CHƯƠNG BỐN
Một trong những chỉ dẫn cho tôi làm là ghi xuống tất cả những
gì nhớ được về chuyện gì xẩy ra hồi tối qua. Nghe thì đơn giản nhưng tôi có thể
nói ngay với độc giả rằng cuộc thí nghiệm thành công mọi mặt. Không biết tôi có
nhớ hết mọi việc xẩy ra hay không, tôi mong thầy sẽ cho tôi rõ khi ông đến hôm
nay, nhưng tôi nhớ nhiều tới mức phải xếp đặt tư tưởng thật cẩn thận để ghi xuống.
Đó là một đêm tối không trăng, tôi lên giường lúc 9:45 tối
như đã dặn, uống viên thuốc mà thầy đưa và chú tâm tưởng tượng xem mình sẽ thấy
gì trong chiếc gương bên trên giường. Cạnh giường có cái đồng hồ quả lắc nhỏ của
Pháp, nó là một bảo vật của tôi vì nó khá đắt tiền lúc tôi mua nó, hồi còn là
sinh viên nghèo ở đại học Cambridge. Nó gõ tiếng thánh thót nhẹ nhàng mỗi khắc
và đúng mỗi giờ, tiếng gõ này chưa hề làm tôi mất ngủ hay khó ngủ.
Khi nghe chuông gõ khắc cuối trước mười giờ tôi uống thuốc
ngay; vào đúng lúc nghe chuông thánh thót đầu tiên chuẩn bị cho tiếng gõ lớn
đúng mười giờ, tôi cảm thấy có gì rất lạ xẩy ra trong cơ thể. Có cái gì đó
trong người như lơi dần, và tôi cảm thấy như mình đang tuột ra khỏi thân xác,
vì trước khi quả lắc khởi sự gõ mười tiếng tôi thấy mình lơ lửng trong không
nhìn xuống thân thể nằm trên giường y như đã được cho hay trước, chỉ có điều
tôi không đứng trên sàn nhà mà cách sàn khoảng ba tấc (về sau tôi mới thấy vậy).
Khi ý thức là mình đứng ngoài cơ thể tôi thấy tim mình hồi hộp nhưng không sợ lắm,
và chắc chắn là tôi không muốn vội vã nhập trở vào. Chẳng những ngạc nhiên mà
tôi còn thấy rộn ràng, hứng chí mà cũng hơi sờ sợ, sợ cái bất thường.
Tôi lạ lùng thấy trời sáng như ban ngày ! Đây là lần đầu tiên
tôi cảm thấy là ánh sáng ở khắp nơi, bất cứ lúc nào ở cõi tình cảm, và tuy lúc
đó tôi không để ý tính chất của nó về sau tôi thấy nó có mầu xám xanh. Để bạn
tưởng tượng căn phòng của tôi thấy ra sao thì nó giống như trời sáng lúc rạng
đông, chỉ có điều sáng hơn nhiều lần. Tôi nghe có tiếng cười hân hoan sau lưng,
lạ cái là nó không làm tôi giật mình chi hết. Tôi quay lại thấy Charles y hệt
như lần cuối tôi gặp em. Rõ ràng là hắn thích thú thấy tôi ngạc nhiên và vẻ sửng
sốt trên mặt tôi, hắn toét miệng cười với những vết nhăn quen thuộc mà trước
kia tôi biết rất rõ. Tôi tự động chộp lấy tay Charles, và cảm ngay là bàn tay rắn
chắc, rất thực như ngày nào. Vị thầy Ấn Độ nãy giờ vẫn hiện diện trong phòng mà
tôi không để ý, lên tiếng:
– Phải, Charles vẫn là anh ta như tôi đã nói với anh, và bởi
bây giờ anh dùng một thể y như Charles, tự nhiên là hắn thành chuyện thực đối với
anh như anh đối với hắn.
Nỗi vui lớn lao được gặp Charles khiến tôi bắt tay hắn phải
lâu tới một hay hai phút, đặt tay lên vai em để biết chắc là em tôi quả thật
đang đứng trước mặt, bằng xương bằng thịt. Tôi thấy khó hiểu là tuy thể tình cảm
có đường nét y hệt thân xác nhưng nó không phải là vật chất, không xương không
thịt; nhưng Charles là thật đối với tôi, tôi hỏi em đủ thứ chuyện như khi ta gặp
người thân vắng mặt đã lâu, muốn biết hắn làm gì, có vui không v.v. và khi
Charles có thể xen vào giữa những câu dồn dập của tôi thì hắn chỉ ôn tồn nói:
– Anh đừng lo, em mạnh và vui lắm như anh sẽ thấy.
Tôi nhận xét là hắn vẫn mặc quân phục thì Charles đáp, 'Ủa, vậy
ư ?' và thêm rằng hắn không nhớ là mình đang mặc gì. Vị thầy Ấn Độ mới giải
thích là tôi thấy Charles trong quân phục vì đó là quần áo Charles mặc lúc tôi gặp
em lần cuối ở cõi trần, tối nay trong tiềm thức tôi tạo hình tư tưởng về
Charles mặc quân phục nên chất liệu mềm dẻo nơi cõi tình cảm lập tức uốn theo
tư tưởng của tôi. Thầy cũng nói là cho dù trước khi gặp tôi Charles có nghĩ xem
sẽ mặc gì, tôi cũng không thấy được y phục đó trừ phi em nói cho tôi hay. Tôi sẽ
luôn luôn thấy em mặc như là tôi nghĩ thôi.
Khi ấy vị thầy Ấn Độ hỏi tôi muốn làm gì. Charles đề nghị là
chúng tôi bắt đầu bằng bữa ăn tối ở cõi tình cảm, hắn hỏi tôi có muốn đến nhà
hàng Trocadero Grill là chỗ chúng tôi thích tới lúc còn ở Anh với nhau. Tự
nhiên là tôi nói , 'Đi', tuy thắc mắc không biết làm sao đi; nhưng đã thấy
Charles sống động, rất linh hoạt là khác, tôi nghĩ chuyện gì cũng làm được.
Charles nói:
– Vậy ta đi ngay, và bắt đầu ra khỏi phòng.
Tôi bước tới mở cửa nhưng Charles chọc ghẹo tôi, em cắt nghĩa
rằng tôi cần quen với cách đi đứng ở cõi tình cảm là đi xuyên qua cửa không cần
mở. Nghe có vẻ lạ lùng nhưng tôi thấy quả thật là vậy, cánh cửa không còn là
chướng ngại cản tôi đi qua. Phòng ngủ của tôi ở trên lầu nên tôi khởi sự xuống
thang theo cách bình thường. Charles đi trước và tôi để ý thấy hắn không đặt
chân lên nấc thang mà lướt xuống trong không bên trên nấc thang chừng ba tấc,
nên tôi bắt chước làm theo. Mới đầu tôi thấy lạ, nhưng việc không còn sức hút
trái đất mà ta chịu ảnh hưởng ở cõi trần chẳng bao lâu trở thành lợi điểm và ta
quen rất mau.
