âm thứ
tư có vẻ là thể hiện tinh thần của ba hành âm trước đó và trọn ban nhạc kết
thúc buổi trình diễn. Bản hòa tấu tản dần trong không, và đột nhiên ta nhận thấy
sự tĩnh lặng rất đỗi chú ý lúc ban đầu nay lại bao trùm lần nữa. Tôi nhìn lên
ngọn cây nơi cô ca sĩ ngồi trước đó thì không thấy cô đâu, nhóm gồm ban nhạc và
những chú lùn vẫn ở vị trí của mình nhưng nay các nhạc sĩ ngồi trên mặt đất.
Có một ông lão thật già bước ra khỏi khu rừng, ông có chòm
râu dài phất phơ và trên người ông là một bộ lễ phục. Ông bước chậm rãi từ tốn
vào giữa cánh đồng, giơ tay lên trong dáng điệu cầu khẩn thần linh, khởi sự cái
giống như lời triệu thỉnh vì hai nhóm nhạc sĩ cúi đầu và lắng nghe tiếng ông thốt
ra. Tôi không hiểu chữ nào trong lời của ông nhưng tôi biết đó là kinh cầu, xin
cho công việc vừa hoàn tất được thành công. Đó là một nỗ lực bằng ý chí vì mỗi
thành viên của cả hai nhóm đều tập trung tư tưởng tối đa, mong cho mục đích được
thành tựu. Sự việc chấm dứt đột ngột và lão ông nhẹ nhàng khuất dạng vào rừng
già, rồi nhóm nhạc sĩ đang ngồi nay đứng dậy, đi ra ngoài cánh đồng, biến mất
khỏi tầm nhìn của chúng tôi. Tôi bị mê mẩn tột độ với bài đã nghe tới mức không
muốn nhúc nhích, và lời nói của Acharya làm tôi giật nẩy mình:
– Nào, đêm nay có bấy nhiêu. Tôi rất muốn biết sáng mai anh sẽ
nhớ được bao nhiêu chi tiết.
Tôi vẫn còn như người trong mộng khi chúng tôi đứng dậy, lướt
qua khoảng trống giữa những cây, bắt đầu con đường trở về. Acharya cho chúng
tôi một vài ý niệm về mục đích của nghi lễ vừa được chứng kiến, nhưng tôi không
hiểu rõ cho lắm lời ông nói, vì trí não tôi vẫn còn quay mòng mòng, và tôi nghĩ
mãi về ảnh hưởng tinh thần tuyệt diệu có vẻ như là một phần nổi bật của buổi
hoà nhạc từ đầu tới cuối.
Tôi nhớ là ông mô tả những nhạc sĩ khác nhau, ông nói các chú
lùn là tinh linh còn ban nhạc gồm nhân vật thuộc thế giới thiên thần, là đường
tiến hóa song song với loài người. Những thiên thần này có mức phát triển theo
đường của họ, tương đương như Daphne và tôi có mức phát triển trong thế giới
nhân loại. Nhân vật đơn ca thuộc hạng khác hẳn vì cô là một thiên thần tiến rất
cao trong loài ấy, tương đương với một người hết sức tiến bộ theo đường tiến
hóa của chúng ta. Lão ông có thể mô tả như một giáo sĩ, vì ông chuyên về phần
việc tế tự trong đường tiến hóa của chư thiên, theo cách thức rất giống như
nghi lễ của loài người.
Thời khắc trôi qua và chúng tôi về đến Học Viện, ngừng trên
sân cỏ ngay trước cổng vào, vì Acharya nói là tôi cần in trong trí hình ảnh rõ
ràng của tòa nhà này cho những dịp về sau. Tôi hỏi Daphne làm sao có thể tìm lại
nàng lần nữa, với giả dụ là tôi có thể tự mình đến được tòa nhà này. Acharya trả
lời thay cho nàng, bảo tôi có thể tin chắc là tìm được Daphne trong cùng gian
phòng mà nàng đã ngồi khi tôi mới gặp lần đầu vì cõi tình cảm không bị đông người
chật chỗ nên đa số có thể giữ một nơi làm việc riêng biệt cho mình. Tuy nhiên
ông đề nghị là Daphne nên chỉ cho tôi căn nhà nhỏ nơi nàng đang sống. Daphne
sung sướng với đề nghị này và kêu chúng tôi đến xem.
