Tác giả: Gina Cerminara
MỤC LỤC
Phần 1
1 - Một Triển Vọng Đáng Mừng
2 - Ông Edgar Cayce Dùng Thần Nhãn Để Khám Bệnh
3 - Giải Đáp Cho Những Vấn Đề Bí Hiểm Của Đời Người
4 - Vài Loại Quả Báo Xác Thân
5 - Quả Báo Của Sự Chế Nhạo
Phần 2
6 - Vài Cảm Tưởng Về Luật Quả Báo
7 - Quả Báo Treo
8 - Quả Báo Đối Với Sức Khỏe
9 - Kích Thước Mới Của Khoa Tâm Lý
10 - Những Hạng Người Khác Nhau
Phần 3
11 - Quả Báo Tâm Lý
12 - Nguyên Nhân Của Quái Trạng Tâm Lý
13 - Quả Báo Đối Với Hôn Nhân
14 - Những Thiếu Phụ Cô Đơn
15 - Thắc Mắc Về Vấn Đề Hôn Nhân
Phần 4
16 - Ngoại Tình Và Ly Dị
17 - Nghiệp Quả Giữa Cha Mẹ Và Con Cái
18 - Vài Nghiệp Quả Gia Đình
19 - Nhân Quả Đối Với Chức Nghiệp
20 - Phương Châm Trong Việc Chọn Nghề
Phần 5
21 - Bí Quyết Đào Tạo Khả Năng
22 - Tiềm Năng Của Con Người
23 - Khía Cạnh Của Luật Nhân Quả
24 - Một Phương Châm Xử Thế
Kết luận
Phần 1:
Chương 1 - Một Triển Vọng Đáng Mừng
Một nhà Hiền Triết đã tóm tắt tất cả lịch sử của nhân loại với
những lời nầy: "Con người sinh ra, chịu đau khổ và chết."
Nói về sự đau khổ của thế gian, người ta đã từng nghe nói về
một chuyện cổ xưa và đầy ý nghĩa. Đó là truyện tích thái tử Sĩ Đạt Ta, mà về
sau người ta được biết dưới danh hiệu đức Phật, tức là bậc Toàn Giác. Phụ Vương
của Sĩ Đạt Ta là một vị vua rất giàu sang và có thế lực lớn ở miền Bắc Ấn Độ.
Người quyết định truyền ngôi cho Thái Tử, và muốn giữ Thái Tử ở trong cung,
không muốn cho Thái Tử nhìn thấy cảnh lầm than, đau khổ của người đời. Thái Tử
sống từ nhỏ trong cung cấm, và đến lúc trưởng thành, vua cha mới cưới cho Thái
Tử một vị Công Chúa nhan sắc đẹp tuyệt trần. Từ nhỏ đến lớn, Thái Tử không hề
bước chân ra khỏi bốn vách thành bao bọc chung quanh Hoàng cung một lần nào. Đến
lúc Thái Tử sinh hạ được một hoàng nam, người mới thấy nhàm chán cảnh cung điện
và tọc mạch muốn biết có những gì ở cõi thế gian bên ngoài. Người mới tìm cách
đánh lừa những tên lính gác cửa thành, và lần đầu tiên người mới nhìn thấy cảnh
thành phố tấp nập, dân cư đông đão và cảnh đời thực tế bên ngoài.
Trong chuyến ngao du đó, người nhìn thấy ba cảnh tượng làm
cho người chú ý: đó là cảnh tượng một người gia, một người bịnh và một xác chết.
Thái tử vô cùng xúc động, bèn hỏi tên đánh xe đi theo Ngài, tại sao lại có những
cảnh đau khổ như thế? Khi được biết rằng đó là những điều thường vẫn xảy ra hằng
ngày và đó là cái số phận chung cho cả mọi người, không ai tránh khỏi, Thái Tử
lấy làm buồn bực vô cùng đên nỗi Ngài không còn muốn sống cuộc đời sung sướng
xa hoa như trước nữa. Ngài trở về cung, bèn từ giã tất cả mọi gia tài sản nghiệp,
gia đình vợ con, và quyết định xuất gai tầm Đạo để cứu vớt nhân loại và chúng
sinh khỏi sự lầm than đau khổ. Sau nhiều năm khổ công tu luyện và tham thiền
quán tưởng, Ngài bèn thoát nhiên đại ngộ, trở nên một bậc Toàn Thông, đắc Vô
thượng Đạo, chánh đẳng chánh giác, tức là đắc Đạo thành Phật vậy. Khi đó Ngài mới
đem truyền dạy Đạo mầu thoát khổ cho thế gian.
Chúng ta là những người trần gian phàm tục, không mấy ai có
thể làm giống như Phật Thích Ca, nhất thời dứt bỏ tất cả giàu sang, quyền thế,
danh vọng, tình yêu và hạnh phúc gia đình để theo đuổi một mục đích mơ màng viễn
vông như là việc đi tìm Chân Lý, và tìm hiểu bí quyết của cuộc Đời! Tuy nhiên,
mỗi người trong chúng ta đều có kinh nghiệm về sự đau khổ ít nhất một vài lần
trong đời mình và đã có lúc phải tự hỏi: Tại sao con người bị đau khổ? Và họ có
thể làm gì để thoát khổ?
Những nhà văn có óc không tưởng đã phác họa một thời kỳ trong
tương lai mà trong bốn điều khổ của đức Phật nêu ra, thì hai điều sẽ không còn
nữa, đó là: Bệnh và lão. Nhưng mặc dầu khoa học hiện đại đã có bao nhiêu những
phát minh mới mẻ tân kỳ, người ta vẫn chưa có triển vọng tìm ra phương pháp giải
quyết vấn đề mà con người vẫn coi như là một kẻ thù lớn nhất, đó là Sự Chết!
Trong khi chờ đợi, và trong khi mà một sự cải tạo thế giới trên một bình diện hợp
lý hơn vẫn chưa đem đến cho nhân loại sức khỏe, an ninh, và hạnh phúc, thì
chúng ta còn phải đương đầu với muôn ngàn sự bấp bênh, nguy cơ và đau khổ nó
hăm dọa nền hạnh phúc và sự bằng an trong tâm hồn chúng ta!
Những tai họa thiên nhiên như hỏa hoạn, ngập lụt, bệnh tật
truyền nhiễm, động đất, chiến tranh,... đó chỉ là mới kể một vài sự hăm dọa từ
bên ngoài. Còn nói về đời sống bên trong, tức là về phần nội tâm thì con người
có bao nhiêu những sự yếu đuối, bất toàn, như sự ích kỷ, ganh ghét, tham lam,
thù hận, si mê... Nó là bao nhiêu những nguồn gốc sinh ra sự đau khổ cho mọi
người và cho những kẻ đồng loại ở chung quanh.
Trong những giờ tươi sáng, khi chúng ta cảm thấy trong lòng
vui vẻ hân hoan vì tiếng nhạc réo rắt dụ dương, hay khi nhìn thấy cảnh tượng
tưng bừng rực rỡ của lúc bình minh, chúng ta cảm thấy rằng trong vũ trụ hẳn có
sự hòa vui và có ẩn dấu một ý nghĩa sâu xa thâm trầm. Tuy nhiên, khi chúng ta
quay trở về cõi đời thực tế với những sự va chạm phũ phàng, những thất vọng não
nề cay đắng, chúng ta không khỏi nêu ra những câu hỏi tối hậu: Yù nghĩa và mục
đích của cuộc đời là gì? Tôi là ai? Tại sao tôi lại sinh ra ở đây? Tôi sẽ đi về
đâu? Tại sao tôi phải chịu đau khổ? Có những mối liên quan gì giữa tôi với người
khác ở chung quanh? Và giữa con người với cái sức mạnh vô hình huyền bí trong
cõi thiên nhiên nó bao phủ cuộc đời chúng ta, có một mối liên hệ như thế nào?
Những câu hỏi căn bản đó, nhân loại đã từng nêu ra từ thuở bao
giờ trong những thời đại quá khứ xa xăm. Ngày nào người ta vẫn chưa tìm ra được
câu giải đáp thì tất cả những giải pháp tạm thời để làm dịu bớt sư đau khổ, dầu
là những phương tiện vật chất hay tinh thần, cũng đều là vô nghĩa và không có
ích lợi gì. Ngày nào mà vấn đề đau khổ của nhân loại vẫn chưa được giải quyết,
thì người ta vẫn chưa giải quyết được gì cả. Ngày nào mà trên thế giới còn có một
sinh vật nhỏ mọn tầm thường nhất đang quằn quại trong đau khổ mà người ta chưa
giải thích nổi lý do, thì người ta cũng vẫn chưa giải thích được điều gì cả, và
quan niệm triết lý của chúng ta về cuộc đời vẫn hãy còn là thiếu sót và bất
toàn.
Từ những thời đại cổ xưa nhất, loài người đã từng nêu ra những
câu hỏi đó. Càng ngẫm nghĩ, họ càng cảm thấy rằng những sự tranh đấu vất vả đau
khổ của con người không phải là vô ích và vô nghĩa lý như người ta tưởng, mà nó
có một ý nghĩa nhờ bởi một sự liên quan lớn lao nối liền con người và vũ trụ.
Hoặc họ đã cảm thấy có sự hiện diện vô hìn của những đấng Thần Minh trong khu rừng
vắng hoặc trên đồi cao và biết rằng mỗi sinh vật, từ con người đến loài cầm
thú, đều có một linh hồn: Rằng linh hồn đó chỉ là tạm thời sống và chịu đau khổ
một lúc ở cõi hạ giới, và sau khi chết sẽ tìm thấy một đời sống an nhàn và hạnh
phúc hơn. Hoặc họ nghĩ rằng ngoài ra cõi trần gian đau khổ nầy, mà loài người sống
trong sự hỗn tạp pha lẫn cả điều lành và điều dữ, điều thiện và điều ác, còn có
một cõi giới xa xăm nào đó, là nơi thưởng phạt những hành động của họ Ở thế
gian. Những điều tin tưởng và giải thích như trên đã từng được nêu ra kể đến hằng
nghìn, có những điều hãy còn giản dị thô sơ, có những điều tế nhị hơn, cũng có
những điều hợp lý. Và vì bởi một vài điều giải thích đó có vẻ hợp lý mà trên thế
gian con người vẫn tiếp tục sống và đương đầu với những nỗi khó khăn của họ một
cách can đảm.
Có người tin tưởng ở đức Mahomet, có người tin tưởng ở đức Phật,
hoặc Chúa Jesus, hay đức Krishnạ Có hằng muôn người tin rằng đời người có thể
giải thích bằng một lý do duy nhất, đó là sự sống còn. Những người khác không cần
tìm biết lý do gì cả, mà chỉ tận hưởng sự vui sướng khoái lạc trong hiện tại.
Đối với những người sinh trưởng trong nền giáo dục và tín ngưỡng
đạo Gia Tô, thì sự giải thích về đời người và những sự đau khổ của cuộc đời là
nhứ thế này: Con người có một linh hồn và linh hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là
một thử thách đưa đến cho chúng ta, Thiên Đàng hay Địa Ngục là những điều tưởng
phạt tùy theo cách hành động và cư xử của chúng ta trên thế gian. Những người
đã từng chấp nhận sự giải thích đó không hề tự hào rằng họ có đủ bằng chứng; đó
là sự giải thích mà họ được hấp thụ của cha mẹ và của giáo sĩ, chính những vị
này cũng đã hấp thụ của những bậc phụ huynh và các giáo sĩ của họ, và cứ như thế
đi ngược thời gian cho đến khi người ta tìm thấy uy quyền của một quyển sách gọi
là bộ Thánh Kinh (Bible), và của một người tên Jesus.
Hầu hết mọi người đều đồng ý: Bộ sách này thật là hay tuyệt
diệu, và đức Jesus, dầu rằng là một người hay là Con của Chúa Trời, vốn là một
nhân vật phi thường. Tuy nhiên, kể từ thời Phục Hưng (Renaissance) cho đến nay,
người Tây phương càng ngày càng trở nên hoài nghi đối với những tín điều căn cứ
trên uy quyền của một người: Bất cứ tín điều nào mà không thể chứng minh được
qua cái lò thí nghiệm khoa học đều phải gặp một sự hoài nghi mỗi lúc càng tăng
thêm.
Nhà thiên văn học Ptolémée nói rằng mặt Trời xoay chung quanh
Trái Đất; và đó là điều mà Hội Thánh Gia Tô đã chấp nhận và truyền dạy. Tuy
nhiên, nhà Thiên văn Copernic đã phát minh ra những khí cụ thiên văn học để chứng
minh rằng trái lại, chính Trái Đất xoay chung quanh mặt Trời. Triết gai
Aristote nói rằng nếu người ta làm rơi cùng một lượt hai vật có trọng lượng
khác nhau từ chỗ cao, vật nặng hơn sẽ rơi xuống đất trước tiên, và Hội Thánh đã
hoàn toàn chấp nhận nền triết học cùng sự phát minh khoa học của Aristotẹ Tuy
thế, với một cuộc thí nghiệm giản dị từ trên đài nghiêng ở thành phố Pise,
Galiée đã chứng minh rằng hai vật cùng đồng một dung tích như nhau, nhưng trọng
lượng khác nhau, lại rơi xuống đất cùng một lúc.