Chúng tôi đi khá nhanh, tôi theo sát em tôi và vị thầy Ấn Độ
đi ở bên kia của tôi. Tôi hỏi Charles làm sao hắn biết đường tới Anh quốc thì hắn
đáp chẳng bao lâu tôi sẽ biết cách tìm đường dễ dàng. Chúng tôi băng qua hải cảng,
lướt cách mặt biển chừng mười thước. Nhìn quanh tôi thấy đèn ở Colombo mờ xa dần
rồi trong vài giây xem ra chúng tôi không băng ngang qua vật nào cả. Khó mà nhận
ra nơi chốn thực sự chúng tôi đi ngang qua, vì chúng vừa mới ló dạng ở chân trời
thì bọn tôi đã vượt qua chúng. Ngoài ra cảm giác lướt nhanh vùn vụt cũng không
có, vì không có gió thổi tốc vào mặt như khi ta lái xe với vận tốc cao ở cõi trần.
Thấy như không có cản trở chút gì và về sau tôi khám phá là đúng vậy, bởi chất
liệu cõi tình cảm rất thanh nhẹ nên khi lướt qua nó với vận tốc ghê gớm so với
cõi trần thì cũng không gây ra xáo trộn chi.
Trong phút chốc bọn tôi vào đất liền và Charles bảo đây là nước
Anh. Hắn nói chúng tôi đi một mạch theo đường thẳng tới đây, tự nhiên là không
cần phải lượn quanh chướng ngại nào, vì ở cõi tình cảm đi trên biển hay đất liền
không có gì khác nhau. Tôi nhận ra mình tới Anh khi bắt đầu đi chậm lại ngang
qua Dover, và thấy mê say với việc di chuyển dễ dàng. Khó mà mô tả theo ngôn ngữ
thông thường nhưng nếu bạn tưởng tượng là có thể đi theo bất cứ vận tốc nào, chỉ
bằng cách nghĩ tới là được, thì đó là cách sự việc diễn ra. Khi gần vào đất liền
chúng tôi lướt cao hơn và bây giờ chúng tôi lướt cách nhà cửa cao nhất ở London
chừng vài thước.
Lúc chúng tôi rời Sri Lanka là hơn mười giờ đêm một chút, tức
là chừng 5:30 chiều ở Anh. Chúng tôi hạ xuống mặt đất khi tới công viên Hyde
Park. Tôi biết trời vẫn còn sáng vì không thấy có đèn bật lên chung quanh,
nhưng ánh sáng ở cõi tình cảm hiện giờ nơi đây thì y hệt như ở Sri Lanka đang
là ban đêm. Tôi thắc mắc về điều ấy thì được cho hay là vì thể tình cảm không hề
cần nghĩ ngơi nên cõi này không hề có buổi sáng hay tối. Đây là một trong những
điểm thú vị đầu tiên về sự khác biệt giữa hai cõi làm tôi rất chú ý. Charles đề
nghị là tôi đi bộ dọc theo đường Oxford và Regent để xem đi bằng thể tình cảm
thì thấy ra sao. Đi bộ trên đường Oxford nơi tôi vắng xa từ năm 1939 ngay trước
chiến tranh quả thật là điều lạ lùng. Đường chật người vì là giờ tan sở, tuy vỉa
hè đông người nhưng chúng tôi không gặp khó khăn nào, vì chúng tôi đi xuyên qua
thân xác của người đi ngược lại.
Không phải chúng tôi không biết mình đi xuyên qua họ vì tôi
thấy như thể mình đi vào khối sương nhỏ, bị bao trùm trong đó một lúc rồi vượt
ra ngoài và mọi vật sáng sủa trở lại. Lớp sương không làm cản trở chút nào bước
đi của tôi, nhưng tôi cảm biết có nó, và chuyện cũng tương tự vậy khi tôi đụng
người khác cũng đang dùng thể tình cảm của họ, tôi cảm biết họ một chút tuy thể
của họ không ngăn trở gì chúng tôi cả. Ở cõi trần ta hay nghe ai đó rùng mình
nói là dường như có người trong phòng mà họ không thấy, nay tôi biết cảm giác
đó hẳn phải sinh ra khi người trong thể xác đụng chạm người trong thể tình cảm;
vật chất cõi tình cảm rất đỗi thanh nhẹ không gây ra trở ngại gì khi thể xác đi
xuyên qua nó, nhưng sự đụng chạm này cũng để lại một cảm giác phớt qua.
Tôi nghĩ vị thầy Ấn Độ của tôi nhìn hẳn là khác người chung
quanh vì y phục theo lối đông phương của ông. Tôi nói lên điều này và ông bảo:
_Chắc anh không để ý là tôi đã thay đổi cách ăn mặc, nếu bây
giờ nhìn lại anh sẽ thấy tôi có y phục tương tự như người Âu châu quanh đây.
Tôi nhìn lại thì quả thực vậy, ông không còn khăn đội đầu và
bởi mầu da của ông trắng gần như da chúng tôi, trông ông giống như các sinh
viên Ấn Độ hay gặp ở London. Bởi được ông cho hay nên tôi nhìn ông theo hình dạng
mà ông tưởng ra cho mình. Ông giải thích là ta sẽ quen với việc thay đổi trang
phục của mình khi khung cảnh khiến ta nên làm vậy, chất liệu mềm dẻo của cõi
tình cảm sẽ lập tức uốn theo tư tưởng phát ra.
Tôi tỏ ý muốn được đi vào thương xá Selfridges nơi chúng tôi
đang ngang qua lúc ấy. Không ai phản đối nên chúng tôi vào và tôi đi tới khu
bán sách. Tôi luôn luôn thích sách và đưa tay lấy một quyển sách mới lật xem.
Khi làm như thế tôi để ý thấy là trên kệ nơi tôi lấy sách không có khoảng trống
nào cả. Ngạc nhiên hỏi tại sao thì tôi được giải thích là cái tôi cầm trong tay
là hình tư tưởng của cuốn sách tôi muốn xem, còn cuốn sách bằng vật chất không
hề di chuyển đâu cả. Lại thêm một hiểu biết lạ lùng !
Tôi đi dạo trong thương xá rộng lớn vắng vẻ vì dĩ nhiên giờ
này tiệm đã đóng cửa, và tôi nghe rõ ràng tiếng chuông gõ sáu giờ trong khu
hàng gần đó. Biết bao chuyện đã xảy ra trong vòng nửa tiếng đồng hồ từ lúc tôi
ra khỏi thể xác ở cách đây gần mười ngàn cây số. Charles và vị thầy Ấn Độ rất
thú vị khi thấy tôi kinh ngạc với sự việc, nhưng rõ ràng là Charles hân hoan
trong địa vị độc đáo làm người hướng dẫn cho tôi. Y như ta vui sướng chỉ đường
cho bạn hữu từ xa đến nơi đầy bí ẩn với họ nhưng lại là đất nhà đối với ta.