Nàng dẫn đường bằng cách lướt lên trên mái của Học Viện, và
tôi kinh ngạc thấy một hình ảnh giống như ngôi làng nhỏ, nép mình trong thung
lũng cách phần sau của dinh thự rộng lớn chừng một cây số. Các ngôi nhà nhỏ nằm
rải ra nên mỗi căn có ít nhất một mẫu ta đất (400m2). Thấy rõ là chủ mỗi căn
nhà chẳng những vẻ kiểu lấy nhà của mình mà luôn cả khu vườn, theo tâm tính
riêng và sở thích cá nhân, cho ra kết quả xinh đẹp bội phần. Có những ngôi nhà
trông như từ các vùng thơ mộng miền quê của Anh được mang tới, ngôi khác làm nhớ
lại những biệt thự nhỏ ở miền nam nước Pháp, cái khác nữa thì thuần kiểu Ý
trong khi tôi để ý có ít nhất hai ngôi nhà xây giống đền thờ phương Đông.
Acharya quan sát thấy tôi chú tâm đến những kiểu kiến trúc khác nhau, nên chỉ
cho xem hai ngôi nhà có mái vòm tương tự như đền thờ Hồi giáo mà tôi đã thấy,
ông nói chủ nhân của chúng đặc biệt muốn có phòng với âm vang hoàn hảo.
Tuy muốn có giờ để nhìn lâu cảnh trí hết sức thanh tú này,
tôi cảm nhận rằng Daphne nóng lòng muốn
chỉ nhà riêng của nàng cho chúng tôi xem nên với Daphne dẫn đường đi trước,
chúng tôi đi bộ dọc theo con đường làng khoảng 200 thước. Nàng đưa chúng tôi
qua cánh cổng vào vườn có hoa nở muôn hồng nghìn tía thật rực rỡ. Ngôi nhà tự
nó chỉ có thể tả là ngôi nhà trong mơ, kiểu nhà lập tức làm tôi ưa thích ngay.
Trước hàng hiên là một hàng cỏ nhỏ, ở giữa có cây cho bóng mát, vài chiếc ghế
mây đặt dưới tàng lá xòe quanh, trông thật thoải mái và tươi mắt với gối êm bọc
mầu sáng. Tôi ý thức ngay lợi điểm của cõi tình cảm, ấy là ta không sợ trời mưa
hay ăn trộm nên bàn ghế có thể đặt ngoài sân vô hạn kỳ.
Chúng tôi đi vào nhà và Daphne chỉ cho xem trước tiên căn
phòng rộng nhất trong bốn phòng của ngôi nhà. Nó được trang trí làm phòng khách
với ghế bọc nệm, ghế dựa, bàn đó đây, mấy cái ghế nhỏ và một cây dương cầm nhỏ
trong góc. Không có vẻ gì là khoe khoang nhưng rõ ràng là chủ nhân bầy biện
hoàn toàn theo ý của mình, điều lắm khi bất khả trong thế giới của chúng ta do
giá tiền của những món mà ta muốn có. Ở đây không bị giới hạn như vậy và nhìn
căn phòng, nó muốn nói chủ nhân có khiếu thẩm mỹ mà không có ý phô diễn dưới bất
cứ hình thức nào. Có nhiều cửa sổ lớn chiếm gần hết chiều dài của phòng khách,
ánh sáng trong trẻo ở cõi tình cảm chiếu xuyên qua đó, làm nổi bật mầu sắc hòa
hợp thanh nhã của khăn thêu phủ mấy cái ghế và ghế dài, cũng như màu sắc của
chiếc thảm Ba Tư rất ăn ý với vải bọc ghế, bọc nệm và màn cửa.