Trong bộ Thánh Kinh có nhiều đoạn cho rằng Trái Đất vốn bằng
phẳng; tuy nhiên Christophe Colomb và Magellan cùng những nhà thám hiểm khác nữa
của thế kỷ mười lăm đã làm đảo lộn giả thuyêt trên đây bằng những chuyến du
hành trên mặt biển, khởi hành từ phương Tây để đi về phương Đông. Những sự chứng
minh trên đây cùng với việc chứng minh khác nữa đã lần lần chỉ cho người thời
xưa không phải là hoàn toàn đúng. Do đó nảy sinh ra quan niệm khoa học và óc
hoài nghi của người thời nay.
Trong sự tranh đấu để sống còn, con người không thể tránh khỏi
sự đau khổ. Sự đau khổ này, dường như người ta không tìm ra lý do nào khác hơn
là nó không có mục đích gì cả. Sự chết chỉ là một sự tan rã của những phân tử
hóa học vật chất, ngoài ra không còn gì nữa.
Như vậy, người ta đã thay thế uy quyền của bộ Thánh Kinh hay
của đức Giáo Chủ bằng uy quyền của năm giác quan! Với những ống kính hiển vi,
viễn vọng kính, quang tuyến X, máy radar và những phát minh tối tân khác, khoa
học đã nới rộng tầm hoạt động của ngũ quan chúng tạ Sự nhận xét bằng ngũ quan,
tức thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác, là nền tảng của mọi lý
luận khoa học.
Tuy nhiên, trải qua vài chục năm nay, người ta đã trở nên phức
tạp hơn và hoài nghi hơn đối với những điều họ hiểu biết hoặc tưởng rằng mình
đã hiểu biết. Những khí cụ khoa học mà người ta đã phát minh ra, đã chỉ cho họ
thấy một cách mỉa mai rằng những giác quan của con người thật là thiếu sos1st,
bất toàn là dường nào và không thể giúp chúng ta hiểu biết vũ trụ một cách thật
sự. Những luồng sóng Hertziennes, chất phóng quang, nguyên tử lực, đó là chỉ mới
kể có một vài hiện tượng khoa học của thời buổi hiện đại, đã chứng minh một
cách rõ ràng rằng chung quanh chúng ta có những luồng âm ba rung động và những
mãnh lực vô hình; và những vi tử nhỏ bé nhất của cõi vật chất đều là những kho
chứa đựng tinh lực, hàm xúc tiềm tàng một sức mạnh kinh khủng mà con người
không thể tưởng tượng. Chúng ta biết rằng những giác quan như tai, mắt... Mà
chúng ta dùng để tiếp xúc với ngoại giới, cũng ví như những cửa sổ nhỏ hẹp của
cái tòa nhà bé nhỏ là xác thân của chúng tạ Sự nhậy cảm của con mắt chúng ta đối
với ánh sáng giúp chúng ta tiếp nhận chỉ có một phần nhỏ những luồng âm ba rung
động của ánh sáng. Sự thụ cảm của lỗ tai ta đối với âm thanh chỉ giúp cho chúng
ta tiếp nhận có một bát độ nhỏ hẹp trong cái biển âm thanh rộng lớn của vũ trụ.
Nhiều loại thú cầm, chim muông, côn trùng, sâu bọ có những thị giác, thính giác
và khứu giác khác hẳn của loài người; bởi đó vũ trụ của chúng nó bao hàm chứa đựng
nhiều sự vật mà chúng ta không nhận thấy và không thể nhận xét thấy rõ.
Người biết suy nghĩ không khỏi lấy làm ngạc nhiên về hiện tượng
này là con người vốn thường vẫn tự hào về trí óc thông minh của mình, lại thua
kém loài cầm thú, chim muông và sâu bọ về tầm hoạt động của giác quan để nhận
xét vũ trụ bên ngoài, và về điểm này họ cũng thua kém cả những đồ dụng cụ khoa
học mà trí óc siêu việt thông minh của họ đã phát minh. Họ bắt đầu tự hỏi rằng
làm sao họ có thể tự mình nhìn thấy và quan sát những sự vật trong cõi vô hình
mênh mông rộng lớn. Thí dụ, chúng ta hãy tưởng tượng rằng chúng ta có thể nới rộng
tầm hoạt động và nhận xét của giác quan đến mức làm cho chúng ta trở nên nhậy cảm
hơn đối với ánh sáng và âm thanh, dẫu rằng chỉ hơn mức thường độ một ít mà
thôi. Phải chăng chúng ta sẽ nhận xét được nhiều sự vật mà trước kia chúng ta
không hề nghe, thấy? Hoặc thí dụ như một vài người trong chúng ta bẩm sinh ra
đã có những giác quan phi thường, với một tầm thu nhận rộng lớn hơn: Phải chăng
là một điều tự nhiên nếu những người này có thể nghe và thấy những sự vật mà
chúng ta không thấy và không nghẻ Và phải chăng họ có thể nghe xa chẳng khác
nào như một cái máy thu thanh, và thấy xa dường như một cái máy vô tuyến truyền
hình?
Đứng trước cái thế giới vô hình huyền bí, vô tận bao la mà những
khí cụ khoa học tối tân của thế kỷ 20 đã tiết lộ cho chúng ta biết, thì người
ta phải nhìn nhận sự thật của những điều kể trên. Và nếu chúng ta nhìn lui về lịch
sử loài người, thì chúng ta thấy có nhiều trường hợp đặc biệt được ghi chép về
những khả năng nhận xét phi thường của một số người.
Một trong những người đó là ông Swedenborg, nhà bác học và
toán học trứ danh của thế kỷ 18, đã có một năng khiếu thần thông phi thường.
Người ta được biết rõ một chuyện về năng khiếu thần thông của ông, chuyện này
đã được nhiều nhà tai mắt chứng kiến trong số đó có nhà triết học Emmanuel
Kant.
Một buổi chiều vào khoảng 6 giờ, ông Swedenborg đang ngồi
dùng cơm với vài người bạn ở thành phố Gothenburg, bỗng nhiên ông giựt mình và
nói rằng một cơn hỏa hoạn lớn đang xảy ra ở Stockholm là chỗ ông ở, cách đó độ
500 cây số. Sau đó một lát, ông tuyên bố rằng ngọn lửa đã thiêu hủy ngôi nhà của
một người láng giềng và hăm dọa cháy lan đến ngôi nhà của ông. Đến 8 giờ, cũng
chiều hôm đó, ông cho biết, với một giọng nói đã trấn tĩnh, rằng ngọn lửa đã được
dập tắt ở khoảng cách nhà ông độ vài ba gian nhà khác. Hai ngày sau, những lời
của ông Swedenborg đã được xác nhận bằng những lời tường thuật về cuộc hỏa hoạn,
mà sự bộc phát nhằm đúng ngay vào lúc ông Swedenborg giựt mình và có cảm giác đầu
tiên về cơn tai biến này. Đây không phải là trường hợp duy nhất: Tiểu sử của
nhiều nhân vật tên tuổi cũng đã ghi chép hàng trăm trường hợp tương tự, trong số
đó có vài người như Mark Twain, Abraham Lincoln, St. Saens,... Trong vài trường
hợp, chính những người bà con thân quyến của họ đã có lúc nhìn thấy thình lình
những hình ảnh lạ lùng về những sự việc xảy ra ở cách rất xa, hoặc sẽ xảy ra
trong nhiều tháng hay nhiều năm về sau, với đầy đủ từng chi tiết.
Nói về trường hợp ông Swedenborg thì năng khiếu thần nhãn của
ông từ đó trở nên một thứ giác quan mạnh mẽ phi thường và liên tục. Trong phần
nhiều những trường hợp khác, năng khiếu đó hình như chỉ biểu lộ trong một lúc
nhất định khi đương sự tạm thời rơi vào một trạng thái xuất thần.
Người Tây phương thường có khuynh hướng đón nhận những sự việc
kể trên với một thái độ hoài nghi và thậm chí với ít nhiều cử chỉ khinh thường.
Tuy nhiên, nay đã đến lúc mà người ta không thể nhìn xem những hiện tượng đó một
cách khinh rẻ như thế được nữa. Đối với những người có một tinh thần cởi mở,
saün sàng tìm hiểu những hiện tượng lạ lùng, đối với những người thông hiểu các
trào lưu khoa học và sự nhu cầu của thế hệ thì bất cứ sự việc gì có liên hệ đến
những khả năng lạ lùng huyền bí của con người đều có tánh cách lý thú và có một
tầm quan trọng vào bậc nhất.
Trong số những nhà thông thái có tầm kiến thức rộng rãi, cho
rằng những hiện tượng thần bí, siêu nhiên, đáng được nghiên cứu bằng phương
pháp khoa học, và đã ra công sưu tầm về những hiện tượng đó, có bác sĩ J. B.
Rhine, giáo sư trường Đại Học Dukẹ Từ năm 1930, bác sĩ Rhine và những người cộng
sự với ông đã nghiên cứu ráo riết về những hiện tượng thần giao cách cảm và
năng khiếu Thần Nhãn trong con người.
Do những cuộc thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ và một
phương pháp đặc biệt, bác sĩ Rhine đã khám phá được một điều là trong phòng thí
nghiệm, có nhiều người đã biểu lộ những khả năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng,
nói tóm tắt là biểu lộ những năng khiếu thần thông. Người ta có thể nhìn thấy
những chi tiết về phương pháp thí nghiệm và những kết quả sưu tầm của bác sĩ
Rhine trong quyển sách nhan đề "Tầm Hoạt Động Của Trí Não" do chính
ông xuất bản năm 1947.
Những nhà sưu tầm khác như Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và
Tichner ở Đức, với những phương pháp thí nghiệm tương tự, cũng đã đi đến những
kết luận giống như của bác sĩ J. B. Rhinẹ Những bằng chứng khoa học hiển nhiên
đã giải tán mọi điều nghi ngờ về sự thật của những hiện tượng thần giao cách cảm
và năng khiều Thần Nhãn trên địa hạt tâm linh con người. Tuy thế, cho đến nay
khoa học chỉ mới chứng minh rằng hiện tượng Thần Nhãn là một điều có thật. Người
ta vẫn chưa tìm cách áp dụng năng khiếu đó trên địa hạt thực tế. Nếu con người
có được cái năng khiếu thần thông đó, nó giúp cho y nhìn thấy được những gì xảy
ra trong không gian mà không cần sử dụng đến cặp mắt phàm, chẳng khác nào y như
là một cái máy vô tuyến thu ảnh (Television) thì chừng đó y đã có được một khí
cụ mới và quan trọng để thu hoạch những điều hiểu biết về con người và về vũ trụ.
Trải qua nhiều thế kỷ, con người đã làm được nhiều công trình
lớn lao. Sự khôn ngoan khéo léo của y đã giúp y chinh phục không gian và làm chủ
được cõi giới vật chất. Nhưng mặc dầu y đã có được sự khôn ngoan khéo léo đó, y
vẫn là một vật yếu đuối và bất toàn. Mặc dầu những sự chinh phục trên địa hạt vật
chất, y vẫn còn bất lực và bỡ ngỡ, lạc loài. Mặc dầu y đã thu hoạch được những
kết quả thành tựu mỹ mãn trên các lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa và khoa học, y vẫn
chưa tìm ra ý nghĩa và mục đích của sự đau khổ mà con người phải chịu từ khi
sinh ra cho đến khi y từ giã cõi đời. Trong thời gian qua, con người đã tìm ra
những bí mật của hột nguyên tử. Có lẽ nhờ những sự khám phá gần đây về những khả
năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng của con người và những mối liên quan lạ kỳ
giữa ý thức và tiềm thức, y sẽ có thể tiến sâu vào lĩnh vực tâm linh huyền bí của
chính mình. Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm tìm tòi, có lẽ sau cùng người ta sẽ tìm ra
những câu giải đáp thỏa đáng cho những điều bí hiểm quan trọng của đời người,
những lý do vì sao y sinh ra ở cõi thế gian và mục đích cùng ý nghĩa của sự đau
khổ.
Chương 2 - Ông Edgar Cayce Dùng Thần Nhãn Để Khám Bệnh
Thật là một điều lý thú mà biết rằng năng khiếu Thần Nhãn có
thể giúp cho ta làm được những điều phi thường. Nhưng càng lý thú hơn nữa khi
ta được biết rằng trong thời đại này có một người đã dùng năng khiếu Thần Nhãn
một cách hữu ích trên địa hạt sưu tầm cũng như trên phương diện thực tế.
Người ấy là ông Edgar Caycẹ Người ta gọi ông Cayce trong những
năm cuối cùng của đời ông, là "Con người phi thường ở Virginia
Beach". Đó là một danh hiệu phỉnh lừa, vì tùy rằng có hằng trăm người đã
được ông chữa khỏi bịnh trong những điều kiện thật là lạ lùng, nhưng ông không
phải là một người làm "Phép lạ" hiểu theo ý nghĩa thông thường của chữ
này. Không hề có chuyện đặt bàn tay truyền điện, hay làm cho bịnh nhân quăng nạng
gỗ sau khi đã sờ nhẹ vào manh áo của ỵ Những sự "Nhiệm màu" của ông
Cayce chỉ là sự khám đúng căn bịnh, mà thường là trong khi bịnh nhân ở cách xa
ông đến hằng ngàn cây số! Ngoài ra, năng khiếu Thần Nhãn của ông chỉ hoàn toàn
khai mở trong giấc ngủ thôi miên, đó là một điều đáng được sự chú ý của những
nhà chữa bịnh theo khoa Tâm lý, thường dùng giấc ngủ thôi miên để chữa bịnh hoặc
làm phương tiện sưu tầm về cõi tiềm thức của con người.
