GHI CHÚ
Dưới đây là vài giải thích xét ra nên có để làm rõ nghĩa chuyện.
– Căn thể (causal body, còn dịch là chân thân)
Thể không hề hư hoại (nên được dịch là chân thân), tồn tại
qua bao kiếp trong khi những thể xác, sinh lực, tình cảm, trí đều tan rã lúc
qua đời, và mỗi lần tái sinh linh hồn được tạo bốn thể mới. Ba hạt nguyên tử
trường tồn được lưu giữ trong căn thể lúc con người đã qua đời chưa tái sinh,
nó chứa đựng tất cả quá khứ và tiềm năng con người, nên muốn biết rõ nguyên do
sự việc hay mức tiến hóa một ai, cách chính xác nhất là nhìn vào căn thể (thể
tàng trữ mọi duyên cớ). Rất ít người làm được như vậy, thường họ chỉ nhìn vào
cõi tình cảm do đó có ít nhiều sai lạc.
– Cõi tình cảm
Vũ trụ được chia làm nhiều cõi tùy mức độ nặng nhẹ của nguyên
tử cấu tạo nên cõi ấy, càng lên cao chất liệu càng thanh. Có 7 cõi trong thái
dương hệ:
Cõi Thiêng Liêng -Adi (Tối Đại Niết Bàn, Mahanirvana)
Cõi Chân Thần -
Anupadaka (Đại Niết Bàn, Paranirvana)
Cõi Tinh Thần - Atma (Niết Bàn, Nirvana)
Cõi Trực Giác - Buddhi (Bồ Đề)
Cõi Trí (Mental plane), còn gọi là Thượng giới, chia làm hai:
a/ Ba cảnh trên ứng với óc trừu tượng gọi là cõi thượng trí
hay thượng thiên, vô sắc giới (arupa, tư
tưởng trừu tượng không diễn tả bằng hình rõ ràng như cái nhà, con vật mà bằng
biểu tượng và mầu sắc; thí dụ ước nguyện thanh cao, lòng sùng tín biểu lộ bằng
hình sao nhấp nháy mầu tím hay xanh dương).
b/ Bốn cảnh thấp ứng với óc cụ thể còn gọi là cõi hạ trí hay
hạ thiên, sắc giới (rupa, tư tưởng biểu lộ bằng hình, thí dụ ta thương mến và
nghĩ tới ai thì tạo nên hình nhỏ bé của họ trong thể tình cảm của ta, người có
thông nhãn thấy hình ấy và do đó 'đọc' được ý nghĩ của ta, hay tín đồ dự lễ tại
chùa, nhà thờ nhưng lòng ao ước nữ trang, nhà cửa thì hình các ý này cũng thấy
rõ trong thể của họ !). Đây là tây phương cực lạc, hay thiên đàng trong tôn
giáo, chỗ ta ngơi nghỉ (Devachan) giữa hai kiếp sống chờ đợi tái sinh.
Cõi Tình Cảm (Astral plane) còn được dịch là Trung giới.
Chữ astral -astre: tinh tú- được dùng vì với người quan sát từ
cõi trần, nó lấp lánh như ánh sao.
Cõi Vật Chất (Physical plane), còn gọi là hồng trần, Hạ giới.
Mỗi cõi lại chia làm 7 cảnh, ba cảnh thấp nhất của cõi trần
là đặc, lỏng và hơi; bốn cảnh cao gọi là cảnh ether. Cõi và cảnh không phải là
nơi chốn không gian riêng biệt, mà xếp chồng và thấu nhập vào nhau tựa như khí
lan vào chất đặc, lỏng. Theo cơ tiến hóa, con người sau khi làm chủ một cõi sẽ
tiến sang cõi trên nó để học hỏi tiếp; như vậy sau cõi trần, ta phát triển và
kiểm soát tình cảm thay vì để chúng chế ngự, rồi kế đó học sử dụng lý trí, dùng
óc thông minh tìm tòi học hỏi.
– Chân ngã, hay Chân nhân (Ego, với chữ E hoa, Soul)
Phần linh hồn thiêng liêng trường tồn qua bao kiếp sống so với
phàm ngã (ego, personality) là vật vô thường, tan biến sau mỗi kiếp. Còn gọi là
con người thật.
– Chân Sư (Master),
Bậc tiến hóa cao được năm lần chứng đạo trở lên và thâu nhận
đệ tử. Đây là danh từ chúng ta gọi các Ngài, còn thì các Ngài tự xưng mình là huynh
trưởng, người đi trước ta một đoạn trên đường tiến hóa. Một trong các Chân Sư
quen thuộc là Đức Jesus, vị đã cho Đức Chúa (Đức Di Lặc, thầy của Ngài) mượn
xác trong ba năm cuối đời Ngài ở Palestine để giảng đạo. Thánh Paul, Ngài Long
Thọ (Nagarjuna) là những Chân Sư khác, đức Khổng Tử cũng là một vị Đại Chân Sư.