Tôi thấy ngay ở cảnh này rất dễ có được sự toàn hảo nếu người
ta biết phải làm gì. Nơi cõi trần ta phải mất nhiều năm mà có thể vẫn không tìm
được tấm thảm Ba Tư hòa hợp tuyệt diệu với mầu sắc dùng để trang trí căn phòng.
Tường có mầu ngà và để trần, chỉ có một hai bức họa mầu nước lý thú và vài bức
tranh khảm (etchings). Đây là gian phòng làm người ta muốn vào ngồi, nó trông
như nhà ở chứ không phải là gian phòng được trưng bày để phô diễn. Chỉ bước vào
mấy gian phòng là bạn biết ngay chủ nhân thuộc loại người nào, và tôi có thể hiểu
được tại sao Daphne muốn dẫn chúng tôi đến xem nhà của cô.
Gian phòng rộng thứ nhì được trần thiết làm phòng ngủ đầy nữ
tính, có chiếc divan ở một góc và những bàn ghế khác mà người ta thường thấy
trong căn phòng trang hoàng đầy đủ loại này. Tôi ngạc nhiên là tại sao lại cần
phòng ngủ ở cõi tình cảm, nơi mà đời sống hằng ngày không cần phải ngủ. Dầu vậy
Daphne giải thích bằng cách hỏi tôi rằng không phải có những lúc tôi muốn ngồi
dựa lưng, hoặc chỉ để nghỉ ngơi hoặc đọc sách hay sao. Tôi phải nhìn nhận rằng
có, và Daphne bảo tôi trải qua nhiều giờ khắc hạnh phúc trong lúc ngồi xả hơi
trên divan, suy nghĩ, đọc sách và vẽ ra kế hoạch cho tương lai.
Hai phòng còn lại là phòng đọc sách và bếp. Thư viện được trần
thiết đầy vẻ mỹ thuật và cho cảm tưởng thoải mái như hai phòng kia, kệ đầy sách
đóng bằng da của Nga đặt kín hai bề của gian phòng. Chỉ bề ngoài của sách là đủ
mời gọi ta ngồi xuống mở ra đọc. Bếp có đủ mọi tiện nghi hiện đại và dù tôi tưởng
là căn bếp không cần ở cảnh này, Daphne bảo nàng vẫn thích làm bánh cho các buổi
tiệc. Acharya nhận xét thêm là con người bỏ thói quen rất chậm, và thường phải
mấy chục năm trôi qua trong cảnh sống ở cõi trung giới mới làm người ta mất hẳn,
và quên hoàn toàn những thói quen đó. Tôi muốn ở lại lâu hơn nhưng có thể thấy
là Acharya nghĩ đã tới giờ về. Tôi ngỏ ước muốn chót là được dành vài phút
ngoài sân. Thật vui thích được đi thơ thẩn giữa những luống hoa, ngửi hương của
từng bông hoa đặc biệt và thấy rằng hoa nào cũng có hương giống như ở cõi trần,
nhưng có lẽ nồng đậm hơn. Acharya giải thích điểm này là tôi chỉ có thể nhận ra
được hương hoa nếu biết trước nó là gì, lấy thí dụ nếu có bông hoa mà tôi chưa
từng thấy và mùi hương xa lạ với tôi, tôi chỉ ngửi được hương mà tôi tưởng tượng
là nó có xét theo hình dạng bề ngoài của hoa, trong khi mùi hương thực sự có thể
khác xa với cái tôi tưởng tượng.
Daphne đưa chúng tôi ra cửa và chúng tôi chào từ giã nàng.
Tôi đoan chắc với nàng là thể nào tôi cũng trở lại thăm lần nữa nếu tìm được đường
lên. Chúng tôi lướt trên không băng qua mái của Học Viện, đáp xuống đất lần nữa
ở chân đồi mà toà nhà tọa lạc trên đỉnh, Acharya nhắc tôi ghi nhớ hình dạng
dinh thự vào trí tưởng tượng của mình, để tôi có thể tạo ra một hình tư tưởng
đúng y về nó mỗi lần muốn đến nơi đây. Tôi làm theo như ông dặn. Xong Acharya bảo
là đã tới giờ trở về thể xác của tôi ở Sri Lanka, và cách thức quay về thì y hệt
như cách chúng tôi dùng khi đến cảnh này của cõi trung giới. Ông bảo tôi đừng
lo lắng chi mà chỉ dùng sức mạnh ý chí, cố gắng tạo hình tư tưởng của vườn cỏ
bên ngoài căn nhà của tôi ở Colombo. Ông nắm lấy tay tôi như đã làm trước đó,
nhưng nói đó chỉ là để cho tôi tự tin hơn và thật ra không cần thiết chút nào.