Một trong những ví dụ đáng kể nhất về cách xử dụng Thần Nhãn
của ông Cayce là trong trường hợp sau đây: Một người con gái ở Selma, thuộc tiểu
bangAlabama Hoa Kỳ, thình lình bị mất trí và được đem vào một nhà thương điên.
Người anh cô ta kinh hoảng, bèn nhờ cậy ông Cayce giúp đỡ. Ông Cayce bèn nằm
trên giường, thở vài hơi dài và sâu, đoạn ông ngủ thiếp đi. Kế đó, ông chịu sự
dẫn dụ thôi miên của một người bảo ông nhìn vào thể xác của người thiếu nữ và
khám bịnh cho cô ấy. Sau một lúc im lặng, ông Cayce bắt đầu nói, cũng như bất cứ
mọi người nằm trong giấc thôi miên khi họ được lịnh truyền của người dẫn dụ.
Tuy nhiên, có điều khác hơn những người thường, là ông Cayce bắt đầu diễn tả
tình trạng thể chất của người bịnh, dường như cặp mắt ông có quang xuyến X. Ông
cho biết rằng người con gái ấy có một cái răng cấm mọc ngược và cấn lên một đường
gân thông lên bộ Óc. Ông bảo phải nhổ cái răng ấy để cho đường gân kia được giải
tỏa, khỏi động lên tới óc, và đem bịnh nhân trở lại trạng thái bình thường.
Theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, người ta mới xem trong miệng người con gái thì
thấy có một cái răng cấm mọc ngược. Sau khi được đem đến cho một vị nha sĩ nhổ
răng thì người con gái liền hết bịnh điên.
Một thí dụ khác rất lạ lùng, là một người thiếu phụ Ở tỉnh
Kentucky bên Hoa Kỳ sinh ra một đứa con thiếu tháng. Đứa trẻ ấy ốm đau èo uột
luôn. Khi được bốn tháng, nó bị chứng kinh phong giựt rất nặng đến nỗi ba bác
sĩ săn sóc cho nó (trong đó có người cha của đứa trẻ) đều lo ngại rằng nó sẽ
không qua khỏi ngày hôm ấy. Người mẹ đứa trẻ đã tuyệt vọng, bèn nhờ ông Cayce
khám bịnh cho nó. Trong giấc thôi miên, ông Cayce bảo đem cho nó uống một liều
thuốc belladone và kèm theo sau đó, cho uống một liều thuốc trừ độc. Những vị
bác sĩ khác đều phản đối cách chữa bịnh này, vì belladone là một thứ thuốc độc,
nhưng bà mẹ đứa trẻ không nghe và nhất định tự mình đưa thuốc ấy cho con mình uống.
Ngay tức khắc, chứng kinh phong dứt hẳn. Sau khi cho đứa trẻ uống thêm một liều
thuốc trừ độc, đứa trẻ duỗi thẳng tay chân và ngủ một giấc ngon lành. Nó đã được
cứu sống và đã khỏi bịnh.
Những thí dụ trên đây, cùng với hàng trăm thí dụ khác, không
phải là những trường hợp chữa khỏi bịnh bằng "đức tin". Những trường
hợp mà người bịnh được chữa khỏi cấp thời như những trường hợp kể trên chỉ là một
số ít. Trong tất cả những trường hợp khác thì người bịnh được điều trị một cách
cụ thể, có khi lâu dài, và cách điều trị gồm có: Thuốc men, giải phẫu, kiêng cữ
món ăn, dùng sinh tố, chữa bằng điện, thoa bóp hay tự kỷ ám thị...
Những trường hợp chữa bịnh bằng Thần Nhãn của ông Cayce đều
được ghi chép trong những hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Tất cả có đến ba chục
ngàn hồ sơ được cất giữ ở Virginia Beach, và saün sàng được dùng làm tài liệu
cho những ai muốn khảo cứu sưu tầm.Những hồ sơ đó gồm có những tờ biên bản các
cuộc khám bịnh bằng Thần Nhãn, có kê khai ngày tháng rõ ràng; những thơ thỉnh cầu
của bịnh nhân ở xa hoặc của thân quyến người bịnh; những bức thơ bày tỏ sự biết
ơn của những bịnh nhân được chữa khỏi ở khắp nơi trên thế giới; những giấy chứng
minh của các bác sĩ; và những bản tốc ký chép lại những lời của ông Cayce thốt
ra trong giấc ngủ thôi miên. Những tập hồ sơ này gồm thành một kho văn kiện và
tài liệu vĩ đại để chứng minh sự thật về hiện tượng Thần Nhãn (Clairvoyance).
Ông Cayce sinh năm 1877 tại Hopskinville, tiểu bang Kentucky,
Hoa Kỳ. Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo và thất học. Ông theo
học trường làng đến bực tiểu học, và mặc dầu trong thuở thiếu thời, ông đã tỏ ý
muốn trở nên một giáo sĩ, nhưng hoàn cảnh không cho phép ông tiếp tục theo đuổi
việc học vấn. Đời sống ở nông trại không thích hợp với ông; ông bèn ra ở tỉnh
thành, trước hết ông làm nhân viên phụ trách cửa hàng bán sách, sau đó ông làm
nhân viên một hãng bảo hiểm.
Năm ông 21 tuổi, một việc xảy ra bất ngờ làm thay đổi trọn cuộc
đời ông: Ông bị tắt tiếng nói vì một chứng bệnh yết hầu. Mọi sự chạy chữa đều
vô hiệu quả, và không một vị bác sĩ nào có thể chữa cho ông khỏi bịnh. Không thể
tiếp tục hành nghề nhân viên bảo hiểm, ông bèn trở về nhà cha mẹ Ông. Ông ở đó
gần một năm, không hoạt động gì cả và chứng bịnh của ông dường như không thể chạy
chữa. Sau cùng, ông quyết định theo học nghề chụp ảnh, vì nghề này không bắt buộc
phải dùng đến giọng nói. Trong khi ông đang tập sự nghề chụp ảnh, một nhà thôi
miên đạo diễn tên là Hart, đi ngang qua Hopskinville và biểu diễn tài nghệ tại
nhà hí viện thành phố.Nhà thôi miên Hart khi nghe nói ông Cayce bị chứng bịnh tắt
tiếng, mới đề nghị chữa bịnh cho ông bằng khoa thôi miên. Ông Cayce liền vui vẻ
nhận lời. Trong giấc thôi miên, ông Cayce tuân theo mệnh lệnh của ông Hart và
nói chuyện như thường, nhưng trái lại, khi ông thức tỉnh thì ông lại bị tắt tiếng
như trước.Trong những giấc thôi miên kế đó, nhà thôi miên bèn dẫn dụ cho ông
nghe rằng: Sau khi thức tỉnh, ông sẽ có thể nói chuyện được như bình thường.
Phương pháp này gọi là "Aùm thị thôi miên, " tuy rằng rất hiệu nghiệm
và đã từng giúp đỡ được nhiều người thắng được một vài thói quen như tật hút thuốc
quá độ chẳng hạn, lại không có kết quả đối với chứng bịnh của ông Cayce.
Ông Hart, vì phải di chuyển qua tỉnh khác theo chương trình
đã sắp đặt, không thể tiếp tục những cuộc thí nghiệm của ông nữa, nhưng có một
người tên là Layne ở cùng một địa phương, đã theo dõi cuộc chữa bịnh cho ông
Cayce một cách thích thú. Ông Layne mới đề nghị với ông Cayce để cho ông ta thử
điều trị cuống họng của ông. Ông Cayce vì muốn được khỏi bịnh bằng bất cứ
phương pháp điều trị nào, liền chấp nhận.
Ông Layne mới nảy ra một sáng kiến mới, là dẫn dụ cho ông
Cayce trong giấc thôi miên, hãy tự diễn tả căn bịnh của mình.Thất lạ thay, ông
Cayce tuân theo lời dẫn dụ đó và làm đúng y theo lời. Bằng một giọng nói bình
thường, trong khi ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của ông Layne, ông Cayce mới bắt
đầu diễn tả trạng thái của những sợi dây thanh âm (cordes vocales) trong cuống
họng ông. Ông nói: "A! Chúng ta có thể nhìn thấy cái thể xác này! Vào lúc
bình thường, nó không thể nói được vì những thớ thịt phần dưới cuống họng bị liệt
bại hết một phần, so một sự căng thẳng thần kinh gây nên. Chứng bịnh này nguyên
nhân là do một trạng thái tâm lý gây ra và ảnh hưởng đến phần thể chất. Muốn chữa
hết bịnh, phải dùng các dẫn dụ để làm vận chuyển sự lưu thông máu huyết ở bộ phận
bị đau, trong khi người bịnh còn nằm trong trạng thái vô ý thức của giấc thôi
miên."
Ông Layne liền dẫn dụ cho ông Cayce nghe rằng sự lưu thông
máu huyết của ông sẽ tăng gia một cách dồi dào ở chỗ cuống họng bị đau và bịnh
trạng của ông sẽ thuyên giảm. Lần lần, phần trên của bộ ngực và cuống họng của
ông Cayce thay đổi màu sắc, và chuyển từ hồng nhạt sang màu đỏ thắm. Sau đó 20
phút, vẫn trong giấc ngủ thôi miên, ông Cayce bèn ho lên mấy tiếng để lấy giọng
và nói: "Tốt lắm, căn bịnh đã dứt. Ông hãy dẫn dụ rằng sự lưu thông máu
huyết sẽ trở lại bình thường và thể xác này hãy thức tỉnh." Ông Layne liền
làm y theo lời. Ông Cayce bèn thức tỉnh và nói chuyện như thường lần đầu tiên từ
trên một năm naỵ Trong những tháng sau đó, thỉnh thoảng căn bịnh ông tái phát
trở lại một đôi lần. Mỗi lần như thế, ông Layne lại dẫn dụ bằng thôi miên cho
máu huyết lưu thông nơi cuống họng, và chứng bịnh lại dứt.
Câu chuyện của ông Cayce có lẽ đã chấm dứt với bấy nhiêu đó,
nếu ông Layne không nhìn thấy những triển vọng sâu xa của trường hợp đặc biệt
này, và tìm cách khai thác trên địa hạt thực tế. Lịch sử của khoa thôi miên là
điều quen thuộc đối với ông và ông đã từng biết những trường hợp tương tự đặt
dưới sự điều trị của ông De Puysegur ở Pháp, ông này là vị kế nghiệp cho bác sĩ
Mesmer, người đã khám phá ra khoa nhân điện học. Ông Layne nghĩ rằng nếu ông
Cayce có thể nhìn thấy thể xác của những người khác và khám bịnh cho họ. Ông
Layne bèn thí nghiệm điều này với chính mình ông, vì trong thời gian gần đây
ông bị chứng đau bao tử. Cuộc thí nghiệm đã thành công mỹ mãn. Trong giấc thôi
miên, ông Cayce diễn tả trạng thái bên trong xác thể của ông Layne và đề nghị một
vài phép điều trị. Ông Layne lấy làm vui mừng vô hạn: Sự khám nghiệm của ông
Cayce hoàn toàn đúng theo những triệu chứng mà chính ông đã nhận thấy và cũng
đúng theo sự khám nghiệm của nhiều vị bác sĩ khác.
Hơn nữa, cách điều trị của ông Cayce đưa ra gồm có một phép
ăn uống hạn chế, kiêng cữ, những thuốc men và những phép tập thể dục chưa từng
đem áp dụng cho trường hợp của ông từ trước. Ông Layne bèn áp dụng theo cách điều
trị ấy và trong vòng ba tuần, ông nhận thấy rằng bịnh trạng của ông đã thuyêng
giảm rất nhiều. Những sự kiện trên đây là cho ông Cayce lưỡng lự phân vân không
ít. Nhưng ông Layne lấy làm vô cùng hứng khởi và quyết định thử xem phép điều
trị này có thể chữa khỏi bịnh cho những người khác hay không?
Hồi mới lên mười tuổi, ông Cayce bắt đầu đọc bộ Thánh Kinh
(Bible), và đọc đi đọc lại hàng năm từ đầu đến cuối bộ sách ấy. Ông có ý nghĩ
muốn trở nên một nhà chữa bịnh để cứu giúp các bệnh nhân đau khổ, cũng như các
vị môn đồ đấng Christ hồi xưa.Về sau, ông có tham vọng trở nên một nhà truyền
giáo như đã nói ở trên, nhưng hoàn cảnh của ông không cho phép.Và đến bây giờ
thình lình ông nhận thấy cơ hội làm thầy chữa bịnh cho thiên hạ tự nhiên xuất
hiện đến với ông. Nhưng ông còn băn khoăn lo ngại không dám nắm lấy cơ hội ấy,
vì ông sợ rằng nếu trong giấc ngủ thôi miên, ông lỡ nói một điều gì có hại và
nguy hiểm cho tánh mạng kẻ khác, thì sao? Nhưng ông Layne liền bảo đảm rằng ông
đừng sợ gì cả; chính ông Layne đã có hiểu biết khá nhiều về Y học để có thể
ngăn chận lại những phép điều trị nào xét ra có hại cho bịnh nhân. Ông Cayce liền
thăm dò lại bộ Thánh Kinh để tìm lấy một đường lối hành động. Sau cùng, ông bằng
lòng giúp đỡ cho những người bịnh nào muốn điều trị theo phương pháp của ông,
nhưng ông nói trước một cách dứt khoát rằng đó chỉ là những cuộc thí nghiệm, và
ông không đòi hỏi tiền thù lao chi cả.