Charles bảo muốn chỉ cho tôi các nơi bị tàn phá ở London
trong những trận oanh tạc, hắn dẫn tôi đi tới nhiều chỗ khác nhau như vương cung
thánh đường St. Paul, làm ta thấy rất rõ là dân chúng London phải chịu đựng ra
sao trong mấy lần dội bom dữ dội. Để thấy rõ sự hủy hoại chúng tôi phải bay lên
khỏi những cao ốc chính của thành phố, nhưng làm vậy không khó chút nào bằng thể
tình cảm. Chúng tôi đang thả bộ trên đường thì Charles nói:
– Đi nào,
và hắn lập tức bay bổng lên trên đầu của dòng người. Tôi thấy
làm theo em rất dễ dàng, vì ngay khi tôi nghĩ trong trí là muốn làm như vậy là
thấy mình bay cạnh Charles một cách thong dong, tự nhiên vượt lên trên thành phố
London đông đúc. Em đề nghị đến xem ngôi nhà xưa của chúng tôi ở Warwickshire,
bao nhiêu năm rồi tôi chưa thấy lại nó và dường như chỉ trong vài giây Charles
đã dẫn tôi tới nơi. Tôi hỏi em làm sao hắn rành đường như vậy khi chỉ mới qua
cõi tình cảm sống trong một thời gian ngắn. Charles nói hắn làm bạn với nhiều
người ở cõi này và họ sẵn lòng chỉ bảo cho hắn đường đi nước bước ở đây, thêm
vào đó việc huấn luyện phi công trong Không lực Hoàng gia Anh mà hắn theo học,
đã dạy cho Charles nhiều điều về việc đi tới chỗ theo đường chim bay. Nhìn dòng
sông Avon chảy uốn lượn qua miền đồng quê xinh tươi của Warwickshire thật là dễ
chịu, chẳng bao lâu chúng tôi đáp xuống đất gần nơi nhà cũ của chúng tôi tọa lạc.
Nơi này quen thuộc với tôi biết bao, cho dù kể từ lúc tôi thấy nó lần chót tới
nay đã có nhiều căn nhà nhỏ mọc lên chung quanh. Ngôi nhà vẫn vậy, ngay cả hai
sân cỏ trước và sau nhà thấy vẫn y hệt như khi Charles và tôi chơi đùa ở đó hồi
nhỏ. Tôi tự hỏi bây giờ ai đang sống trong đó, bởi nó không còn thuộc về chúng
tôi nữa; nhà đã bán đi sau khi ba tôi qua đời vì mẹ tôi không đủ tài chánh để
chăm lo ngôi nhà lớn như thế, còn tôi là con trai lớn thì làm việc ở Đông
phương lập thân.
Tôi bước vào nhà, đây là lần đầu tiên tôi bắt đầu ý thức là
cánh cửa đóng không còn là trở ngại, và thấy người lạ cư ngụ trong những phòng
mà chúng tôi yêu mến thuở xưa. Tôi biết nghĩ như vầy là điên, nhưng tôi thấy họ
giống như ai đó đột nhập vào nhà mình không xin phép, và với bàn ghế khác lạ bầy
chung quanh, không khí căn nhà đã thay đổi hẳn.
Chúng tôi không nán lại đây lâu mà chẳng mấy chốc quay về
London. Đứng ở giữa khu Piccadilly Circus thật là rộn ràng háo hức, đây là nơi
mà các cô gái bán hoa tươi lúc thời bình, nay tượng Eros đã bị dời đi vì lý do
an ninh. Đám đông vẫn còn đó với xe bus, xe taxi tiếp tục chạy đường thường lệ
của chúng, điều khác biệt duy nhất và rõ rệt là số đông người nam và nữ mặc
quân phục. Thực vậy số quân nhân xem ra đông hơn dân sự, và cảnh tượng làm tôi
hiểu rằng Anh quốc không những là nước đang có chiến tranh, mà còn là quốc gia
mong muốn rằng mỗi ai khoẻ mạnh nam hay nữ góp phần vào việc bảo vệ quê hương
yêu mến của mình.
Khoảng gần 7 giờ Charles đề nghị ăn tối ở nhà hàng Trocadero
Grill. Chúng tôi vào tiệm và thấy đa số các bàn nhỏ dọc theo tường đã có người
ngồi. Khi ấy vị thầy Ấn độ nói rằng ông để Charles lo cho tôi trong lúc hai
chúng tôi ăn tối vì ông có chuyện khác phải làm, và sẽ gặp chúng tôi sau đó.
Ông đoan chắc với tôi rằng Charles dư sức chỉ dẫn tôi về loại giải trí ở cõi
tình cảm, và rời chúng tôi với lời nói thân ái.
– Chúc các bạn ăn ngon.
Charles giải thích một trong những điểm rất quan trọng mà ta
cần phải hiểu, khi ăn uống ở cõi tình cảm trong nhà hàng có thật ở cõi trần, so
với cũng việc này nhưng trong nhà hàng mà ta tạo ra bằng óc tưởng tượng hay tư
tưởng. Hắn nói rằng không bao giờ nên ngồi vào bàn thực sự có ở cõi trần vì tuy
chúng vô hình, người khác vào nhà hàng thấy bàn trống nhưng không thấy được
chúng tôi sẽ đương nhiên chiếm bàn, làm chúng tôi bị khó chịu một chút. Khi ngồi
xuống họ sẽ không cảm thấy sự hiện diện của chúng tôi, nhưng chuyện sẽ xẩy ra
cho bọn tôi y như khi đi ngang qua đám đông trên đường. Lúc người sống mà ngồi
vào ghế bạn đang ngồi trong thể tình cảm, tự nhiên bạn cảm thấy có gì đó, và
tuy chuyện không cho cảm giác khó chịu nhưng nó cũng không hoàn toàn dễ chịu.
Charles bảo ta có thể tránh được bằng cách dùng tư tưởng tạo ra bàn cho mình ở
chỗ mà không có bàn nào tại cõi trần . Hắn làm vậy tức thì ngay giữa nhà hàng
Trocadero và kêu tôi ngồi xuống. Em bảo tôi rằng hắn cũng dùng tư tưởng sinh ra
một người hầu bàn mà chúng tôi sẽ thấy y hệt như những người hầu bàn khác đang
đi lại tới lui lo công việc của họ, nhưng các khách hàng bằng thể xác đang ở
trong tiệm sẽ không thấy người hầu bàn nầy. Hắn thực hiện như lời và lập tức
tôi thấy một người hầu bàn đi tới bàn chúng tôi, hỏi xem chúng tôi muốn uống
gì, y như cách mình nghĩ sẽ có nếu là người bình thường trong thể xác. Charles
kêu một ly dry sherry còn tôi là whisky với soda, vì hắn bảo việc tôi được dặn
đừng uống rượu trong hai ngày trước khi có cuộc thí nghiệm này thì không áp dụng
ở đây. Rượu được mang tới cho Charles và tôi, nếm thì thấy y như tôi đã tưởng.
Chuyện được giải thích cho tôi là nếu ngoài đời chưa từng nếm whisky, tôi sẽ không
thể nào biết được vị của nó ở cõi tình cảm, tuy đương nhiên tôi sẽ cho chất lỏng
mà mình nếm ở cõi tình cảm là whisky.
Charles kể là khi vị thầy Ấn độ giảng cho hắn về những chuyện
này, ông bảo hắn kêu thức uống. Ông chỉ kêu ly nước và giải thích với Charles
là ông kêu rượu whisky, vodka hay sherry chỉ vô ích, bởi ông không hề nếm những
thức này trong đời hiện tại ở cõi trần, ông không thể tưởng tượng ra được vị của
các rượu ấy và sẽ không thấy vui thú chi. Sự việc cũng y vậy với chuyện hút thuốc.