Tôi bắt đầu tập trung tư tưởng với hết sức mình và khi làm vậy,
tôi để ý là cảnh chung quanh lập tức mờ nhạt dần và tuy thực tế là không có sức
gió cản đáng kể, tôi có cảm tưởng là mình đang di chuyển trong không gian. Theo
bản năng tôi nhắm mắt và có lẽ vài giây sau cảm giác di động dường như ngưng lại.
Mở mắt ra tôi thấy Acharya đứng cạnh tôi trên sân cỏ bên ngoài nhà ở Colombo, mỉm
cười với sự ngạc nhiên thấy rõ của tôi. Hai chúng tôi lập tức đi vào nhà qua
cánh cửa khóa, lên cầu thang và xuyên qua cửa phòng ngủ, tôi không còn ngạc
nhiên là không cánh cửa nào cho ra chút cản trở.
Lẽ tự nhiên thể xác mà tôi để lại mấy giờ trước đó vẫn còn nằm
say ngủ trên giường, nhưng có vẻ như nó lộ ra vài dấu hiệu nhỏ không yên.
Acharya giải thích đó là phản ứng tự nhiên của cơ thể khi sắp tới giờ thức giấc.
Ông nói chỉ vài phút ngắn thôi là tôi sẽ dậy, và nhấn mạnh chuyện cần thiết là
tôi phải ngồi xuống ghi lại tức thì những chi tiết của việc xẩy ra trong đêm vừa
rồi. Ông đặt tay lên trên đỉnh đầu của tôi và làm như định tâm vào những tế bào
não để chúng giúp tôi nhớ lại. Tôi không nhớ là mình có chào Acharya và có thấy
ông rời khỏi phòng hay không, vì chỉ trong vài giây tôi cảm nhận một thôi thúc
rất mạnh trong lòng muốn trở về thân xác, và với cử động trườn người đã để ý
trong một dịp trước, tôi chuồi vào nó trở lại và lập tức thức giấc.
Tạ ơn trời, ký ức đêm trước vẫn còn ở trong đầu nên tôi ra khỏi
giường ngay tức khắc, mặc áo ngủ và lại bàn viết khởi sự ghi xuống chi tiết
chuyến đi. Lúc đó là 5:45 và tôi thấy cần phải bật đèn vì trời chưa đủ sáng ở
đây để viết hay đánh máy. Phải mất một lúc lâu mới ghi xong bài viết nhưng bởi
đã cẩn thận xếp đặt trước để không bị quấy rầy, tôi có thể làm xong việc một
cách yên ổn mà không có gì bên ngoài làm chia trí.
Ăn sáng xong tôi đọc lại bài viết của mình để xem chắc là
không bỏ sót điều chi. Tối nay tôi dự tính tự nỗ lực một mình trở lại cảnh thứ
ba, dùng Học Viện nơi Daphne làm việc là mốc điểm để tới.
Sáng Hôm Sau.
Lần này tôi thật sự thấy hăm hở vì có chuyện để tường thuật.