– Chứng đạo (initiation),
Sự tiến hóa của con người được đánh dấu bằng việc mở rộng tâm
thức. Mỗi chặng như vậy được gọi là chứng đạo, chỉ mức độ phát triển tâm linh
và nghi lễ xác định sự đạt tới mức độ ấy. Còn dịch là điểm đạo. Mục tiêu con
người trong chu kỳ tiến hóa này là đạt tới lần điểm đạo thứ năm. La Hán là bậc
được bốn lần chứng đạo.
– Đạo đồ, đạo gia (initiate),
Có hai nghĩa, nghĩa rộng nói chung ai đã nhận được chứng đạo,
nghĩa giới hạn chỉ người nhận chứng đạo ba lần trở xuống.
– Đạo sư (adept),
Vị qua năm lần chứng đạo trở lên.
– Đệ tử,
Khi thấy một người có khả năng và muốn giúp đời. Chân Sư thâu
nhận họ và chỉ dạy, làm cho khả năng phụng sự của họ được gia tăng, còn việc
người ấy cùng lúc được phát triển về tâm linh là chuyện phụ và không hề là lý
do chính để được thâu nhận; nói cách khác, Chân Sư đi tìm và được hấp dẫn bởi
lòng thành tâm giúp đời, mà không phải ước ao được tiến bộ tinh thần. Hiện nay,
việc Chân Sư thâu nhận đệ tử vẫn đang tiếp tục.
– Giống dân (root race - mẫu chủng),
Sách ghi rằng trong đời sống của trái đất có 7 giống dân
chính (mẫu chủng) xuất hiện, hai giống dân đầu đã mất tích hẳn, giống dân thứ
ba còn lưu lại dấu vết là thổ dân ở Úc hay bushman ở sa mạc Kalahari của Nam
Phi. Giống dân thứ tư đa số ở Châu Á, ngày nay là tầng lớp thấp nhất của Trung
Hoa, Mông Cổ... giống dân thứ năm là người da trắng, còn hai giống dân chót
chưa ra đời. Theo nguyên tắc vào một thời điểm chỉ có ba giống dân hiện diện
cùng lúc trên địa cầu. Mỗi mẫu chủng lại có 7 chi chủng (sub-race, giống dân phụ),
theo đó Nhật Bản là chi thứ 7 của mẫu chủng thứ 4, còn chi thứ 6 của mẫu chủng
thứ 5 đang bắt đầu xuất hiện, và mỗi chi lại có 7 nhánh phụ (branches).
Mỗi giống dân chính có đặc tính riêng, có tính chất phải khai
mở trong thiên cơ: giống dân thứ tư phát triển tình cảm, giống dân thứ năm phát
triển trí tuệ và giống dân thứ sáu là trực giác. Ta chớ lầm cái chót với chi thứ
6 của giống dân thứ 5 có liên hệ với giống dân thứ sáu, nhưng đặc tính nổi bật
của chi này sẽ là việc sử dụng óc trừu tượng mà không phải hoàn toàn hướng về
trực giác. Lại nữa, nó không có nghĩa tất cả người Á châu đều thuộc giống thứ
tư và người da trắng nào cũng thuộc giống thứ năm; các linh hồn tiến hóa đầu
thai vào bất cứ nơi nào cần để phụng sự và cũng để trang trải nhân quả, hay học
điều cần phải học.
– Hạt nguyên tử trường tồn (permanent atom),
Mỗi thể xác, tình cảm, trí có một hạt nguyên tử trường tồn,
cái vẫn tồn tại sau khi con người qua đời trút bỏ các thể khiến chúng tan rã.
Chúng lưu trữ tất cả kinh nghiệm con người đã trải qua trong ba cõi. Khi tái
sinh thiên thần dựa vào hồ sơ trong ba hạt mà tạo những thể thích ứng với nhân
quả.
– Hình tư tưởng (thought form),
Mỗi tư tưởng cụ thể hay trừu tượng, tình cảm con người phát
ra đều tạo nên hình ở cõi thanh, chúng có mầu sắc và hình dạng tương ứng với đặc
tính của các ý. Nếu ý mạnh, hình có thể phóng tới đối tượng, mang theo năng lực
của nó và đem chuyện lành hay chuyện dữ tới họ. Lời cầu nguyện của bà mẹ là một
thí dụ, nó mang tình cảm thương yêu đến con bà cũng như lời cầu nguyện cho người
chết có kết quả rất thực, giúp họ sớm thức tỉnh hơn với cảnh đời mới và thấy
bình an trong những ngày đầu chuyển tiếp giữa hai lối sống.