Vị thầy Ấn độ không hề hút thuốc nên ông luôn luôn từ chối khi được mời thuốc
lá ở cõi tình cảm, tưởng tượng việc hút thuốc vào và phà khói ra không thú vị
gì đối với ông. Nghe hợp lý và tôi mừng là mình biết uống rượu, hút thuốc và đó
là hai thú vui giản dị tôi thích hưởng lúc này.
Chúng tôi nhấm nháp rượu và ngắm nhìn khách trong tiệm, nghe
được cả tiếng trò chuyện rì rào chung quanh, tôi nghiệm ra nó đúng như lời nói
rằng mỗi âm thanh cõi trần có âm tương ứng ở cõi tình cảm, mà ai trong thể tình
cảm đều có thể nghe được. Nhìn đủ loại người khác nhau tới rồi đi không ngớt,
tôi thấy khó mà tin là bấy giờ nước Anh đang bị dồn vào chân tường phải chiến đấu
dữ dội để sống còn. Ai nấy đều có vẻ rất yêu đời, cười đùa rộn rã lẫn với tiếng
nói huyên thuyên không dứt.
Charles gọi to một thanh niên mặc đồ không quân vừa tới, cả
hai mừng rỡ chào hỏi nhau. Charles đưa anh ta lại bàn chúng tôi và giới thiệu
đó là Roy Chapman, một phi công tử trận trong cuộc oanh tạc dữ dội nước Anh mùa
thu năm trước. Anh chàng dễ thương và khi tôi hỏi anh thấy cảnh sống ở cõi tình
cảm ra sao, câu đáp của anh giải thích sự việc thật rõ. Anh nói:
– Sống được lắm, nhưng sau một thời gian thì đâm chán. Mới đầu
mình hứng chí là muốn gì được đó khỏi phải trả tiền, nhưng mãi thì cũng quen
không còn lạ lùng nên nói thật, tôi vẫn muốn sống với phi đội của tôi.
Tôi nghĩ đây là cơ hội độc đáo để tìm hiểu về sự việc nên hỏi
anh làm gì cho hết ngày giờ, Roy đáp là hứng gì làm nấy, rồi nói tiếp hiện anh
đang chờ cô gái mà anh quen để đi ăn tối. Tôi hỏi cô bạn sống hay chết. Anh bảo:
– Dĩ nhiên là chết nếu anh muốn dùng chữ cổ lổ sĩ ấy. Hẹn hò với
người còn ở cõi trần chỉ vô ích, bởi giữa chừng câu chuyện thích thú thì họ phải
quay trở về xác thân.
Trong vài phút trước khi bạn gái của anh đến, tôi hỏi chuyện
và được nghe là anh đã chơi hết tất cả những trò thường có và thấy chán ngấy.
Thí dụ như chơi golf thì chẳng bỏ công (trước khi qua đời Roy là tay chơi gofl
hạng khá), khi tất cả việc bạn phải làm chỉ là tưởng tượng mình đánh trúng vào
lỗ và chuyện xẩy ra y hệt như thế. Không còn phải tranh tài, vì bạn chỉ cần
nghĩ ra hình tư tưởng đối thủ bị đánh bại là đủ biến nó thành sự thật. Chơi bi
da cũng thế, nghĩ là được khiến chơi không còn gì vui. Yếu tố may rủi không còn
đã biến mọi trò chơi cần tài năng hóa ra hết lý thú. Tôi nhìn ra việc ấy và thấy
là vị thầy Ấn Độ nói đúng, khi ông dạy rằng đời sống ở cõi tình cảm có thể buồn
chán cho ai mà thú vui hoàn toàn dựa vào cảnh sống cõi trần.
Tôi hỏi Roy lúc còn sống anh có thích nhạc hay nghệ thuật
chăng và anh trả lời là không. Anh biết khiêu vũ và thỉnh thoảng nghe nhạc
nhưng không để ý tới nhạc cho lắm. Tôi nghĩ là về sau, khi đã mệt với cảnh gặp
bạn bè chơi bời và sống bên lề cuộc sống cõi trần, anh sẽ tìm ra được chuyện
khác làm anh vui hơn, bằng không cuộc đời khi ấy sẽ chán hết sức. Tới đây thì bạn
gái của anh đến và anh chàng quả có mắt tinh đời. Cô bạn thật xinh đẹp, đẹp thiệt
tình, hai người tạo nên một cặp lý tưởng khi họ xuống cầu thang ra phòng ăn,
nơi tôi chắc họ định ăn tối. Tôi bảo Charles là muốn hỏi hắn cảm thấy gì khi mới
bước qua cõi tình cảm, hắn nói không muốn nhắc tới chuyện cũ cho lắm:
– Không ai trong bọn em thích nói về chuyện đó, anh à.
Tôi thắc mắc tại sao nhưng không muốn hỏi thêm lúc ấy.
Chúng tôi đi xuống phòng ăn và chọn chỗ gần góc phòng không
có bàn, và Charles tạo ra cái bàn bằng hình tư tưởng cho hai chúng tôi. Vừa an
vị thì một người hầu bàn tới và hỏi chúng tôi muốn ăn gì. Charles bảo tôi gọi bất
cứ món gì tôi thích. Phải nói thật là tôi không đói cho lắm nhưng kinh nghiệm độc
đáo này làm tôi gọi món cá chiên ròn, món gà hấp rượu, tráng miệng và tách cà
phê đen. Charles kêu hai ly sherry và một chai Chambertin 1933, bảo đây là năm
hắn biết có rượu ngon. Tôi hỏi chúng có thuộc những rượu được bán trong thời
chiến và Charles đáp không biết, tuy nhiên chuyện không quan hệ vì ở cõi trung
giới bạn gọi gì thì có nấy bất kể cõi trần có hay không. Tôi ăn ngon với món ăn
nấu y như tôi tưởng, đương nhiên rồi. Dầu vậy tâm trí không sao quen được cảnh
mình như đang ngồi trong nhà hàng Trocadero, ăn một bữa tối thật là bình thường
với Charles thân yêu, chung quanh là hạng người tôi biết sẽ có mặt nơi đây gần
như mỗi tối trong tuần.
Ngay khi đó tôi nhận ra một người bạn cũ không gặp từ nhiều
năm qua. Lần chót chúng tôi gặp nhau là trên tàu năm 1935, lúc tôi quay trở lại
Sri Lanka sau kỳ nghỉ phép còn anh đi Malaya. Tôi đi về phía anh để Charles ngồi
lại một mình. Bạn tôi trong nhóm bốn người thấy đang hứng chí hết sức, vì anh kể
chuyện hăng say theo cách của anh từ hồi nào đến giờ. Tôi đập nhẹ vai anh và hỏi:
– Bạn làm gì ở đây ?
Nhưng anh không để ý gì đến tôi cả mà tiếp tục câu chuyện của
mình, thấy anh đang vui lắm vì tôi có thể nghe rõ từng chữ anh nói, và mấy bạn
của anh có những tràng cười vui thích. Tôi ý thức là không thể nào làm cho anh
biết là có tôi nên bực bội quay trở về bàn, thấy Charles thú vị với sự bất mãn
của tôi. Tôi hỏi:
– Làm sao biết là anh ta thực hay không thực ?