Không phải tôi làm được việc gì rất tuyệt vời nhưng ít nhất tôi đã thành công một
chút. Trở về nhà sau một vòng đi dạo, tôi thấy mệt và chuẩn bị đi ngủ. Tôi đọc
sách vài phút sau khi lên giường rồi tắt đèn và chìm vào giấc ngủ. Tôi còn nhớ
thật rõ ràng là thấy cơ thể nằm ra sao trên giường, nên không còn cần phải tượng
hình trong đầu thấy mình trong tấm gương giả tưởng, như được dạy làm vậy trong
những ngày đầu. Tôi không nhớ có trườn mình ra khỏi cơ thể, nhưng hiển nhiên là
tôi đang ở trong phòng của mình, với thân xác nằm trên giường như đã thấy nó mấy
lần trước. Tôi ra khỏi phòng xuyên qua cửa, xuống cầu thang và theo cửa trước
đi ra sân cỏ, nơi Acharya và tôi đã đứng vài giờ trước đó. Chỉ mới chừng muời
giờ rưỡi vì vẫn còn người qua lại, đi bộ và lái xe trên đường; tôi nhận ra là
cái mình thấy là thể tình cảm của xe cộ và người ta, và tôi hiện đang ở cảnh thấp
nhất của cõi trung giới.
Bây giờ là lúc ra sức để đi khỏi cảnh thứ nhất đó và lên cảnh
thứ ba nơi Daphne sống. Nay tôi phải tập trung trọn năng lực ý chí của mình, tạo
nên hình tư tưởng của Học Viện mà Acharya đã dạy tôi tượng hình thật cẩn thận hồi
sáng. Tôi nhắm mắt và dùng tất cả sức mạnh ý chí có được, và quả nhiên cảm giác
di chuyển không có gió cản trở thấy vẫn y như trước. Tôi giữ hình tư tưởng của
Học Viện thật rõ ràng trong trí, nhất quyết phải đi tới đích và lập tức tôi thấy
như cảm giác chuyển động ngưng lại, rồi tôi mở mắt ra. Tạ ơn Trời, tôi đã thành
công ! Kìa là Học Viện đứng trên đỉnh đồi, y như tôi đã thấy nó tối qua. Nỗi
khích động gần như quá sức chịu đựng của tôi. Thực vậy hẳn tôi đã mất hết sức
kiểm soát quan năng của mình, vì đột nhiên mọi việc quanh tôi kể cả Học Viện
nhòe nhạt đi, và chuyện kế đó mà tôi nhớ là thức dậy trên giường trong thể xác ở
Colombo, tim động thình thịch như trống làng.
Ôi Trời, tôi đã làm hư hết chuyện ! Tôi đã tới đó ! Đúng là
tôi đã tới nơi muốn đến, vậy mà do sự khích động và thiếu kiểm soát tôi đã rớt
trở lại chỗ khởi đầu, tỉnh hẳn dậy. Tôi nằm tỉnh giấc đến hai tiếng đồng hồ là
ít, rủa thầm sự ngu dại và thiếu kiểm soát của mình, rồi có vẻ như tôi nguôi
ngoai và thiếp dần đi. Tôi quyết định thử lần nữa và lần này kiểm soát chặt chẽ
quan năng của mình, để không quay về thể xác trước khi nó ngủ đủ giấc.
Một lần nữa tôi lại tập trung tư tưởng để ra khỏi thể xác, mà
cùng lúc tôi giữ trước mặt mình hình tư tưởng của nhà Học Viện. Lần này việc ra
khỏi thân xác có khác một chút so với lần đầu. Tôi không nhớ chút nào là mình
có đứng trong phòng ngủ hay không như đã làm trước đó hồi đêm, nhưng tôi kinh
ngạc và rất đỗi vui sướng thấy mình ở đúng chỗ mà đã bị hun hút kéo lui, không
sao cưỡng lại được khi mất kiểm soát mấy giờ trước. Lần này tôi nhớ là cần phải
có kiểm soát và và chẳng biết sao giữ được bình tĩnh. Tôi biết là tôi ngồi xuống
cỏ mà không tìm cách đến gần Học Viện chi hết, chỉ tập trung mạnh mẽ để hạ bớt
nhịp tim và được an nhiên, tỉnh trí.
Rồi tôi đứng dậy và bay lên cổng chính của toà nhà, lên cầu thang
qua cửa vào phòng mà tôi nhớ rõ là Daphne ở trong đó hồi đêm qua. Lần này tôi ý
thức là không thể nào đi xuyên qua cửa theo cách ta làm ở cõi trần, vì toà nhà
này làm bằng chất liệu của cõi tình cảm thế nên cánh cửa nơi đây cản trở cho bước
đi của người, bởi tôi cũng đang trong thể bằng chất liệu tình cảm. Tôi gõ cửa
và đứng đợi nhưng không có trả lời. Tôi gõ cửa lần nữa, tự hỏi tiếng động có đủ
lớn cho người trong đó nghe, nhưng sự yên lặng vẫn bao trùm và cửa không mở ra.