Kế đó, ông Layne mới bắt đầu chép bằng tốc ký những lời mà
ông Cayce thốt ra trong giấc ngủ thôi miên và gọi đó là biên bản, hay phúc
trình những cuộc "Khán Bịnh Bằng Thần Nhãn." Điều lạ lùng nhất trong
những cuộc khán bịnh của ông Cayce, ngoài những giờ hành nghề nhiếp ảnh, ông đã
dùng những danh từ đúng đắn về khoa Sinh Lý Học và Cơ Thể Học, mặc dầu trong
lúc thức tỉnh, ông không hề biết một điều gì về nghành Y học và không hề đọc
các sách về Y khoa. Điều càng lạ lùng hơn nữa đối với ông Cayce, là những bịnh
nhân do ông điều trị đều được thuyên giảm rất nhiều. Trường hợp của ông Layne
không đủ làm cho ông chịu thuyết phục vì ông cho rằng có lẽ sự tưởng tượng đã
làm cho ông Layne tưởng rằng mình khỏi bịnh.Về phần ông Cayce, việc ông đã thu
hồi lại được giọng nói không thể cho là sự tưởng tượng, nhưng đó có thể chỉ là một
sự ngẫu nhiên tình cờ.
Những sự nghi ngờ nó vẫn luôn ám ảnh ông trong những năm đầu
khi ông mới bắt tay vào việc khán bịnh bằng Thần Nhãn, đã lần lần giải tán trước
sự kiện hiển nhiên là những bịnh nhân do ông điều trị đều được khỏi bịnh, thậm
chí đến cả những trường hợp được coi như là nan y và hết phương chạy chữa.
Lần lần, quyền năng phi thường của ông Cayce đã được đồn đãi
khắp mọi nơi. Một ngày kia, ông được tin điện thoại của ông cựu Thanh tra Giáo
dục thành phố Hopskinville mời ông đến chữa cho cô con gái của ông mới lên năm
tuổi, và đau ốm đã ba năm naỵ Em ấy bị chứng cảm cúm vào năm hai tuổi và từ khi
đó đến nay, em bị mất trí khôn. Những vị bác sĩ chuyên môn mà cha mẹ em đã mời
đến khám bịnh cho em đều thúc thủ vô sách, không làm sao cứu em khỏi bịnh. Gần
đây, em lại bị chứng phong giựt càng ngày càng dữ dội thêm, và một vị bác sĩ
chuyên môn đã tuyên bố rằng đó là một chứng bịnh thuộc về óc, không thể chữa nổi.
Cha mẹ em đã tuyệt vọng, và đem em trở về nhà để chờ ngày em trút linh hồn. Khi
đó, một người bạn mới nói chuyện về cha mẹ em về ông Cayce và quyền năng nhiệm
mầu của ông. Khi ông Cayce nghe nói về trường hợp của cô gái nhỏ này, ông bằng
lòng di chuyển đến nơi để khám bịnh cho em ấy.Vì tình hình tài chánh của ông
không được dồi dào lắm, nên ông phải nhận tiền lộ phí của gia đình bệnh nhân
cung cấp: đó là lần đầu tiên mà ông nhận một món tiền về công việc chữa bịnh của
ông để giúp đỡ kẻ khác. Ông bèn lên đường, tuy rằng với một sự băn khoăn khó
nghĩ trong lòng.
Khi cô gái nhỏ được đem đến trước mặt ông, ông càng cảm thấy
một cách thấm thía sự mỉa mai của vai trò của ông: Vì ông, con của một gia đình
nông dân tầm thường và không biết một chữa về y học, lại tự hào có thể chạy chữa
cho một đứa trẻ mà những nhà chuyên môn giỏi nhất trong xứ về nghành Y khoa đã
phải chịu bó tay không chữa nổi! Ông cảm thấy hơi run rẩy khi ông nằm trên chiếc
sofa trong phòng khách nhà ông Thanh tra, và ngủ mê thiếp đi. Tuy nhiên, trong
giấc ngủ thôi miên, ông không còn băn khoăn nghi ngại về ông nữa. Ông Layne có
mặt ở một bên để dẫn dụ cho ông, và chép bằng tốc ký những lời ông Cayce thốt
ra như thường lệ.
Với một sự bình tĩnh và tự tin mà ông vẫn thường biểu lộ
trong những cuộc khàn bệnh trước đây, ông Cayce mới bắt đầu diễn tả bịnh trạng
của đứa trẻ. Ông cho biết rằng trước khi bị cảm cúm, em bé ấy đã bị té ngã từ
trong xe văng xuống đất, và vi trùng bịnh cúm đã đột nhập vào chỗ thương tích
do tai nạn gây ra; rằng điều này gây nên chứng phong giựt. Ông cho biết thêm rằng
một sự điều trị thích nghi bằng phép nắn xương sẽ có thể làm giảm bớt áp lực và
giúp cho em nhỏ được bình phục trở lại như thường.
Bà mẹ em bé xác nhận việc em bị ngã xe, nhưng vì không thấy
có thương tích, nên bà không hề nghĩ rằng việc ngã xe lại có ảnh hưởng đến bịnh
trạng của em bây giờ. Ông Layne bèn áp dụng cách điều trị cho em theo lời dặn của
ông Cayce và trong vòng ba tuần, em nhỏ đã hết chứng phong giựt. Tình trạng trí
khôn của em đã khá nhiều: Em nói được tên của con búp bê, món đồ chơi thích nhất
của em mà em vẫn chơi trước khi bị bịnh; sau đó em gọi tên của cha mẹ em và cha
mẹ em lần đầu tiên từ nhiều năm naỵ Sau ba tháng, hai ông bà chủ nhà tuyên bố rằng
cô con gái nhỏ của ông bà đã hoàn toàn bình phục và đang cố gắng vớt vát lại thời
gian đã mất trong những năm đen tối vừa qua.
Những sự việc xảy ra như trường hợp này đã đem đến cho ông
Cayce một đức tin rằng ông không lầm mà đem sử dụng khả năng lạ lùng của ông để
giúp đỡ thế gian. Tiếng tăm của ông càng ngày càng đồn xạ Báo giới đã khám phá
ra chỗ ông ở và đã phỏng vấn ông. Kể từ khi đó, hằng ngày ông đều nhận được những
cú điện thoại và những bức điện tín của những bệnh nhân tuyệt vọng yêu cầu ông
chữa bệnh cho họ. Chính nhờ đó mà ông nhận thấy rằng ông có thể khám bệnh xuyên
qua không gian, trong khi ông ở cách xa bệnh nhân đến hằng mấy trăm dặm đường,
miễn là trong giấc thôi miên, người ta nói cho ông biết tên tuổi và địa chỉ rõ
ràng của bệnh nhân.
Ông Cayce thường bắt đầu các cuộc khán nghiệm bịnh nhân ở xa
bằng vài lời bình phẩm về thời tiết và hoàn cảnh địa phương chỗ bịnh nhân ở, với
một giọng nói thì thầm đại khái như:
"Ở đây, sáng nay gió thổi mạnh quá!"
"Đây là Winthertur ở Thụy Sĩ. À! Những bộ áo pyjama này
đẹp quá!"
"Ừ! Bà mẹ đang cầu nguyện ở phòng bên!"...
Những sự tả cảnh đó về sau được xác nhận là đúng, lại càng
giúp một bằng chứng xác thực về năng khiếu Thần Nhãn của ôn Caycẹ Dầu rằng bịnh
nhân ở cách xa, hay ở gần một bên ông trong một gian phòng, thì ông cũng dùng một
phương pháp giống nhau không có gì thay đổi. Ông chỉ cần cởi giày, lên nằm trên
divan hay trên giường một cách hoàn toàn thoải mái và nghỉ ngơi. Ông nhận thấy
rằng ông cần phải nằm day đầu về hướng bắc và quay về hướng nam. Ngoài ra một
chỗ nằm và một cái gối để gối đầu, ông không cần dùng một món gì khác.
Những cuộc khán nghiệm có thể diễn ra ban ngày cũng như ban
đêm, và bóng tối hay sáng đều không có ảnh hưởng gì khác nhau. Vài phút sau khi
nằm yên chỗ, ông liền ngủ thiếp đi. Khi đó, ông Layne, hay là vợ Ông Cayce, hay
bất cứ một người nào khác mà ông tin cậy và giao phó trách nhiệm này, mới đưa
ra cho ông những lời dẫn dụ thích nghị Câu dẫn dụ thông thường là: "Bây giờ,
ông sẽ thấy trước mặt ông (tên họ người bệnh), ở tại (địa chỉ: Tên đường thành
phố, xứ) Ông sẽ khán nghiệm thân thể người ấy một cách chăm chú và cẩn thận, và
ông sẽ nói cho biết bịnh trạng cùng nguyên nhân của chứng bịnh là như thế nào.
Ông cũng sẽ nói cách điều trị ra sao để chữa bịnh cho cái thể xác người ấy được
thuyên giảm. Và ông sẽ đáp lại những câu hỏi của tôi đưa rạ"
Vài phút sau, ông Cayce bắt đầu nói, và ông Layne hoặc cô thư
ký Gladys Davis chép bằng tốc ký những lời nói của ông Caycẹ Sau đó, bản chép tốc
ký được đem đánh máy lại rõ ràng. Trong phần nhiều trường hợp, một bổn sao được
đưa cho người bịnh hoặc thân nhân của y, hoặc người đỡ đầu hay vị bác sĩ của
đương sự, còn một bổn sao bằng giấy màu vàng thì được giữ trong hồ sơ của bệnh
nhân.
Lời đồn đãi truyền khẩu và những bài tường thuật trên mặt báo
chí về năng khiếu Thần Nhãn của ông Cayce không bao lâu đã hấp dẫn sự chú ý của
những tay con buôn có óc trục lợi. Một nhà buôn lớn về ngành bông vải đề nghị
trả cho ông Cayce mỗi ngày một trăm dollars liên tiếp trong hai tuần để nhờ ông
"Xem" giùm giá thị trường bông vải hằng ngày. Mặc dầu lúc ấy ông đang
cần dùng tiền, nhưng ông bèn từ chối. Có những người khác muốn nhờ ông chỉ giùm
những chỗ chôn giấu kho tàng, hoặc chỉ con ngựa nào về nhứt để đánh trúng giải
cá ngựa trong trường đuạ Có nhiều lần, ông Cayce đã chịu nghe theo lời thiên hạ
thỉnh cầu và làm thử những chuyện kể trên để rút kinh nghiệm và cũng để xem kết
quả ra sao. Nhiều lần ông đã thành công và nói đúng kết quả của những cuộc cá
ngựa; nhưng nhiều lần ông cũng đã nói sai! Và những lần như thế, sau khi thức tỉnh
ông cảm thấy mệt mỏi, bực dọc và bất mãn về mình! Có một lần, người ta thuyết phục
được ông hãy thử thời vận và dùng Thần Nhãn để khám phá các mỏ dầu hỏa ở tiểu
ban Texas, nhưng ông không thu được kết quả gì đáng kể và đã hoàn toàn thất bại!
Sau cùng ông nhận thấy rằng ông chỉ có thể sử dụng năng khiếu
thần thông của mình một cách hữu hiệu và chắc chắn vào mục đích chữa bịnh cho
nhân loại, vài chỉ vì mục đích duy nhất đó mà thôi, chớ không bao giờ nên dùng
Thần Nhãn để giúp cho ai, hay cho chính mình trong việc kiếm tiền và sinh lợi!
Chí đến những sự quảng cáo ồ ạt để cầu danh, ông đều dửng dưng không quan tâm đến.
Năm 1922, ông Giám Đốc tờ báo Denver Post nghe nói đến ông
Cayce và mời ông đến Denver. Sau khi dự kiến một buổi khám bịnh có kết quả hiển
nhiên, ông ta liền đề nghị với ông Cayce một việc sau đạy: Ông ta sẽ trả cho
ông Cayce mỗi ngày một ngàn dollars, và tự đảm nhiệm lấy công việc tổ chức những
cuộc trình diễn lưu động trong xứ, nếu ông Cayce bằng lòng đổi tên họ và khoác
lấy một cái tên Ấn Độ, ăn mặc và bịt khăn theo lối Đông Phương, và khán bịnh bằng
giấc thôi miên sau một tấm màn che khuất để tránh những cặp mắt tò mò. Nhưng
ông Cayce quyết liệt từ chối.
Ông David Kahn, Giám Đốc công ty Vô Tuyến Truyền Hình ở
Brunswich, và là bạn cũ của ông Cayce, trong những cuộc nói chuyện riêng tư, đã
quảng cáo về việc làm của ông Cayce trong các giới bạn bè và các giới kinh
doanh thương mãi; nhưng khi ông đề nghị mở một chương trình quảng cáo đại quy
mô về công việc của ông Cayce trên đài vô tuyến truyền hình, thì ông Cayce liền
từ chối một cách quyết liệt, ai làm bất cứ một sự quảng cáo nào về sự khán bịnh
hay về những cuộc diễn thuyết công cộng của ông.