Charles đáp là hắn thấy ngộ nghĩnh với việc tôi dùng chữ 'thực'
và 'không thực' vì hai chữ ấy không áp dụng ở đây. Em giải thích là mới đầu thì
khó mà nói nhưng có sự khác biệt: với ai còn dùng thân xác vật chất thì thể
tình cảm mà chúng tôi thấy không có đường nét rõ rệt cho lắm, còn ai đã mất
thân xác và ở thường xuyên nơi cõi tình cảm cũng như ai qua cõi tình cảm lúc ngủ,
thì thể tình cảm của họ có đường nét rõ ràng hơn. Ngoài ra còn một khác biệt nữa
cần để ý, là sợi dây bạc mờ bằng chất ether luôn luôn dính vào người chỉ tạm thời
sang cõi tình cảm một lúc, trông họ không hề sống động bằng người thường trực ở
đây. Chẳng bao lâu bạn sẽ quen phân biệt ngoại trừ khó mà thấy sợi dây bạc.
Em kêu tôi so sánh Roy Chapman với những thực khách khác
trong phòng ăn. Quả thực có sự khác biệt vì đường nét thể tình cảm của anh
chàng thấy rõ rệt hơn so với những người khác. Lý do của việc có thể là khi thể
tình cảm được dùng làm thể chính nơi người đã mất xác thân vật chất, linh hồn
trong thể này không còn sống hai nơi như trong trường hợp của người còn ngụ ở
cõi trần.
Bữa ăn của chúng tôi đã xong và khi nhấm nháp ly rượu ngọt
tôi thấy một màn vũ sắp bắt đầu. Tôi thấy tầm quan trọng của việc ai đang bị
căng thẳng vì sống trong cảnh chiến tranh cần được giải khuây khi nào có dịp.
Thấy rõ ràng là cảnh trong phòng trước mắt tôi không có chút gì là chiến tranh,
nhưng người ta có thể thấy sự căng thẳng đằng sau cuộc vui ngoài mặt lúc này,
vì những ai hiện diện đều biết là tương lai hết sức bấp bênh, và chuyện gì cũng
có thể xẩy ra cho họ hay cho người thân bất cứ lúc nào. Màn vũ có những vũ viên
ăn mặc thật khêu gợi, và trong lúc vũ họ tiến tới tiến lui trọn những khoảng trống
giữa mấy bàn ăn, tức chỗ có bàn của chúng tôi ở cõi tình cảm. Thế nên chúng tôi
lại có cảm giác lạ lùng khi người trong thân xác vật chất đi xuyên qua thể tình
cảm của tôi.
Sau màn vũ Charles đề nghị dẫn tôi đến một hộp đêm nhỏ mà hắn
là hội viên trước khi bị bắn rơi. Tôi không nhớ con đường có hội quán này nhưng
tôi biết nó nằm giữa công trường Leicester và Soho. Chuyện diễn ra y hệt như tại
nhà hàng Trocadero, Charles tạo ra cái bàn cho chúng tôi và người hầu bàn lấy
rượu theo ý hai tôi, chắc người này cũng là do sự tưởng tượng của cậu em mà ra.
Chuyện quan trọng kế hẳn phải xẩy ra lúc 10 giờ đêm tại Anh.
Hộp đêm chật nghẹt người vừa quân nhân vừa một số dân sự. Thình lình còi báo động
vang lên cho biết có phi cơ địch tới dội bom. Chứng kiến cảnh ai nấy đi ra có
trật tự hoàn toàn không hốt hoảng là kinh nghiệm lý thú. Tất cả khách trong hộp
đêm vội vã tới những hầm trú ẩn nằm ở đủ chỗ lạ lùng, ngoại trừ đường xe điện
ngầm là nơi đóng vai trò hết sức quan trọng cho sự an toàn của dân chúng tại
London trong những cuộc oanh tạc. Chúng tôi ra khỏi hộp đêm và đi về
Piccadilly. Lúc này trời đã tối nhưng đối với chúng tôi ánh sáng vẫn là mầu
xanh xám như khi bắt đầu đi ở Sri Lanka. Chưa gì chúng tôi đã nghe tiếng bom
rơi, tiếng súng nổ 'lạch tạch' như xé không khí lúc bấy giờ. Rồi tới một lúc
yên lặng và nghe có tiếng gầm thét của chiến đấu cơ thuộc phi đội nhà bắt đầu
phản công.
Vào khoảng này tôi thấy vị thầy Ấn Độ trở lại với chúng tôi,
ông đề nghị chúng tôi đi xem có thể giúp được gì. Tôi không hiểu ý ông lúc đó
nhưng cũng làm theo, chúng tôi lập tức bay bổng lên khỏi các cao ốc, lượn quanh
thành phố London với oanh tạc cơ của địch và phi cơ chiến đấu của Anh đông đầy
quanh chúng tôi. Tôi để ý thấy Charles đâu mất nên tỏ thắc mắc, không biết em
có lạc chúng tôi chăng. Tôi được giải thích là hắn luôn luôn biến dạng khi phi
cơ quần thảo nhau, vì ký ức bị bắn rơi không lâu trước đó vẫn còn quá sống động
trong trí. Vị thầy Ấn Độ bảo:
– Chắc lát nữa ta sẽ gặp lại anh chàng.
Nhưng sau đó tôi cũng không thấy em đâu dù rằng cho tới bây
giờ tôi mới nhận ra điều ấy.
Chúng tôi bay lượn giữa biển lửa đang hoành hành, tai nghe tiếng
bom và súng máy trong suốt khoảng thời gian ấy. Đó là lần đầu tiên tôi thực sự
cảm biết đời phi công và oanh tạc là sao, và nhận thức là vài hành động vô
trách nhiệm mà bọn họ làm lúc nghỉ ngơi giữa hai phi vụ chỉ là kết quả đương
nhiên, sinh ra do sự căng thẳng họ gặp phải khi lâm trận. Nay tôi hiểu rất rõ
câu nói xưa:
– Ăn chơi cho thỏa đi vì ngày mai ta sẽ chết.
áp dụng rất đúng cho họ, và ai có thể trách được nếu họ tìm mọi
cách để xả hơi trong thời gian ngắn ngủi dành cho việc giải trí ? Vị thầy Ấn Độ
bay theo một chiếc phi cơ chiến đấu đặc biệt dường như đang ở giữa cuộc không
chiến xẩy ra lúc ấy, có vẻ như ông biết chuyện sắp diễn ra và chỉ vài giây sau
một tràng súng máy làm phi cơ đâm xuống đất. Chúng tôi bay theo với cùng vận tốc
còn phi cơ vừa rơi vừa lộn nhiều vòng, tôi thấy lửa phát ra từ động cơ rồi dần
dần bao phủ lấy trọn phi cơ. Phi cơ trúng mặt đất với tiếng động lạnh mình, và
viên phi công bị bắn tung ra khỏi phòng lái giữa các mảnh vụn. Trong vài khoảnh
khắc nó đúng là biển lửa và tuy xe cứu thương đến gần như là tức thì, thấy rõ
là không còn có thể làm gì cho người phi công kém may mắn. Vị thầy Ấn Độ nói:
– Bây giờ anh sẽ thấy người có hiểu biết giúp được ra sao.