Đợi một lát tôi cẩn thận quay nắm cửa và len lén thò đầu vào nhòm. Tôi không cần
phải lo vì không có ai trong đó cả nhưng nhận ra gian phòng là nơi đã gặp
Daphne tối qua, vì vậy chẳng lôi thôi gì nữa tôi đóng cửa lại, lướt xuống thang
và ra khỏi cửa trước. Vọt lên trên không tôi băng qua mái nhà, và đi theo đường
của mình với hy vọng Daphne có ở nhà nàng. Tôi đáp xuống đất trước khi đến
thành phố đầy vườn hoa và ngắm nhìn lần nữa cảnh trí xinh đẹp của nó. Quả như
được thấy cảnh Thiên Đường. Hèn gì tối qua tôi muốn đứng lại ngắm nó lâu hơn.
Có nhiều loại nhà hơn tôi tưởng, và tôi hết sức hân hoan với hình ảnh trước mắt,
chỉ ước rằng phải chi mình là họa sĩ để sau khi trở về thể xác, biết đâu tôi có
thể vẽ lại hình giống với cảnh mà tôi thấy rất chi tiết lúc này.
Thành phố hoa viên chiếm một thung lũng uốn khúc và ở mọi bên
vách, mặt đất thoai thoải dốc lần lên tới một dãy đồi thấy rõ ở đằng xa.Tôi mê
say ngắm những khu vườn xinh đẹp chỉ có được ở nơi mà không có giới hạn về công
lao hay tiền bạc. Vun trồng óc tưởng tượng khi sống ở cõi trần là chuyện rất
đáng nói, vì tuy việc mơ màng dệt mộng không sinh ra kết quả thiết thực nào
trong lúc ta sống, nhưng khả năng tưởng tượng chi tiết là điều rất cần ở cõi
tình cảm. Ở đây người ta chỉ cần tượng hình một vật và suy nghĩ mạnh mẽ về nó
thì lập tức tư tưởng biến thành vật, và vật còn đó bao lâu mà tâm trí vẫn còn
tiếp tục giữ ý tưởng ấy.
Ai ở đây thật có diễm phúc, và tôi thoáng có ý nghĩ là nay đã
biết thêm một chút về chuyện gì sẽ đến với mình, tôi sẽ không lo lắng nếu được
cho hay là sẽ qua đời nay mai; những điều đã thấy và biết làm tôi nhận thức rằng
luôn luôn có thể làm người đi khỏi thế giới này được sung sướng, nếu họ thực sự
muốn có hạnh phúc. Tư tưởng chót tôi có trước khi gián đoạn bất ngờ xẩy ra, là
tạo một hình ảnh trong trí về hầu hết các sở hữu chủ của các ngôi nhà thật dễ
dàng biết bao. Ở cõi trần thì xét đoán một ai qua khu vườn của họ sẽ bị sai lầm,
vì có lẽ họ chẳng có liên quan gì hay hoàn toàn không dúng tay trong việc tạo
nên cảnh vườn. Còn ở đây thì không cần người làm vườn, mỗi khu vườn là sáng tạo
của chủ nhân, và nhìn nó người ta có thể đoán khá đúng về đặc tính nổi bật của
cá nhân. Tôi ước chi có cơ hội thử nghiệm giả thuyết của mình.
Ngay khi ấy tâm trí tôi bị thu hút bởi một bóng dáng mầu trắng
đang chạy lại phía tôi trên đường quê, vừa chạy vừa gọi to. Chính là Daphne và
thấy rõ là nàng xúc động lắm.