– Hồn Khóm (group soul),
Thực thể thấp hơn loài người như cây cỏ, thú cầm chưa có phần
hồn riêng biệt mà có một linh hồn chung gọi là hồn khóm. Khi chết mỗi sinh vật
quay trở về đây mang theo kinh nghiệm riêng của chúng, và thêm vào khối kinh
nghiệm chung của hồn khóm. Vì có sự đóng góp và chia sẻ kinh nghiệm này mà mỗi
loài (hoa hồng, chó ..v..v.) có những đặc tính chung, thấy biểu lộ nơi mỗi sinh
vật thuộc về loài ấy bên cạnh đặc tính riêng của sinh vật.
– Karma,
Nhân quả.
– Phàm ngã, (Personality, ego với chữ e thường, còn dịch là
phàm nhân),
Cái ngã, cái tôi, cá tính, chỉ phần thấp của linh hồn trong mỗi
kiếp sống ở cõi trần. Trong các sách về Minh Triết Thiêng Liêng, chữ Ego với E
hoa chỉ chân nhân, cái tôi thiêng liêng bất diệt, phần linh hồn; còn chữ ego với
e thường chỉ phàm nhân. Ý nghĩa hai chữ ego này khác với lối dùng của khoa tâm
lý và cần phân biệt, cũng như đôi khi ego với e thường lại ngụ ý chân nhân !
– Tinh linh (Elementals),
Là những sinh vật ở ba cõi vật chất, và tình cảm lo việc tạo
dựng mặt hình thể của sự sống. Thường khi con người không thấy được chúng. Sinh
vật chưa có ngã thức riêng, được sai khiến bằng thần chú để làm chuyện lành hay
dữ tùy ý người sử dụng chú ngữ. Các phép thuật như hô phong hoán vũ chính là sự
điều khiển các tinh linh này. Tinh linh đất như chú lùn tạo nên tinh thể đá,
khoáng thạch, làm mùa màng chín, cây lá đổi màu; tinh linh không khí sinh ra
gió, thủy tiên sống ở suối, thác, biển và sinh ra mưa bão v..v..Tinh linh tiến
hóa cao có được ngã thức và thành thiên thần. Chính thiên thần điều khiển tinh
linh tạo nên các thể con người trong giai đoạn tạo hình khi tái sinh, nhân gian
gọi các ngài là bà mụ.
Tinh linh thấp kém ưa thích làm rung động nặng nề, thô kệch,
hung bạo, nên có hiện tượng sát sinh để tế thần. Trên đường tiến hóa đi theo
hình chữ V, tinh linh là sinh vật đang tiến hóa theo chiều đi xuống nên tuy có
vị trí chính đáng trong thiên cơ, mục tiêu và đường lối hoạt động của chúng đối
nghịch hẳn với người. Các tôn giáo lớn đều răn dạy tín đồ tránh xa cùng ham muốn
việc tập luyện huyền thuật, vì huyền thuật xử dụng tinh linh mà với ai thân,
tâm chưa trong sạch, chưa thông thạo huyền bí học, đó là việc làm tối nguy hiểm.
– Thể Sinh Lực (etheric body, vital body còn gọi là thể
phách),
Một thể thanh của con người, làm bằng chất ether của cõi trần,
có nhiệm vụ luân lưu sinh lực prana từ mặt trời đi vào thể xác.
– Nhóm Huynh Đệ Chánh Đạo (White Brotherhood),
Tổ chức của những đấng Cao Cả chăm sóc sự tiến hóa trên địa cầu,
còn được gọi là Thiên đoàn (Hierachy), Đại đoàn Chưởng Giáo, hay Đại đoàn.
Trong sách về Minh Triết Thiêng Liêng, chữ Hierachy với H hoa được dịch như
trên, với h nhỏ dịch là loài, thí dụ loài vật, loài người. Đức Phật, Đức Chúa
và các Chân Sư đều thuộc về Thiên đoàn.
– Thông nhãn, thông nhĩ (clairvoyance, clairaudience),
Khả năng thấy và nghe được sự việc ở cõi khác, còn được dịch
là thần nhãn và thần nhĩ, nhưng xét ra chữ thần không đúng lắm vì ai cũng có thể
luyện tập để có khả năng này (còn nên có hay không lại là chuyện khác), mà
không phải chỉ thần thánh mới có; nó cũng không phải là quan năng tinh thần mà
trong nhiều trường hợp là biểu hiện của phần tâm linh thấp, chẳng hạn thú vật
như chó, mèo, ngựa và người rất sơ khai ở các bộ lạc da đỏ hay ở Phi châu có khả
năng ấy, nên chữ thông (clair: trong sáng) chính xác hơn.