Trong các cuộc đàm thoại với những người không được biết ông
nhiều, ông không bao giờ nói về năng khiếu đặc biệt của mình, nếu người ta
không hỏi ông về vấn đế đó. Có nhiều người ở cùng một tỉnh nhưng không hề biết
gì về ông, ngoài ra việc ông làm nghề nhiếp ảnh. Ông sống với một niềm tin tưởng
chắc chắn rằng ông chỉ là một khí cụ để giúp đỡ và đem lại sức khỏe cho những kể
ốm đau khổ sở, và ông không bao giờ nên làm cho thiên hạ chú ý đến mình.
Trong những năm đầu, ông Cayce vẫn tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh,
và luôn luôn từ chối không nhận tiền thù lao về những cuộc khám bịnh của ông. Về
sau, khi số người bịnh đến nhờ ông chạy chữa càng ngày càng đông làm cho ông
không thể nào tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh được nữa, ông mới có lý do nhận tiền
thù lao vì ông còn phải đùm bọc và nuôi dưỡng gia đình. Tuy thế, đối với những
người nghèo không đủ sức trả tiền, ông vẫn khám bịnh giùm không lấy tiền. Không
bao giờ ông Cayce đòi hỏi hoặc bắt buộc bịnh nhân phải trả tiền thù lao.
Những bổn sao các thư từ của ông hiện còn được cất giữ trong
các tập hồ sơ ở Virginia Beach, nơi ông đến trú ngụ từ năm 1927, là nhữg bằng
chứng hùng biện cho lòng hy sinh, vô kỷ của ông. Mặc dầu trong những bức văn
thư ấy có rất nhiều sự thiếu sót về văn phạm, cách chấm câu và cách hành văn,
nhưng nó biểu lộ một cách sâu xa lòng mong muốn giúp đỡ và làm giảm bớt những nỗi
đau khổ của nhân loại. Trong những năm đầu tiên đó, ông Cayce luôn luôn bị dày
vò bởi sự hoài nghị Có đôi khi, trong những cuộc khán binh, ông Cayce vẫn lặng
thinh không nói gì trong giấc ngủ thôi miên. Có lẽ trong những lúc đó, năng khiếu
Thần Nhãn của ông bị ảnh hưởng bởi tình trạng sức khỏe hoặc trạng thái bất an của
tâm hồn. Mặc dầu lúc thường, ông là một người dịu dàng và hiền lành, nhưng ông
có những lúc nóng giận thình lình; và ông thường có sự lo âu về tiền bạc.
Một tâm trạng như thế lẽ tất nhiên làm tê liệt mất năng khiếu
của ông. Trong những trường hợp khán bịnh mà không có kết quả, người ta phải
đình lại một lúc khác để đợi cho tình trạng sức khỏe và tâm lý của ông được phục
hồi trở lại, khi đó cuộc khán bịnh sẽ đem lại kế quả mong muốn.
Nhưng ông Cayce cũng bị xúc động một cách sâu xa nếu có bịnh
nhân nào tỏ vẻ bất mãn vì cuộc khán bịnh không nói đúng theo bịnh trạng của họ,
hoặc sự điều trị không có kết quả như mong muốn. Trong những trường hợp đó, ông
Cayce xin lỗi một cách khiêm tốn trong những bức thơ dài, và giải thích rằng
ông không hề tự hào là Thần Y có thể chữa khỏi bá bịnh; rằng có một phần chi tiết
mà ông không được biết rõ, điều này làm cho những cuộc khán bịnh của ông trở
nên kém hiệu lực và bất toàn; và đôi khi ông không nhìn thấy rõ ràng mọi sự,
cũng như một cái máy thu thanh vô tuyến, nghe khi mờ khi tỏ, chứ không phải lúc
nào cũng chạy một cách đều đặn, hoàn toàn. Và trong thơ, ông kết luận: "Mục
đích duy nhất của chúng tôi là giúp đỡ ông." Và ông gửi kèm theo trong thơ
một ngân phiếu hoàn nguyên số tiền mà ông đã nhận được lại cho vị thân chủ.
Thỉnh thoảng, sau nhiều tháng, chính những người thân chủ đó
trở lại cho ông hay rằng một cuộc khán bịnh riêng về sau đã xác nhận những gì
ông đã nói từ lúc đầu, mà họ đã nghi ngờ là không đúng như bịnh trạng của họ.
Cũng có đôi khi ông Cayce nhận thấy rằng những bịnh nhân đã than phiền về sự chữa
bịnh không lành, đã tỏ ra cẩu thả không chịu áp dụng đúng theo cách điều trị của
ông đưa ra, chẳng hạn như họ quên ăn uống kiên cữ, hoặc không chịu uống thuốc,
hoặc xao lãng về phần kỷ luật tinh thần mà ông đã buộc họ phải noi theo. Dầu
sao ông cũng biết rằng những cuộc khán bịnh của ông không phải là bá phát bá
trúng. Nhưng với thời gian qua, những cuộc khán bịnh của ông càng ngày càng trở
nên rõ ràng và đúng đắn hơn trước, vì kinh nghiệm đã giúp cho ông biết cách sử
dụng năng khiếu của ông một cách hữu hiệu hơn. Những sự thất bại hoặc sai biệt
xảy ra một đôi khi, đã được bù đắp bởi những sự chữa lành bịnh một cách mầu nhiệm.
Một vị linh mục Thiên Chúa giáo người Gia Nã Đại đã được chữa
khỏi bịnh động kinh; một người trò trường tỉnh ở Dayton (Ohio) đã được chữa khỏi
bịnh đau khớp xương; ở New York, một viên nha y đã được chữa khỏi trong hai tuần
chứng bịnh nhức đầu kinh niên đã nhiều năm; một thiếu niên ở Philadenlphia mắc
chứng bịnh đau mắt có cườm, là một chứng bịnh được coi như là nan y, đã được
bình phục khi một vị bác sĩ chữa cho y theo lời chỉ thị của ông Cayce.
Chính những trường hợp chữa khỏi bịnh kể trên đã xảy ra rất
nhiều lân2, làm cho ông Cayce bình nhật vốn là một người khiêm tốn, do dự, và cẩn
thận rất mực, phải tin tưởng nơi cái năng khiếu của ông, mặc dầu thỉnh thoảng vẫn
có những sự khó khăn và một vài sự sai biệt nhỏ nhặt không đáng kể; và ông có
thể tin rằng đó là một cái thiên tư đặc biệt của trời phú cho.
Năm 1942, do các báo chí đua nhau nói về thân thế và sự nghiệp
của ông Cayce, tên tuổi của ông đã vang dội khắp nơi ở Hoa Kỳ. Kết quả là hằng
triệu thơ từ của người trong xứ ở khắp bốn phương đều được gởi đến nhờ ông chữa
bịnh, trong số đó có nhiều trường hợp rất đau thương và vô cùng khẩn cấp. Ông
Cayce không bao giờ từ chối việc chạy chữa cho một bịnh bệnh nhân nào và không
bao giờ ruồng bỏ một ai, đành phải định ngày khám bịnh cho từng người, và có
người ông phải hẹn trước đến mười tám tháng mới đến phiên khám bịnh cho y.
Thay vì chỉ khám bịnh hai hay ba lần trong mỗi ngày, có khi
ông đã khám bịnh đến tám lần, sớm mai bốn lần và bốn lần vào buổi chiều. Làm việc
trong giấc ngủ, có vẻ dường như là một công việc thoải mái dễ dàng, nhưng sự thật,
ông Cayce đã phung phí rất nhiều sinh lựcvà sự căng thẳng gây nên bởi sự làm việc
quá sức đó đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ông; ông từ trần vào ngày ba tháng
giêng năm 1945, hưởng thọ 67 tuổi.
Cuộc đời của ông Edgar Cayce đã chấm dứt, nhưng tiếng tăm của
ông không bao giờ mất. Nếu một người trở nên bất tử và lưu danh thiên cổ do những
công trình phụng sự nhân loại thì người ta có thể nói rằng ông Cayce đã trở nên
bất tử với thời gian vậy.
Chương 3 - Giải Đáp Cho Những Vấn Đề Bí Hiểm Của Đời Người
Trong khoảng hai mươi năm làm việc chữa bịnh để cứu độ thế
gian, ông Cayce đã cứu chữa cho hằng mấy muôn nghìn bịnh nhân, và điều này càng
xác nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhãn của ông.Với năng khiếu thần thông này,
ông Cayce nhìn thấu suốt tận trong ngũ tạng lục phủ của người bịnh, và những bộ
phận ẩn giấu trong cơ thể con người, mà trong trường hợp thông thường người ta
không nhìn thấy được. Trong nhiều năm sau, người ta mới bắt đầu nghĩ rằng nếu
Thần Nhãn có thể soi thấu vào cơ thể con ngươòi, thì chắc nó cũng có thể chuyển
hướng ra bên ngoài vũ trụ càn khôn để nhìn thấy những mối liên quan giữa con
người và vũ trụ, và tìm sự giải đáp cho những vấn đề bí hiểm của đời người. Việc
đó đã xảy ra trong trường hợp sau đây:
Ông Arthur Lammers, chủ nhân một nhà in lớn ở Dayton, tiểu
bang Ohio, có nghe một người cộng sự với ông nói chuyện về ông Caycẹ Ông lấy
làm thích thú và tò mò đến nỗi ông bèn lên đường đi đến tận nơi để quan sát
công việc của ông Cayce ở Selma, tiểu bang Alabama, là nơi ông Cayce đang trú
ngụ. Sau khi đã quan sát những cuộc khán bịnh của ông Cayce trong nhiều ngày
liên tiếp, ông Lammers mới nhìn nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhãn của ông
này. Ông Lammers là một người thông minh và có kiến thức rộng. Ông bèn nghĩ rằng
nếu một người có nhãn quang nhìn thấy những sự vật ẩn dấu đối với cặp mắt phàm,
thì người ấy chắc có thể làm sáng tỏ những vấn đề rộng lớn hơn về vũ trụ và
nhân sinh, chứ không phải chỉ nhìn thấy có sự hoạt động của lá gan hay bộ máy
tiêu hóa của người bịnh mà thôi đâu. Thí dụ như: Trong tất cả mọi nghành triết
học và tôn giáo, thì nghành nào gần nhất với Chân Lý? Mục đích của đời người là
gì? Thuyết cho rằng linh hồn con người vốn bất diệt có đúng hay không? Nếu là
đúng, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Thần Nhãn của ông Cayce có thể đem
đến sự giải đáp cho những vấn đề ấy chăng?
Ông Cayce không hề biết một chút gì về những vấn đề ấy. Những
vấn đề trừu tượng về linh hồn và mục đích của cuộc đời,... Không hề thoáng qua
trong ý của ông. Ông chỉ chấp nhận một cách âm thầm những giáo lý mà người ra
giảng cho ông ở Nhà Thờ; mọi sự thảo luận hoặc so sánh những giáo lý đó với triết
học, khoa học và các tôn giáo khác đều là hoàn toàn xa lạ đối với ông.
Sở dĩ ông đã chịu sự dẫn dụ trong những giấc ngủ thôi miên là
vì do lòng mong muốn giúp đõ những kẻ bịnh tật đau khổ. Ông Lammers là người đầu
tiên đã nghĩ đến việc dùng Thần Nhãn vào những mục đích khác hơn là chữa bịnh
cho nhân loại, và điều này càng làm tăng gia lòng hứng khởi của ông Caycẹ Trong
những giấc thôi miên, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm, ông đã
luôn luôn trả lời và giải đáp đúng những câu hỏi nêu ra. Vậy thì không có lý do
gì mà ông không thể giải đáp luôn cả những câu hỏi của ông Lammers về các vấn đề
vũ trụ nhân sinh khác hơn là vấn đề chữa bịnh.
Ông Lammers vì bận công việc kinh doanh không thể kéo dài thời
gian ở Selma, nên ông yêu cầu ông Cayce hãy về ở tại nhà ông ở Dayton trong vài
tuần. Ông Cayce bằng lòng với ý nghĩ rằng có lẽ đấng Thiên Liêng muốn kêu gọi
ông vào những công việc phụg sự khác nữa. Gần đây ông Lammers có chú ý đến khoa
Chiêm Tinh. Ông nghĩ rằng nếu khoa Chiêm Tinh đúng với Chân lý, thì đó có thể
là một nghành khoa học nối liền con người và vũ trụ mà chúng ta có thể hiểu được
rõ ràng. Ông bèn có ý định bắt đầu thí nghiệm Thần Nhãn của ông Cayce về khoa
này.
Một ngày nọ vào tháng 10, năm 1923, khi ông Cayce nằm trong
giấc ngủ thôi miên trong một gian phòng khách sạn Phillips ở Dayton, thì người
ta dẫn dụ cho ông hãy lấy một lá số Chiêm Tinh cho ông Lammers. Tuân theo như
thường lệ những lời dẫn dụ mà ông nhận được, ông Cayce bèn đưa ra những chi tiết
về lá số của ông Lammers bằng một vài câu vắn tắt. Và sau cùng, cũng một lối
hành văn ngắn ngủi, vắn tắt như thế ông nói một câu lạ lùng: "Thuở xưa y
là một tu sĩ." Câu nói tuy vắn tắt, nhưng đối với ông Lammers là người đã
từng đọc nhiều và đã từng quen thuộc với những lý thuyết quan trọng về nhân
sinh và định mệnh con người, câu nói ấy làm cho ông giựt mình chẳng khác nào
như bị điện giựt!