Khi chúng tôi đáp xuống mặt đất thì thấy tuy thân xác của người
phi công bị cháy nám ghê gớm, gần như không còn hình thù nhận ra được là của
người, nhưng con người thật trong thể tình cảm đang đứng cạnh thể xác nằm trên
đất, trông anh đầy vẻ kinh hãi và tội hết sức. Khi vị thầy đi lại và nói chuyện
với anh, làm như anh không nghe hay để ý chuyện chi. Tôi thấy vật giống như tấm
áo khoác bằng vật chất đặc tìm cách quấn quanh thể tình cảm của viên phi công
đang đứng trước mặt chúng tôi. Trông nó giống như chất thun dầy và bao trùm gần
kín hết thể tình cảm có hình dạng rõ nét. Việc phủ trùm này chỉ diễn ra vài
giây là xong. Tôi chỉ có thể mô tả nó như bóng ma phát xuất từ thể xác nằm trên
mặt đất, và làm như bóng bị thu hút bằng từ lực vào người phi công đứng gần đó.
Về sau tôi được dạy sự việc đúng là như thế, và được giải thích là thể sinh lực
(thể phách), cái bị đẩy ra khỏi thể xác vào lúc ta qua đời, quấn quanh thể tình
cảm để tìm cách giữ lại sự sống cho nó, vì cái chết của thể xác cũng có nghĩa
là chấm dứt sự sống của thể sinh lực, vốn là một phần của thể xác.
Vị thầy Ấn Độ khi ấy cố gắng hết sức để làm anh mất sự kinh
hoảng đang có, vì tôi có thể nghe anh được khuyên nhủ rằng không có gì phải sợ
hãi mà mọi việc rồi sẽ tốt lành. Cậu nhỏ -
vì anh rất trẻ - làm như mê mẩn với
hoạt động rộn ràng đang xẩy ra chung quanh anh ở cõi trần. Anh thấy nhân viên cứu
thương sau khi dập tắt phần sót lại của ngọn lửa đã thiêu rụi chiếc phi cơ chiến
đấu, nhấc lấy thể xác của anh và kính cẩn mang ra xe cứu thương đang chờ. Tôi
thấy cậu nhỏ thỉnh thoảng rùng mình vì xem ra bom nổ gần chúng tôi. Anh muốn đi
theo thể xác của mình, nhưng vị thầy khuyên can, nói hoài trong lúc này bằng giọng
êm ái, tìm cách làm cho anh hiểu ra là khó khăn của anh đã xong rồi. Vài người
cư ngụ thường trực ở cõi tình cảm có mặt ở đó, và dễ nhận ra họ ngay so với
nhân viên cứu thương hay ai tới phụ ở cõi trần, tiến lại hỏi chúng tôi có cần họ
giúp chăng. Vị thầy bảo họ đi giúp kẻ khác vì ông sẽ ở đây lo cho 'trường hợp'
của chúng tôi.
Tôi không nghe hết tất cả những lời mà ông nói, nhưng sau một
lúc tôi thấy dường như mặt cậu nhỏ lóe lên chút hiểu biết, ngay lúc đó chất liệu
đeo dính bao phủ anh một phần bắt đầu rã ra và rơi xuống đất. Việc được giải
thích là sự phân rã này do chính cậu nhỏ làm, khi cậu được kêu dùng ý chí tách
rời mình với chất liệu. Sau một lúc nó rơi hết xuống đất và có vẻ như tan biến
thành khói bụi. Về sau tôi được dạy là thể tan rã rất mau lẹ, vì chất ether tạo
nên thể là chất tương đối thanh nhẹ so với vật chất của thể xác đậm đặc. Khi đó
cậu nhỏ như choàng tỉnh, cậu ngồi bệt trên đất lấy hai tay ôm đầu và khóc sướt
mướt. Vị thầy để cậu khóc một lúc, vì ông giải thích là thể tình cảm của cậu bị
căng thẳng rất mực, nên cần để cho phản ứng tự nhiên diễn ra.
Cậu nhỏ có vẻ như nghĩ rằng mình không làm tròn được bổn phận,
và ngay cả khi đó làm như vẫn chưa ý thức rằng mình đã chết, đã rời khỏi cảnh sống
ghê gớm như địa ngục mà mình đã biết. Vị thầy Ấn Độ nói:
– Nào, anh đi với tôi rồi mình sẽ nói về chuyện này.
Ông nắm lấy tay anh, và với cậu nhỏ dường như không để ý,
chúng tôi bay vút đi khỏi cảnh tượng đó, chỉ vài giây sau chúng tôi đã ở xa chỗ
ấy tiến vào vùng quê. Vị thầy đưa anh đến một chỗ xinh đẹp gần cánh rừng, có
dòng suối uốn lượn chảy vào con sông lớn bên dưới, chúng tôi ngồi yên lặng bên
bờ suối và so với cảnh địa ngục cháy nóng vừa bỏ đi thì nơi đây như cảnh thiên
đàng. Vị thầy bắt đầu nói và dần dần làm biến đi cảm giác sợ hãi, kinh hoàng
còn vương vấn, trong khi ấy cậu nhỏ lắng nghe lời giải thích ngắn gọn về chuyện
đã xẩy ra.
Ban đầu cậu không tin là mình đã chết và cứ hỏi:
– Làm sao tôi có thể chết được khi thấy mình đầy sức sống ?
Chúng tôi mới hỏi nhà cậu ở đâu và cậu cho biết.
– Vậy đi nào, mình tới coi ba má em đã ngủ chưa.
Cậu nhỏ không hiểu chi cả nhưng cậu chỉ căn nhà mà gia đình
cư ngụ, ở quá Finchely một chút. Tới đó chúng tôi thấy cả nhà vừa mới lên giường
nhưng chưa thiếp ngủ. Cậu nhỏ dường như không ý thức là có người lạ đi lại
trong nhà nhìn ngắm ba má mình, còn vị thầy tiếp tục nói chuyện để làm cậu phân
tâm không nhận ra chuyện đúng ra lạ lùng đối với cậu.
Sau một lát ba cậu thiếp ngủ trước rồi kế đó là mẹ cậu, vừa
khi hai ông bà tách ra khỏi thân xác họ tỏ ra mừng rỡ vì gặp con trai. Vị thầy
bắt đầu kể cho hai người nghe chuyện đã xẩy ra, tìm cách chuẩn bị họ về tin báo
tử ngày mai sẽ đến. Đương nhiên ban đầu họ kinh sợ với chuyện nhưng khi nhận ra
rằng mình không hề mất con trai, mà có thể gặp và tiếp xúc con bất cứ khi nào họ
ngủ và ra khỏi thể xác, phần lớn nỗi đau khổ ập xuống họ bất chợt lúc ban đầu
nay biến mất.
Đáng tội là người ta không nhớ điều mình đã thấy và được chỉ
dẫn lúc ngủ, và thường thường họ không nhớ gì cả. Nay tôi có thể hiểu tại sao
nhiều người có cảm tưởng lo lắng trước khi tin dữ đến, hay trước khi có tai nạn,
có ai qua đời trong nhà. Ấy là vì họ được cho biết trước ở cõi tình cảm, và
sáng hôm sau lúc thức dậy còn hồi nhớ một chút trong tâm não.