– Anh tới rồi, Henry, em mừng quá. Mấy giờ qua em ráng giúp
anh hết sức rồi em nghĩ bao cố gắng chỉ hoài công. Hồi nãy em cảm được ngay là
anh đến gần và em gần như chắc chắn là anh đã qua được bức màn, nhưng cảm tưởng
dần dần phai đi và em mất hết hy vọng, nhưng rồi lại cảm thấy là anh ở gần đây.
Em phải đến chỗ này, em không biết tại sao, và khi thấy anh đứng đây, tưởng như
mơ nhưng thực sự có đây, em mừng quá làm tim muốn ngưng đập.
Tôi ngắm nhìn hình dạng yêu kiều trước mặt tôi. Trông nàng
như chỉ là thiếu nữ nhỏ bé, mặc áo mỏng để lộ thân hình nhỏ nhắn với đường nét
thật quyến rũ và tôi mê mẩn với sắc đẹp của nàng. Tóc nàng mầu nâu đậm có ánh
vàng xen lẫn, làm thành cái khung tuyệt hảo cho nét biểu lộ sống động trên
gương mặt xinh xắn, mắt lộ ra tình yêu vô cùng thanh khiết mà ít người nam được
thấy trong đời. Tất cả những gì đẹp đẽ trong lòng tôi dường như toát ra ngoài mặt,
và tôi cảm thấy cái động lực cổ xưa muốn bảo vệ, ôm chặt và giữ lấy, là cái cảm
xúc đích thực của người nam đối với bạn đời mà anh đã chọn.
Tôi không muốn nói gì mà nhẹ nhàng ôm chặt Daphne trong tay,
kính cẩn hôn lên mặt và tóc nàng. Nụ hôn của tôi không có chút si mê, dường như
không có chỗ cho sự si mê, mà là cái ao uớc sâu kín trong lòng muốn được tiếp
xúc cận kề hơn với người trong mộng của tôi, nỗi ước ao muốn biết nàng nhiều
hơn và nếu được thì thêm vào niềm hạnh phúc mà nàng đã có. Nàng hôn trả lại, tỏ
ra không ngạc nhiên gì về hành động của tôi. Trong một chốc mắt nàng đầy lệ mà
tôi lập tức hôn chặn ngay, gần như trước khi nó ứa ra. Rồi nàng dấu mặt đi khi
chúng tôi quay ra, tay tôi choàng qua eo Daphne, chậm rãi đi về hướng nhà nàng.
Khi tới nơi tôi đưa nàng vào phòng khách đến cây đàn dương cầm.
Tôi nói:
– Chơi cho anh đi cưng, lúc này anh thấy cần có nhạc.
Tôi kéo chiếc ghế lại và ngồi xuống cạnh Daphne. Nàng dạo
khúc nhạc tôi không nhớ là gì nhưng biết nó là bản tả nỗi hân hoan vui vẻ. Tôi
ngả người ra sau, nhắm mắt lại trong sự lâng lâng ngây ngất, và trong một lúc cảm
biết sự bình an không gì tả được, điều khi đã kinh nghiệm rồi thì bất cứ cảm
xúc nào khác cũng hóa ra trống rỗng, bất toàn.
Tôi không biết cả hai nói chuyện bao lâu, nhưng nhớ là kể cho
nàng nghe hết mọi chuyện về nỗi đau khổ tôi có sau khi Charles bị thiệt mạng và
làm sao Acharya đến với tôi, luôn cả những kinh nghiệm tôi có tới tối hôm trước,
khi nhờ sự giúp đỡ của ông tôi đã gặp lại nàng. Chúng tôi quyết định là cho dù
cả hai bị chia cách phải sống trong những cõi tâm thức khác biệt, làm cho không
thể sống đời bình thường cùng nhau, hai tôi sẽ tạo một đời sống chung với nhau
cùng với mọi chuyện đang có, và chứng tỏ rằng cái chết không hề là hàng rào
ngăn cản sự tiến bộ hay hạnh phúc. Cả hai chúng tôi tin chắc rằng sự thương yêu
của chúng tôi với nhau phải đủ sức khiến tôi vượt qua được bức màn bất cứ khi
nào cần, và tôi sẽ đến với nàng, ngay cả khi nàng không thể đến với tôi.