Phải chăng câu ấy có nghĩa là Thần Nhãn của ông Cayce đã xác
nhận như một sự thật hiển nhiên cái giả thuyết cổ xưa về vấn đề Luân Hồi?
Thay vì làm thỏa mãn sự tò mò của ông Lammers, cuộc khán nghiệm
đó lại càng làm cho ông tọc mạch muốn biết thêm. Khi ông Cayce thức tỉnh, ông
thấy ông Lammmers đang bàn luận sôi nổi với cô nữ bí thơ Linden Shroyer về những
lời nói của ông vừa rồi. Ông Lammers tuyên bố rằng nếu người ta có thể chứng
minh thuyết Luân Hồi là có thật, thì điều đó sẽ làm đảo lộn và thay đổi tất cả
những quan niệm đã có từ trước về triết học, tôn giáo, và tâm lý học! Nếu ông
Cayce cứ tiếp tục thí nghiệm của ông sẽ có thể tiết lộ cho ta thấy rõ ràng luật
Luân Hồi hành động bằng cách nào. Thí dụ như những mối liên hệ giữa Luân Hồi và
khoa Chiêm Tinh là như thế nào? Hai điều trên đây sẽ giải thích bằng cách nào về
linh hồn, về định mệnh, và về đời sống con người?
Ông Lammers bèn khẩn khoản yêu cầu ông Cayce lấy làm lưỡng lự
phân vân, nhưng ông vẫn nhận lời tiếp tục những cuộc khán nghiệm. Những câu hỏi
của ông Lammers đưa ra đã được giải đáp một cách đứng đắn và với đầy đủ chi tiết
về những tiền kiếp của ông, cùng những vấn đề bí hiểm của đời người mà ông bắt
đầu khảo cứu tìm tòi. Theo những cuộc khán nghiệm đó, khoa Chiêm Tinh có chứa đựng
một phần nào sự thật. Thái Dương Hệ đưa đến cho linh hồn đang tiến hóa một cơ hội
học hỏi kinh nghiệm trong một chu kỳ nhất định. Con người thâu thập kinh nghiệm
ở cõi trần và trên những cõi vô hình khác, mà thuở xưa người ta gọi bằng tên
các cầu hành tinh làm trung tâm điểm cho những cõi ấy. Tuy nhiên, khoa Chiêm
Tinh mà người ta được biết và thực hành trong thời buổi hiện tại, chỉ là gần
đúng với sự thật mà thôi, chứ không phải là hoàn toàn đúng, bởi vì có nhiều yếu
tố ẩn tàng mà người đời chưa khám phá ra được một cách đầy đủ trọn vẹn.
Những điều đó thật là lạ lùng đối với ông Cayce, nhưng sự tò
mò khiến ông cứ tiếp tục những cuộc khán nghiệm mà ông Lammers yêu cầu. Họ tự
nghĩ rằng những tài liệu mà họ muốn biết về những tiền kiếp sẽ được đầy đủ hơn
nếu họ đừng đòi hỏi lấy một "Lá số, " và nếu ông Cayce nhận một sự dẫn
dụ thích nghi hơn. Bởi đó người ta mới đề nghị rằng trong giấc thôi miên ông
Cayce hãy đưa ra một lối dẫn dụ thích nghịVà đây là lối dẫn dụ mà ông Cayce đã
đưa ra:
"Ông sẽ đứng trước mặt (tên của một người nào đó), sinh
ngày... Tại... Ông sẽ nói cho biết thân thế và sự nghiệp của y và vai trò của y
trong vũ trụ là như thế nào, cùng những khuynh hướng và khả năng của y trong kiếp
hiện tại. Ông cũng cho biết những tiền kiếp của y ra sao với những chi tiết về
tên tuổi, xứ sở và thời kỳ nào y đã trải qua những tiền kiếp đó.Và ông cũng cho
biết luôn những nguyên nhân nào trong mỗi kiếp đã giúp đỡ hoặc làm trì trệ sự
tiến hóa của y trong kiếp này."
Từ đó những cuộc khán nghiệm đều nhằm rõ rệt vào những tiền
kiếp của đương sự. Những cuộc khán nghiệm này được gọi bằng danh từ soi kiếp, để
phân biệt với danh từ khán bịnh, chỉ nhằm khán nghiệm thể xác của bịnh nhân vì
mục đích chữa bịnh mà thôi. Đối với hai loại khán nghiệm kể trên, ông đều áp dụng
một phương pháp giống như nhau, trừ một chi tiết này, là mỗi khi ông Cayce tuần
tự soi kiếp cho nhiều người liên tiếp nhau thì ông bắt đầu cảm thấy chóng mặt dữ
dội. Chính ông cũng tự khán nghiệm lấy mình để tìm ra nguyên nhân sự chóng mặt,
thì ông được cho biết rằng cần phải đổi chiều hướng và quay đấu về hướng bắc,
chân về hướng nam trong những cuộc soi kiếp. Còn lý do vì sao cần phải thay đổi
chiều hướng như thế, thì không thấy giải thích, mà chỉ thấy nói rằng đó là một
vấn đề thuận giòng "Từ điển."
Những cuộc soi kiếp cho chính ông Cayce tiết lộ rằng cách đây
nhiều thế kỷ, ông đã từng làm một vị cao tăng ở các đền cổ ở bên Ai Cập và có
nhiều quyền phép thần thông, nhưng ông đã bị vấp ngã vì tánh kiêu căng và thói
ưa sắc dục. Trong một tiền kiếp ở Ba Tư, ông làm một y sĩ. Trong một kiếp khác,
có lần ông bị thương trong một trận chiến tranh trên sa mạc và bị bỏ sót lại
trên bãi cát, vì những người đồng bọn tưởng rằng ông đã chết. Nằm một mình,
không có nước uống, không lương thực và không một mái che ông đã chịu khổ rất
nhiều trong ba ngày và ba đêm đến nỗi ông đã làm một cố gắng rất lớn để xuất thần
ra khỏi thể xác của ông. Ông đã xuất thần được và chính nhờ việc ấy một phần
nào mà ngày nay ông có cái khả năng tự thoát ly ra khỏi những giới hạn của xác
thể.Tất cả những đức tánh và thói xấu của ông hiện thời đều được cân nhắc đứng
đắn và đều có thể truy nguyên ra ở những kinh nghiệm trong các kiếp trước. Cuộc
đời hiện tại là một sự thử thách cho linh hồn ông; ông đã có cơ hội phụng sự
nhân loại một cách vị tha, để cứu chuộc những tội lỗi trong quá khứ, là thói
kiêu căng, đắm mê vật chất và ưa thích điều sắc dục.
Ông Lammers nghĩ rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một
tầm quan trọng rất lớn, và bởi đó người ta cần thực hiện những cuộc sưu tầm rộng
lớn hơn về vấn đề này. Ông yêu cầu ông Cayce hãy đem gia quyến từ Selma về ở
Dayton và đề nghị chịu đài thọ mọi khoản tổn phí về sinh hoạt cho cả gia đình
ông, gồm cả bà Cayce, cùng hai người con trai và cô bí thư Gladys Davis, cô này
từ đó đã trở nên một người thân tín trong gia dình ông. Cả gia đình đều bằng
lòng chấp thuận. Khi họ được cho biết về những sự gì xảy ra, thì họ đều có sự
phản ứng giống như của ông Cayce: Lúc đầu họ còn ngạc nhiên và nghi ngại, kế đó
họ càng trở nên tò mò muốn biết sự thật và sau cùng họ đều lấy làm thích thú
cho đến say mệ Ông Cayce bèn soi kiếp cho mỗi người trong gia đình ông. Trong mỗi
trường hợp, tâm tính của mỗi người đều được diễn tả một cách công khai và ông
cho biết rằng mỗi thói hư tật xấu và mỗi đức tánh tốt đều có nguyên nhân trong
những tiền kiếp. Trong cuộc soi kiếp cho một người con trai ông, ông nói:
"Trong bốn tiền kiếp con là một nhà khảo cứu khoa học, con đã trở nên có
óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi." Soi kiếp cho một người nên có óc duy vật,
ích kỷ và vụ lợi." Soi kiếp cho một người con khác ông nói: "Con có
tánh rất nóng nảy; thói xấu đó đã gây cho con nhiều điều bất lợi trong những tiền
kiếp ở Ai Cập và ở Anh Quốc. Kiếp nầy con nên tập lấy sự tự chủ và tánh kiên nhẫn."
Những sự diễn tả tánh tình đó đều hoàn toàn đúng đắn và chân
thật, dầu cho đương sự là những người thân thích hay những người xa lạ như ông
Lammers, cơ Linden Shroyer và những người bạn của ông Lammers, và điều đó càng
làm cho ông này thêm phần hứng khởi và tin tưởng.
Nhưng ông Cayce cảm thấy thắc mắc về những điều tiết lộ đó, đến
nỗi ông đâm ra nghi ngờ về ông và ông đã tự kiểm thảo lương tâm một cách ráo riết.
Sau cùng ông đi đến kết luận rằng ông có thể tin cậy nơi năng khiếu Thần Nhãn của
mình, bằng những cuộc khán bịnh và soi kiếp, ông đã làm một công việc phụng sự
chánh đáng và thiêng liêng chớ không phải là một điều tà vạy. Nhưng những điều
tiết lộ của ông lại là những điều quá mới lạ và dường như... "Phản đạo,"
làm sao ông có thể tin chắc rằng đó là đúng với sự thật?
Sự băn khoăn của ông có thể hiểu được dễ dàng: Ông vốn sinh
trưởng trong một gia đình Cơ đốc giáo khắt khe và chính thống. Ông không hề được
biết một chút gì về những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới. Trong lúc
này, ông vẫn không biết gì về phần nhiều những điểm tương đồng giữa đạo Cơ đốc
với những tôn giáo khác, và ông chưa từng có dịp thưởng thức cái ánh sáng đạo
lý nó chiếâu diệu trong những ngọn đèn khác hơn là ngọn đèn Cơ đốc của mình.
Ông hoàn toàn dốt về giáo lý căn bản của Ấn Giáo và Phật Giáo nói về vấn đề
Luân Hồi.
Hơn nữa, danh từ này đối với ông, không được hấp dẫn cho lắm,
vì người ta thường có một quan niệm sai lầm về thuyết Luân Hồi. Họ tưởng rằng
theo thuyết ấy thì những người tội lỗi sau khi chết, có thể đầu thai trở lại
làm kiếp thú, như làm thân trâu ngựa... Chính những cuộc soi kiếp đã giải tán
những sự nghi ngờ này cho ông Caycẹ Trong những cuộc khán nghiệm các tiền kiếp,
ông Cayce được biết rằng Luân Hồi không phải là đầu thai trở lại làm thú vật;
và không phải là một điều mê tín dị đoan. Đó là một giáo lý có căn bản vững
vàng về phương diện tôn giáo và triết học. Có hằng triệu người trí thức ở Ấn Độ
và ở các xứ Phật giáo tin tưởng nơi thuyết ấy một cách sáng suốt thông minh, và
lấy đó làm nền tảng cho mọi cách xử thế trong đời sống hằng ngày của họ. Tự
nhiên là có nhiều môn phái ở Ấn Độ và ở các nước Á Châu cũng chủ trương thuyết
Thoái Bộ Luân Hồi (metempsychose), tức là con người có thể tái sinh làm kiếp
thú, nhưng đó chỉ là một sự chủ trương sai lầm về thuyết Luân Hồi. Vài tôn giáo
cũng có những quan niệm lệch lạc về thuyết này, nhưng ta không nên để cho những
sự hiểu lầm và thiên lệch đó khép chặt trí óc của ta đối với một điều Chân Lý
căn bản và trọng đại.
Ông Lammers có thể bổ túc những điều được tiết lộ trong những
cuộc soi kiếp. Ông giải thích rằng Luân Hồi có nghĩa là Tiến Hóa: Sự tiến hóa của
linh hồn con người trải qua nhiều kiếp đầu thai liên tiếp ở cõi trần, khi thì đầu
thai làm đàn ông, khi thì làm đàn bà; khi thì làm thường dân, khi thì làm vua
chúa; kiếp này đầu thai làm giống dân này, kiếp kia làm giống dân khác... Cho đến
khi linh hồn đạt tới mức hoàn thiện. Linh hồn con người cũng ví như một anh tài
tử sân khấu đóng nhiều vai trò khác nhau và mặc những bộ y phục khác nhau từ
đêm này qua đêm khác. Hoặc cũng ví như ta mặc một cái áo bằng vải trong một thời
gian, và khi nó đã cũ, thì vứt bỏ để đổi lấy một cái áo khác. Nhiều bậc Hiền
Triết và các nhà thông thái, trí thức siêu việt của Âu Tây cũng đã chấp nhận
thuyết Luân Hồi và đã viết nhiều sách vở về vấn đề này, trong số đó có
Pythagore, Platon, Plotin, Giordanno Bruno, Goethe, Whitman, Emerson, và
Schopenhauer.
Ông Cayce bày tỏ ý kiến: "Những điều đó hẳn là đúng sự
thật hiển nhiên rồi; nhưng còn đạo Cơ Đốc thì sao? Nếu tôi chấp nhận thuyết
Luân Hồi thì phải chăng điều đó có nghĩa là tôi là phủ nhận đấng Christ thì rõ.