Sau khi nán lại với họ một lúc, giải thích rất nhiều về cái
chết thực sự nghĩa là gì, vị thầy đề nghị cậu nhỏ đi với ông để được giới thiệu
với một bà đang làm việc ở cõi tình cảm, và rất sẵn lòng chỉ dẫn cho cậu cách
thích nghi với cuộc sống trong điều kiện mới. Thế rồi chúng tôi rời cha mẹ cậu
ra đi, để hai ông bà vẫn còn ngồi trong căn nhà ở cõi trung giới, bàn luận với nhau về chuyện họ vừa được
nghe. Cặp vợ chồng này chưa tiến hóa mấy nên họ không đi xa cho lắm khỏi xác
thân vật chất đang nằm ngủ trên giường, không hay biết điều mà chủ nhân của xác
sẽ phải gặp vào sáng hôm sau.
Vị thầy Ấn Độ khi ấy đứng lặng yên một lát rồi cất tiếng phát
ra nốt đặc biệt, nó không phải là tiếng huýt sáo mà tương tự như vậy. Lập tức
sau đó một thiếu phụ chừng ba mươi lăm tuổi có vẻ như từ đám sương mù hiện ra với
chúng tôi, đáp lại nốt kêu gọi đó. Vị thầy giải thích là muốn tiếp xúc với ai ở
cõi tình cảm thì người ta chỉ cần nghĩ thật mạnh mẽ về họ, và nếu đó là chuyện
khẩn cấp thì để phụ vào tư tưởng ấy, ta cũng làm vang lên cái 'nốt thật' của cá
nhân này. Tôi nghe là mỗi người có cái gọi là 'nốt thật' của mình khác với nốt
của bất cứ ai khác, làm vang lên nốt ấy trong trường hợp khẩn cấp khiến mang được
người mà ta cần đến một chỗ trong thời hạn ngắn nhất. Họ nghe được nốt ấy và sẽ
bị thu hút bằng từ lực đến người gọi.
Thiếu phụ đáp lời kêu gọi của ông là một trong những người cứu
trợ vô hình, tận tụy làm việc giúp đỡ những ai vừa rời bỏ cõi trần mà ta gọi là
cái chết, và nay tôi có thể ý thức trọn vẹn là công việc này cần thiết lẫn tuyệt
diệu ra sao. Nếu không có những người tình nguyện như thế, điều dễ thấy là ai
qua đời phải mất nhiều thì giờ hơn để thải ra thể sinh lực quấn vào thể tình cảm
của họ vì đời sống ở cõi tình cảm không thể thực sự bắt đầu bao lâu chưa làm vậy.
Cái lợi còn là có người chỉ dẫn họ những điều kiện khác biệt ở cõi này.
Chẳng mấy chốc thiếu phụ được cho hay hết mọi chi tiết về
'trường hợp' của chúng tôi, bà tỏ ra đầy thông cảm làm cậu trai thấy tự nhiên dễ
chịu, và bà đưa cậu đi nơi khác để chỉ dẫn về lối sống ở cõi trung giới. Tôi được
cho hay là chuyện như vậy luôn luôn xẩy ra, không ai bị để bơ vơ phải tự mình
tìm hiểu sự việc nơi đây, mà luôn luôn có người được giao nhiệm vụ thực hiện phần
việc này. Theo cách đó người mới tới chẳng bao lâu bắt đầu hiểu cảnh sinh hoạt,
và bước vào cuộc đời mới thay cho đời cũ ở cõi trần anh đã bỏ lại sau lưng.
Khi ấy vị thầy hỏi tôi giờ, nhìn vào đồng hồ gần đó tôi thấy
hai giờ khuya. Nó có nghĩa bốn giờ đã trôi qua từ lúc có còi báo động, vậy thì
tại Sri Lanka đã 6:30 sáng rồi. Ông bảo chúng tôi chỉ còn hơn một tiếng đồng hồ
vì tôi phải trở về thân xác lúc 8 giờ sáng ở Colombo. Ông đề nghị là sẽ giới
thiệu cho tôi những cảnh đời khác có thể sống ở cõi tình cảm, cho ai không bị
ràng buộc vì lòng ham muốn vật chỉ có căn bản vật chất mà thôi. Thế nên ông bảo
tôi hãy theo sát và vút đi. Chúng tôi bay ngang qua biển không thấy bến bờ đâu
cả, ông hỏi tôi có bao giờ tò mò muốn biết dưới nước có gì, tôi thú thật là
chưa hề nghĩ nhiều về việc ấy. Vị thầy mới bảo rằng ở cõi tình cảm người ta có
thể tiếp xúc với những thực thể thuộc về đường tiến hoá song song với người, thí
dụ cá và chim không đi theo đường nhân loại để tới sự toàn thiện mà tiến hóa
theo một cách riêng, khác hẳn, là đường thiên thần. Tuy nhiên trước khi tới đẳng
cấp thiên thần, chúng phải tiến hóa qua những chặng là tinh linh (elementals),
tiên nữ và loài tương tự, và nếu tôi muốn hiểu đôi điều về đường tiến hóa này,
tốt hơn tôi nên bắt đầu từ dưới đáy và đi dần lên trên theo thứ tự đúng cách.
Ông đề nghị mang tôi xuống nước, khuyến cáo rằng dù có chuyện
gì xẩy ra tôi phải không được kinh hoảng, bằng không nó có nghĩa tôi bị lập tức
trở về thể xác và không còn nhớ chút gì chuyện đã thấy đã làm tối nay. Vị thầy
nhắc lại lần nữa việc cần phải mất lòng sợ hãi đối với tất cả những vật liên hệ
tới cuộc sống ngoài cõi trần, và hỏi xem tôi thấy mình làm được như thế không.
Tôi luôn luôn là người cái gì cũng thích làm một lần cho biết, nên tỏ ý sẵn
lòng đi theo ông. Tôi được dặn là đi xuống nước không ảnh hưởng chút gì đến thể
tình cảm của tôi, vì thể ấy không cần thở nên ở trên hay ở dưới mặt nước cũng
không có chi khác biệt.
Chúng tôi đi xuống nước và tuy biển có vẻ hơi động nó không
gây cản trở gì cho chúng tôi. Cảm giác về nước khác hơn một chút so với khi
trên đất liền. Nhiệt độ có vẻ không thay đổi và khi chúng tôi từ từ chìm xuống,
chìm rất chậm để tôi không phải lo lắng, tôi không thấy có gì khó chịu. Khi đầu
tôi chìm sâu dưới những lượn sóng, tôi mừng thấy ánh sáng không thay đổi, nó vẫn
là mầu xám xanh mà tôi bắt đầu quen thuộc. Chung quanh tôi nhiều sinh vật di động
tới lui và tôi nhận ra đó là mấy con cá, nhưng với số lượng không ngờ. Xuống
sâu hơn thì số cá ít đi, và cá mà tôi thấy thì to hơn đáng kể, di chuyển chậm
hơn nhiều so với cá trên mặt. Cũng có những khối rất lớn trông như đá nổi nhưng
lại gần hơn tôi thấy chúng có mắt lân tinh, muốn nói có sự sống nào đó. Vị thầy
giải thích quả đây là sinh vật sống động, chúng ở giai đoạn từ cá sang tinh
linh, chúng không hề đi lên mặt nước mà cũng chưa hề thấy người vì sinh sống ở
độ sâu quá tầm thả lưới của ngư phủ.