Nàng kể tôi nghe đôi điều về người sống trong thung lũng. Nhiều
kẻ là thân hữu của nàng và nàng muốn tôi gặp họ. Nàng giải thích là người ở cảnh
này liên kết với nhau khi có cùng sở thích, nhưng không có hôn nhân theo nghĩa
thông thường của chữ ấy. Người ta gọi nhau bằng tên ở đây, là tên riêng hay tên
thân mật mà không bao giờ dùng họ. Nàng cho tôi vài thí dụ, kể rằng có cô gái
luôn mỉm cười và vui vẻ nên có tên là Sunbeam. Người khác luôn luôn mặc y phục
màu xanh thì được gọi là Bluebell, còn một người dành cả đời ở đây để giúp kẻ
khác được cho tên là Y sĩ.
Tôi bảo tôi rất mong được gặp những người bạn của nàng, nhưng
họ sẽ đón nhận tôi ra sao, người không thuộc về cảnh giới này theo nghĩa thông
thường của nó ? Nàng bảo:
– Rồi anh sẽ thấy, ở cảnh
này anh chỉ thấy khía cạnh đẹp đẽ của người khác, vì có rất ít lòng ganh tị nhỏ
nhen như trên cõi trần; ai cũng có thể có vật mà người khác có nếu họ muốn, chỉ
bằng cách tạo nên hình tư tưởng là được, thành ra không cần phải nỗ lực để sống
theo mức của người khác. Người ở đây trở thành chính họ và chẳng bao lâu anh sẽ
ý thức được rằng anh biết họ như họ thực sự là, câu nói sau đây rất đúng :
"Kẻ tệ nhất trong chúng ta có bao tính thiện còn kẻ tốt nhất thì có bao
tính xấu."
Tôi không để ý chút nào là cuộc nói chuyện kéo dài bao lâu,
nhưng nhớ là bắt đầu cảm thấy có sự chộn rộn trong lòng, nó cho tôi biết rõ là
cơ thể đã ngủ trọn giấc của nó. Tôi chỉ đủ thời giờ chào từ giã Daphne rồi
không báo thêm chi, những bức tường quanh phòng chúng tôi đang ngồi có vẻ như
tan loãng thành sương khói bốc lên ngay tức khắc, và tôi cảm thấy trở lại cảm
giác di chuyển trong không. Lập tức tôi tỉnh dậy trong thân xác ở Colombo, lần
này không có giai đoạn chuyển tiếp – tôi
không thấy mình ở trong phòng ngủ với thể xác nằm trên giường trước mặt; tôi tỉnh
ngủ hẳn và nhìn đồng hồ tay, thấy nó là 7 giờ và mặt trời đang chiếu vào phòng.
Tôi ra khỏi giường ngay, thiếu điều chạy ào tới bàn viết để bắt đầu bài thuật lại
những chuyện xảy ra trong đêm, và nay tôi đã làm xong.
Đồng hồ chỉ 10giờ, tôi chỉ có giờ cạo râu, tắm gội và ăn sáng
một chút trước khi chờ Acharya đến. Tôi tự hỏi phản ứng của ông sẽ ra sao đối với
tất cả những điều tôi cho ông xem. Ông có hài lòng chăng với tiến bộ mà học trò
của ông đã có, hay ông sẽ cho tôi hay rằng ấy chỉ là may mắn, rằng khó mà tôi
có thể tự mình đi du hành trong tương lai, và còn phải gắng công và học hỏi
thêm nhiều trước khi tôi có thể dong ruổi mà không cần hướng dẫn. Tí nữa đây sẽ
biết. Hình ảnh Daphne vẫn còn rất có thật. Có lẽ tôi đã bỏ lỡ hạnh phúc của
mình khi không thành hôn với nàng ở Anh lúc có cơ hội. Tôi không biết, nhưng
tôi không có ý hối tiếc việc đã rồi. Tôi nghĩ có lẽ tương lai trước mặt chúng
tôi sẽ vô cùng hào hứng và đẹp đẽ hơn bất cứ gì khác có thể có trong đời này.