Một luật gia trong số những người Pharisiens đã đưa ra câu hỏi đó cho đấng
Christ, và Ngài đáp rằng: Ngươi hãy kính yêu Chúa ngươi một cách hết lòng và hết
cả tâm hồn. Và ngươi hay thương yêu kẻ đồng loại của ngươi cũng như ngươi vậy.
Hai điều răn đó là tất cả giáo luật và lời dạy của các nhà Tiên Trị"
(Mathieu 22:35-40.)
Những lời dạy giản dị và sâu xa về tình bác ái đó có khác gì
với lời dạy về sự tiến hóa và thuyết Luân Hồi? Và nó có khác gì với những giáo
lý của bất cứ tôn giáo nào trên thế giới? Đức Phật đã dạy: "Ngươi đừng làm
hại kẻ khác nếu ngươi không muốn cho kẻ khác làm hại mình." Và những Thánh
Kinh của Ấn Giáo cũng dạy rằng: "Ngươi đừng làm điều gì cho người khác mà
ngươi không muốn người khác làm cho ngươi."
Ấn Giáo cũng như Phật Giáo, đều không thấy có cái sự khác biệt,
dị đồng giữa luật bác ái và luật tiến hóa tâm linh mà người ta gọi là Luân Hồi.
Những tôn giáo ấy chỉ nhấn mạnh ở luật Luân Hồi nhiều hơn mà thôi, chớ không
cho rằng hai luật ấy tương phản nhau. Nhưng ông Cayce vẫn chưa chịu thuyết phục.
Năm lên 10 tuổi, người ta đã cho ông đọc bộ Thánh Kinh (Bible) và ông rất lấy
làm say mệ Từ đó, ông nhất định đọc lại bộ sách ấy mỗi năm một lần, suốt đời
ông. Trong những năm ấy, ông không hề thấy một lần nào trong sách đó có chữ
Luân Hồi. Vậy thì tại sao bộ Thánh Kinh, và điều quan trọng hơn nữa, là đấng
Christ lại không hề nói đến vấn đề này?
Ông Lammers nghĩ rằng: "Có lẽ đấng Christ có nói về vấn
đề Luân Hồi."
Trước hết, ta nên nhớ rằng đấng Christ đã truyền dạy cho các
vị môn đồ nhiều giáo lý mà Ngài không đem giảng dạy cho quần chúng. Và dầu cho
Ngài có dạy thuyết Luân Hồi cho một số đông người, ta đừng quên rằng trải qua
nhiều thế kỷ, phần chánh giáo của Ngài đã chịu nhiều sự biến thiên dời đổi do
những sự diễn đạt của người đương thời và do sự phiên dịch qua nhiều thứ tiếng.
Bởi vậy, có thể rằng nhiều giáo lý nguyên thủy của Ngài đã bị thất truyền. Tuy
nhiên, ở một vài đoạn trong Thánh Kinh, người ta thấy có sự ngụ ý về vấn đề
Luân Hồi. Đấng Christ có lần nói với các môn đồ rằng Thánh Jean-Bastiste tức là
Elie tái sinh (Mathieu 17:12-13). Ngài không có dùng chữ Luân Hồi tái sinh,
nhưng Ngài lại nói một cách rõ ràng không úp mở, rằng "Elie đã trở lại...
Và khi đó các môn đồ hiểu rằng Ngài nói với họ về Thánh Jean-Bastistẹ"
Trong một đoạn khác, các môn đồ hỏi Ngài về một người mù: "Bạch Sư Phụ, ai
đã gây tội lỗi? Chính người này hay là cha mẹ y đã phạm tội, khiến cho y sinh
ra đã bị mù?" Nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh cũng ám chỉ, hoặc hàm xúc ý
nghĩa về Luân Hồi. Ta hãy đọc trong thiên Apocalypse, Chương mười ba, câu thứ
mười: "Kẻ nào cầm tù kẻ khác sẽ bị kẻ khác cầm tù; kẻ nào sử dụng gươm đao
sẽ chết vì gươm đao."
Câu ấy ám chỉ rằng có một định luật quả báo hành động từ kiếp
này sang kiếp khác. Có điều chắc chắn là phe chính thống của Cơ Đốc giáo đã lần
lần góp nhặt và tu chỉnh những phần giáo lý của đấng Christ không có nói về vấn
đề Luân Hồi; nhưng làm sao người ta có thể chắc chắn rằng sự diễn đạt và chọn lọc
của phe chính thống đối với những giáo lý nguyên thủy là hoàn toàn vô tư và
không thiên lệch? Nghiên cứu tiểu sử các vị cố đạo Gia Tô thời cổ, người ta thấy
có nhiều vị trong số đó đã nhìn nhận thuyết Luân Hồi trong những tác phẩm của họ,
và đã công khai giảng dạy thuyết ấy, như Origene, Jutin Thánh Jerome, Clement
d' Alexandrie, Plotin và nhiều vị khác nữa. Những vị này đã từng sống vào thời
kỳ gần với thời đại của đấng Christ. Phải chăng các vị ấy đã biết và truyền bá
những phần giáo lý bí truyền có từ nghìn xưa, mà đấng Christ chỉ dạy riêng cho
12 vị tông đồ thân tín của Ngài mà thôi?
Theo ông Lammers, thì đức giám mục Mercier tuy không tin tưởng
nơi thuyết Luân hồi, nhưng đã tuyên bố rằng thuyết ấy không trái với những giáo
điều căn bản của đạo Gia Tô.
Những điều kể trên đã giải tán bớt những nỗi thắc mắc băn
khoăn của ông Cayce, vì ông đã tưởng rằng ông dùng những quyền năng lạ lùng của
mình một cách trái Đạo, tức là tương phản với tôn giáo gốc của ông. Ngoài ra,
ông cũng còn có một vài điểm thắc mắc nghi ngờ về quyền năng của mình, nhưng điều
này lại có một tánh cách khoa học. Một thí dụ: Làm sao giải thích sự gia tăng
dân số lớn lao trên thế giới hiện nay nếu người ta chấp nhận rằng tất cả những
linh hồn đều đã có sống trên mặt đất? Vậy thì số sai biệt phụ trội đó ở đâu mà
rả Tất cả gia đình ông Cayce, cùng ông Lammers, các cô bí thư Gladys Davis và
Linden Shroyer đều thường họp mặt trong phòng khách để thảo luận về những vấn đề
ấy.Khi tất cả mọi người đều cạn ý kiến, thì người ta mới nhớ đến sự khán nghiệm
bằng năng khiếu Thần Nhãn của ông Cayce để tìm ra sự giải đáp; và khi những cuộc
khán nghiệm đó có những điều đáng ngờ vực, thì họ tham khảo tài liệu ở các sách
báo trong thư viện quốc gia.
Nói về vấn đề gia tăng dân số trên thế giới, thì tìm ra câu
giải đáp cũng không phải là một điều khó. Một người trong nhóm nói rằng dầu
sao, chúng ta có chắc rằng quả thật có sự gia tăng dân số hay không? Những cuộc
khán nghiệm đã qua có nói về những nền văn minh cổ xưa ở Ai Cập, và ở châu
Atlantide nay đã biệt tích. Ở Cao Miên, Mễ Tây Cơ, Ai Cập và ở các xứ Đông
Phương, những tàn tích khảo cổ đã xác nhận rằng những nền văn minh lớn cổ xưa
đã từng xuất hiện trên những vùng lãnh thổ rộng lớn, mà ngày nay chỉ còn là những
bãi sa mạc. Như thế người ta có thể quan niệm được rằng ở vào những thời kỳ
khác nhau trong lịch sở, có những lúc mà dân số trồi sụt không đồng đều, nhưng
vẫn không hề thay đổi linh hồn trong vũ trụ.Có thể rằng hằng triệu linh hồn vẫn
phảng phất trên các cõi vô hình trong những thời kỳ mà hoàn cảnh không thuận tiện
cho họ đầu thai xuống cõi trần.
Tuy ông Cayce vẫn có óc hoài nghi, nhưng ông đã hài lòng về
câu giải đáp hữu lý trên đây. Nhưng còn châu Atlantide cũng lại là một vấn đề
nan giải khác nữa. Làm sao chúng ta có thể biết rằng châu Atlantide là có thật?
Hay đó chỉ là chuyện hoang đường? Những cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn của ông
Cayce đã đưa ra câu giải đáp cho vấn đề ấy một cách tường tận tỉ mì và với rất
nhiều chi tiết:
Nhà triết học Platon là người đầu tiên ở phương Tây đã tường
thuật sự hiện diện của châu Atlantide, nay đã chìm dưới đáy biển Đại Tây Dương.
Và mặc dầu quần chúng ngày nay không chý ý đến, nhưng những nhà địa chất học
cũng đã từng quan tâm về vấn đề này. Họ vẫn không đồng ý với nhau, người thì phủ
nhận, kẻ thì quả quyết sự hiện diện của châu Atlantidẹ Dầu sao có một số lớn
sách vở của những tác giả uyên bác đã nói đến vấn đề này và đã đưa ra rất nhiều
bằng chứng lịch sử, văn hóa và khoa học, bổ trợ lẫn cho nhau. Ông Cayce đã đọc
một quyển nhan đề "Châu Atlantide, một thế giới của thời kỳ tiền sử"
của tác giả Ignatius Donnelly, và rất ngạc nhiên mà nhận thấy rằng nhữõng cuộc
khán nghiệm của ông đã diễn tả đúng y như những bằng chứng căn bản nêu trong
quyển sách ấy.
Những cuộc thảo luận và khảo cứu tài liệu ở các sách vở về lịch
sử, khoa học, tôn giáo, đạo lý cổ truyền, về châu Atlantide và về khía cạnh tâm
lý của khoa thôi miên, là những vấn đề đã được nêu ra trong các cuộc khán nghiệm
bằng Thần Nhãn, đã giúp cho ông Cayce có được một tầm kiến thức rộng rãi về văn
hóa và lịch sử mà ông vẫn thiếu sót. Lần lần, ông bớt sợ hãi và thắc mắc về những
điều mà ông thốt ra trong giấc ngủ thôi miên, ông cảm thấy rằng những điều ấy
có thể chứa đựng một phần nào sự thật. Với một sự tọc mạch xen lẫn với một khối
óc phê bình, ông bắt đầu phân tách những cuộc khán nghiệm để kiểm soát cho nó
được hoàn toàn đúng đắn. Trước hết ông nhận thấy rằng những cuộc khán nghiệm ấy
đều có mạch lạc và liên đới lẫn nhau. Không bao giờ một cuộc khán nghiệm này lại
tương phản với một cuộc khán nghiệm khác, dầu là cách nhau bao xa cũng vậy. Bởi
đó, một người có thể được khán nghiệm một lần thứ nhì, nhiều tháng hoặc nhiều
năm sau lần thứ nhất: Những tài liệu đều ăn khớp với nhau và nối tiếp theo nhau
một cách đúng đắn, chẳng khác nào như người ta lật một quyển sách ở chỗ trang
đã được làm dấu saün, để đọc tiếp theo đoạn sách đã bỏ dở kỳ trước. Phần nhiều
những cuộc soi kiếp đưa ra những tài liệu tổng quát về những thời kỳ cổ xưa,
như ở Ai Cập và châu Atlantide.
Khi người ta đem đối chiếu những cuộc soi kiếp đó với nhau,
thì thấy rằng những chi tiết rời rạc và thiếu sót đã bỏ khuyết lẫn nhau và trở
nên hoàn bị hơn: Mỗi cuộc soi kiếp lập lại một phần những gì đã được nói ra
trong một lần trước, hoặc thêm vào một chi tiết mới cho toàn thể câu chuyện.
Không cuộc soi kiếp đều hòa hợp lẫn nhau, mà còn xác nhận lẫn
nhau trên nhiều điểm về những sự việc được ghi chép trong lịch sử, dầu đó là những
sự việc bí ẩn tối tăm, thuộc về phần ngoại sử. Thí dụ: Một trong những cuộc soi
kiếp nói rằng một người nọ, trong một tiền kiếp, đã từng làm một người
"Phóng ghế." Ông Cayce không hề biết "Phóng ghế" nghĩa là
gì, và khi tra cứu tự điển, ông mới thấy rằng danh từ đó ám chỉ một phong tục cổ
xưa của dân miền Bắc Mỹ: Người ta trói những mụ phù thủy trên những chiếc ghế đẩu
và cầm chân ghế chổng ngược để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh.
Một thí dụ khác: Trong cuộc soi kiếp cho một người thanh
niên, ông Cayce nói rằng trong một kiếp trước, y đã sống ở bên Pháp, tại đây y
gặp gỡ và làm bạn với nhà bác học Mỹ Robert Fulton và đã giúp đỡ người này
trong sự thực hiện một vài phát minh khoa học. Ông Cayce biết rõ Robert Fulton
nhưng ông không tin rằng ông này đã sống ở nước ngoài, ngoại trừ nước Mỹ. Sau
khi tra cứu một quyển tự điển về tiểu sử các nhân vật ông mới biết rằng ông
Fulton đã có ở bên Pháp nhiều năm, và đã được nhiều người quen biết giúp đỡ và
khuyến khích trong nghành hoạt động của ông.