Sau một lúc rất ngắn theo cách tính thời gian của người,
chúng tôi xuống tới đáy biển và đi trên đất vững chắc trở lại, mà không giống
như mặt đất vì nó đầy đá và gồ ghề. Nhưng cảnh tượng mới lạ lùng làm sao ! Trọn
đáy biển là một cảnh vườn, có bụi cây đầy hoa, hoa biển đủ loại và đá lấp lánh
muôn ngàn mầu sắc. Rải rác đó đây tôi thấy có hang động, chúng không tối nhưng
hiển nhiên không ánh sáng như bên ngoài và tôi được dẫn vào một hang như thế.
Đó là nơi cư ngụ của tinh linh biển, thấy có nhiều hang như vậy trên đáy biển.
Mới đầu tôi rụt lại khi nhìn vào vật to bằng con voi mới lớn
phân nửa, có mắt lân tinh chiếu sáng nhấp nháy trong bóng tối của hang khiến nó
giống như đầy sức thu hút. Tôi được dạy là quả thật các sinh vật này quyến rũ
con mồi của chúng như cá và hải vật đến với mình bằng từ lực trong mắt. Tôi cảm
thấy sự lôi kéo và trong một phút chốc có hơi sợ hãi, nhưng vị thầy Ấn Độ không
hề đi xa tôi, trấn an rằng vật không thể làm hại tôi và tôi không có gì phải sợ.
Thấy rõ là sinh vật mà chúng tôi nhìn vào biết có sự hiện diện của chúng tôi,
tôi được dạy rằng hình mà chúng tôi thấy là thể tình cảm của vật.
Chúng tôi ra khỏi hang và tôi lại một lần nữa nhìn cảnh trí
tuyệt đẹp chung quanh thật mãn nhãn. Trong lúc ấy tôi nghe có tiếng động trầm,
rập rình hơi giống tiếng nhạc một chút. Chúng tôi đứng yên trong lúc nó tiến lại
gần hơn và chẳng bao lâu tôi thấy có một nhóm chừng hai mươi sinh vật lạ lùng,
không phải cá mà cũng không phải người hay thú vật. Chúng có đầu người, theo
nghĩa có đường nét giống người nhưng thân hình lại hoàn toàn được vật trông như
rong biển quấn quanh lượn lờ, xinh đẹp hơn bất cứ điều gì khác tôi đã thấy trước
đây. Khi trôi đi chỉ bên trên đáy biển một chút, chúng hát một điệu hát trong
khi vài sinh vật chơi nhạc cụ giống như cái ống kỳ dị, phát ra âm vi vút như tiếng
gió. Kết quả là âm điệu tuyệt hay và tôi được dạy rằng chúng là hải tiên sống ở
chỗ nào có biển sâu. Tôi có thể lắng nghe nhạc của chúng một lúc rất lâu, vì nó
giống như điệp khúc tới rồi lui, nốt không phân biệt rõ từng cái một mà quyện lẫn
vào nhau ít nhiều thành khúc nhạc du dương êm ái. Quả đó là khúc hoà tấu của
trùng dương mà tôi muốn nghe thêm. Tôi được dạy là có thể dễ dàng làm vậy vào một
dịp khác nếu muốn, nhưng nay đã tới lúc chúng tôi phải về.
Tôi đi theo sát vị thầy, chẳng bao lâu chúng tôi trồi lên mặt
biển và không cần cố gắng chi, phóng lên không tiếp tục cuộc hành trình. Một lần
nữa chúng tôi lại đi với tốc độ thật mau lẹ xét theo tiêu chuẩn trên mặt đất,
tuy thực ra không có cảm giác nào về vận tốc, vì chỉ trong vài phút có vẻ như
chúng tôi đi chậm lại và tôi thấy chúng tôi bay ngang qua cảng Colombo. Chốc
lát sau chúng tôi lướt qua cửa sổ phòng ngủ trong căn nhà mà tôi rời đi gần mười
tiếng đồng hồ trước đó.
Thân xác tôi như còn say ngủ trên giường, nhưng ngay cả khi
chúng tôi đứng nhìn nó, tôi để ý thấy nó cử động và xoay người đang nằm nghiêng
thành nằm ngửa. Vị thầy chỉ cho tôi coi và giải thích rằng trong tiềm thức, nó
bắt đầu cảm nhận là gần tới giờ để phải dậy trở lại, và trong vài phút một tín
hiệu S.O.S sẽ được phát ra, để cho dù có cách xa vạn dặm tôi cũng trở về lập tức,
vì tín hiệu này có nghĩa là xác thân đã có giấc ngủ đầy đủ và muốn trở dậy làm
tiếp công chuyện của nó ở cõi trần.
Tôi hỏi làm sao có thể bảo đảm là thân xác sẽ luôn luôn ngủ một
số giờ nhất định nào đó thì ông đáp khó mà bảo đảm như vậy, nhưng với tập luyện
và chú tâm nhiều thì có thể điều khiển cơ thể khiến nó hành động theo ý muốn của
ta, tuy vậy tôi đoán là cần nhiều thì giờ và huấn luyện mới làm được đúng cách.
Tôi hỏi phải chăng viên thuốc mà tôi uống trước khi đi ngủ tối qua có ảnh hưởng
đến việc ấy, thì câu đáp là đúng vậy trong trường hợp này. Viên thuốc là loại
thuốc ngủ đặc biệt được chế theo công thức mật, chẳng những bảo đảm là người ta
ngủ liền tức thì, mà còn làm cho cơ thể ngủ một lúc mười tiếng đồng hồ trừ phi
có tiếng động lạ thường khiến tỉnh dậy, hay có gì đụng chạm vào.
Tôi được dặn kỹ là nếu tôi muốn nhớ lại hết trong trí não của
thân xác chuyện đã làm trong lúc rời cơ thể, thì điều thiết yếu là tôi huấn luyện
người giúp việc trong nhà không bao giờ đánh thức tôi dậy, hay gây ra tiếng động
lớn gần phòng ngủ trong lúc tôi muốn cơ thể vẫn còn ngủ. Rồi vị thầy Ấn Độ bảo
rằng đã tới lúc tôi trở vào thân xác, và ông sẽ cố gây ấn tượng lên tế bào não
của xác việc cần nhớ lại chuyện gì đã xẩy ra trong đêm, để không có gián đoạn
tâm thức lúc thức dậy. Ông dặn là ngay khi vừa tỉnh giấc trong thân xác vật chất,
tôi hãy ghi ra liền chuyện đã làm hồi đêm, và lập tức sau khi tắm và ăn sáng,
tôi không bỏ phí thì giờ mà viết ra ngay chi tiết tất cả những gì tôi nhớ.
Ngay khi vị thầy vừa nói xong tôi cảm thấy mình trượt từ từ
vào thân xác trở lại, và thức giấc mà không có gián đoạn nào trong tâm thức như
ông hy vọng. Tôi ngồi dậy trên giường, kéo lại gần tập giấy và cây viết chì mà
tôi đã đặt cạnh giường, và bắt đầu ghi lại tất cả những gì đã xẩy ra trong đêm.
May mắn là tôi được dặn phải ghi xuống ngay, vì tôi thấy rằng dù đã viết những
tiểu đề, tôi vẫn khó mà nhớ lại chính xác chuyện gì đã xảy ra khi về sau tôi viết
bài thuật lại đầy đủ chi tiết. Tuy nhiên, tôi sẽ biết trí nhớ mình theo sát được
tới đâu khi tôi đưa cho thầy vào ngày mai, vì ông nói là sẽ trở lại để tiếp tục
câu chuyện.