Ngoài ra những sự xác nhận lịch sử lạ lùng nói trên về những
tiền kiếp, còn có rất nhiều bằng chứng khác về kiếp hiện tại. Ông Cayce biết rằng
những sự phân tách tâm lý trong những cuộc soi kiếp của ông đều đúng, không những
đối với ông và những người trong gia đình, mà cũng đúng đối với những người
hoàn toàn xa lạ. Trong những cuộc soi kiếp cũng như trong những cuộc khán bịnh,
dầu cho đương sự có quen biết hay không đối với ông Cayce, điều đó không có
quan hệ gì cả. Họ ció thể là những người hoàn toàn xa lạ hoặc ở bất cứ nơi nào
trên thế giới: Nếu ông có được đầy đủ tên họ, ngày sinh và nơi sinh của những
người ấy, ông có thể diễn tả một cách đúng đắn những hoàn cảnh hiện tại cùng những
điều bí ẩn trong tâm tính của họ. Ông cũng nói luôn cả những đức tính, khả năng
cùng những khuyết điểm của họ, và truy nguyên ra tất cả những điều đó ở các tiền
kiếp.
Những cuộc soi kiếp cũng đúng dưới một khía cạnh khác. Ông
Cayce đã có thể kiểm điểm lại những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lô về tánh chất
và khả năng nghề nghiệp tương lai của những đứa trẻ con: Một cuộc soi kiếp ngày
sinh của một đứa trẻ tai. Norfolk cho biết rằng sau này nó sẽ là một đứa trẻ bướng
bỉnh, cứng đầu và khó dạy. Khi nó lớn lên, những tính nết đó càng ngày càng biểu
lộ một cách rõ rệt, và cha mẹ nó cũng không thể làm cách nào để sửa đổi được.
Trong trường hợp lý thú hơn nữa là của một đứa trẻ khác mà cuộc
soi kiếp cho biết rằng về sau y có thể trở nên một y sĩ có tài. Những thói xấu
mà cuộc soi kiếp trước cũng đã bắt đầu biểu lộ sớm, cùng một lượt với sự thích
thú đặc biệt về nghành y học. Vào năm tám tuổi, y đã bắt đầu mổ xác những con
thú đã chết để xem cơ thể bên trong con thú như thế nào. Chưa đầy mười tuổi, y
đã xem một cách say mê những bộ sách tự điển Y Khoa, và năm mười hai tuổi, y
cho cha mẹ biết rằng y có ý muốn sẽ vào trường Đại Học John Hopkins để theo
nghành Y khoa. Cha của đứa trẻ là một nhà kinh doanh thương mại ở New York; mẹ
y là một nữ tài tử. Lúc đầu, cha mẹ y đều phản đối ý định học Y khoa của y và
khuyên hãy bỏ ý định ấy. Nhưng đứa trẻ cương quyết giữ lập trường và sau cùng
đã thắng mọi trở lực. Hiện nay y đang học lớp dự bị về khoa Lý Hóa Sinh tai. một
trường Đại Học lớn ở miền đông Hoa Kỳ. Trường hợp này chứng tỏ một lần nữa về
năng khiếu Thần Nhãn thật sự của ông Cayce, vì ông đã nhìn thấy kiếp trước của
đứa trẻ và chắc chắn rằng những khả năng đặc biết của y sẽ biểu lộ ra ở kiếp
này.
Những thí dụ kể trên chỉ rằng những cuộc soi kiếp của ông
Cayce có một giá trị rất lớn về sự tiên đoán tương lai, không những của trẻ sơ
sinh mà cũng của những người lớn. Một cô điện tín viên ở nhà Bưu điện thành phố
New York lấy làm vô cùng ngạc nhiên về những bức điện tín lạ lùng mà cô đã đánh
đi nhiều lần về Virginia Beach. Cô ấy mới hỏi thăm về ông Cayce và quyết định
yêu cầu ông soi kiếp cho cộ Nhờ đó, cô biết rằng cô sẽ theo đuổi nghề nghiệp điện
tín viên, và tốt hơn cô nên học về nghành vẽ quảng cáo, vì trong nhiều kiếp trước,
cô đã là một nghệ sĩ có tài về nghành này. Cô ấy không hề có ý nghĩ theo đuổi một
nghệ thuật nào, dầu là kỹ nghệ họa hay bất cứ nghành nào khác, nhưng cô ấy có đủ
can đảm để học thử và xin ghi tên học ở một trường nọ. Cô lấy làm vô cùng ngạc
nhiên mà thấy rằng cô có năng khiếu và đã thành công rất mau chóng với nghành kỹ
nghệ họa, đồng thời cô cũng được cải tiến rất nhiều về nhân cách của mình.
Với thời gian trôi qua, ông Cayce càng nhận thấy rằng những
cuộc soi kiếp của ông đã giúp ích cho rất nhiều người. Ông càng vững đức tin
hơn trước, khi thấy rằng công việc của ông làm là chánh đáng vì nó gây nên những
kết quả tốt đẹp. Có nhiều người được hướng dẫn theo những nghề nghiệp thích hợp
với họ; những người khác nhận được những lời chỉ giáo san bằng mọi sự khó khăn
trong đời sống gia đình; những người khác nữa đã tìm cách tự biết mình và tập
hòa mình một cách thích nghi với đời sống xã hội.
Những điều kể trên đã lần lần thuyết phục ông Cayce về tánh
cách chân thật và xác đáng của những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn cũng như của
sự giải thích mà nó đưa ra về định mệnh của con người. Nhưng điều nó làm cho
ông tin tưởng hơn hết là cái tinh thần Gia Tô giáo thâm sâu, tiềm tàng trong những
điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh thần Gia Tô
giáo đó lại được đưa ra một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn khổ của thuyết
Luân Hồi.
Một cuộc soi kiếp ít khi nào mà không nêu ra một đoạn sách
trong Thánh Kinh hay một điều giảng dạy của đấng Christ. Những câu dẫn chứng
thông thường nhất là những lời dạy của đấng Christ như sau: "Ngươi gặt hái
những gì ngươi đã gieo" và "Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ
khác làm cho ngươi." Đôi khi đó là những câu chú thích theo đúng nguyên
văn hoặc phác họa thêm ít nhiều tư tưởng theo nguyên văn, chẳng hạn như:
"Ngươi chớ lầm lạc: Không ai có thể kiêu ngạo Chúa Trời!
Vì ai gieo giống nào sẽ gặt giống nấy." Và: "Con người luôn luôn là
cái hậu quả của chính mình. Ngươi hãy làm điều lành cho những kẻ đã phỉ báng nhục
mạ ngươi, rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những điều tội lỗi mà chính ngươi đã gây
ra cho kẻ khác."
Những lời dẫn chứng kể trên là để răn dạy những người bị bịnh
tật đau khổ, do hậu quả của những điều tội lỗi mà họ đã gây ra trong một kiếp
trước.
Khi sự hứng khởi nồng nhiệt lúc ban đầu đã lắng dịu, thì nhóm
người chung quanh ông Cayce mới bắt đầu đặt những câu hỏi về những điều đã tiết
lộ trong các cuộc soi kiếp của chính họ. Trước hết họ muốn biết tại sao có một
vài thời kỳ trong lịch sử luôn luôn tái diễn trở đi trở lại trong các cuộc soi
kiếp. Nhiều người lại có chung một bối cảnh lịch sử giống như nhau; nói tóm lại,
những điều diễn tả trong các cuộc soi kiếp hình như đều rập theo một khuôn khổ.
Các cuộc soi kiếp thường nêu ra một loạt các thời kỳ sau đây: Thời đại
Atlantide, Đế quốc La Mã, Thời kỳ Thánh Chiến (Croisades) và lúc khởi đấu thời
kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ. Một loạt khác gồm có: Châu Atlantide, Ai Cập, La
Mã, nước Pháp thời Louis 14, 15 và 16, và Giặc Phân Ly (Secession) ở Hoa Kỳ. Lẽ
tự nhiên, cũng có những trường hợp khác, gồm có Trung Hoa, Ấn Độ, Cao Miên,
Pérou, Bắc Âu, Phi Châu, Trung Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bổn, và nhiều xứ khác;
nhưng phần nhiều các cuộc soi kiếp đều noi theo một khuôn khổ lịch sử như nhau.
Theo ông Cayce, lý do của sự kiện trên là vì những linh hồn
thuộc về một thời kỳ lịch sử nhất định, về sau thường chuyển kiếp đầu thai
chung một lượt ở một thời kỳ khác. Trong những thế kỷ ở khoảng giữa, thì những
nhóm linh hồn khác lại chuyển kiếp xuống trần theo đúng phiên bản của họ. Sự
thay phiên đầu thai từng nhóm một một cách có quy củ, trật tự như vậy cũng giống
như sự thay phiên từng toán thợ làm việc trong một cơ xưởng. Bởi đó, phần nhiều
những linh hồn đang sống trên thế gian hiện nay, đều đã cùng đầu thai với nhau
một lượt ở những thời kỳ quá khứ trong lịch sử. Ngoài ra, những linh hồn có sự
liên lạc gia đình, bè bạn hoặc đồng lý tưởng với nhau, có thể đã cùng có những
nhân duyên với nhau trong những kiếp trước.
Một câu hỏi khác được nêu ra: "Những tài liệu đó do đâu
mà có?" Câu trả lời là: Ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên, có thể
thâu thập những tài liệu đó ở hai nơi. Một là trạng thái vô thức của người đang
được soi kiếp. Trạng thái vô thức này giữ lại ký ức của tất cả những kinh nghiệm
mà đương sự đã trải qua, không những trong kiếp này mà cũng gồm luôn những kinh
nghiệm ở những kiếp trước. Những ký ức thuộc về kiếp trước được che khuất, ẩn
tàng trong những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tiềm thức, ngoài vòng hiểu biết
và thực nghiệm của khoa Tâm lý học hiện đại.
Ngoài ra, tiềm thức của một người là một lĩnh vực dễ thăm dò
bằng tiềm thức của một người khác, hơn là bằng trạng thái ý thức, chẳng khác
nào như một cảnh hỗn độn của một thành phố lớn, người ta có thể đi từ chỗ này đến
chỗ kia bằng đường xe điện ngầm (metro) một cách dễ dàng mau chóng hơn là bằng
những phương tiện khác ở trên mặt đất. Bởi lẽ đó, trong trạng thái thôi miên,
linh hồn ông Cayce tiếp xúc với linh hồn đương sự một cách trực tiếp bằng tiềm
thức. Sự giải thích này có thể được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp, ít
nhất là một phần nào, với những sự phát minh của khoa phân giải tâm lý
(psychanalyse) về cuộc đời và trạng thái vô thức.
Nhưng còn cái nguồn gốc thứ hai đã giúp tài liệu cho ông
Cayce, thì dường như rất lạ lùng. Những cuộc soi kiếp gọi đó là những " ký
ức của không gian" (Clichés Akashiques). Như thường lệ, mỗi khi nói đến một
danh từ lạ và khó hiểu, ông Cayce đánh vần từng chữ trong giấc thôi miên của
ông: Akasha: Danh từ; Akashique: Tĩnh từ. Nói tóm tắt, ông Cayce giải thích
danh từ ấy như sau:
Akasha là danh từ Phạn nhữ (sanskrit) dùng để chỉ chất dĩ
thái tinh hoa căn bản của Vũ Trụ. Chất ấy có cái tác dụng như một cái phim ảnh
hay một cuốn phim chiếu bóng, trên đó được ghi nhận một cách rõ ràng không bao
giờ mất những âm thanh, ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con người và tất
cả mọi sự gì ra trong vũ trụ kể từ thuở Vô Cực. Chính nhờ đó sự ghi nhận trong
ký ức của không gian đó mà những bị có Thần Nhãn có thể nhìn thấy dĩ vãng như đọc
một quyển sách phơi bày từng trang trước mặt họ, dầu cho những sự việc xảy ra
đã cách xa hằng bao nhiêu thời gian trong quá khứ. Chất Akasha cò thể được coi
như một cái máy chụp ảnh vĩ đại của Vũ Trụ. Cái khả năng thấy ký ức của Thiên
Nhiên trên chất Akasha đó vốn tiềm tàng ở mọi người trong chúng ta: Nó tùy nơi
mực độ nhậy cảm của mỗi người, và tùy nơi chúng ta có thể đặt mình vào một trạng
thái thụ cảm thích nghi, cũng ví như khi chúng ta bắt đúng luồn sóng vô tuyến
trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy. Trong khi thức tỉnh, ông Cayce không có
thể đặt mình vào trạng thái thụ cảm thích nghi, để "Bắt đúng luồn
sóng" như đã kể trên, nhưng trái lại trong giấc ngủ thôi miên ông có thể
làm được điều ấy.
Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông Cayce đã thốt ra trong
giấc thôi miên, thì đó là điều mà ông cho là lạ lùng nhất. Tuy thế, đáp lại những
câu hỏi hoài nghi về vấn đề này, ông đều luôn luôn trả lời như nhau, có khi thì
dùng những danh từ giống nhau, có khi thì thêm vào những chi tiết phụ thuộc. Có
nhiều khi, ông nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất Akasha cũng có thể gọi
là "Ký ức của Vũ Trụ" hay "Quyển sách Thiên nhiên."
Ông Cayce cũng đưa ra những sự giải thích đã có từ nhiều thế
kỷ trước về chất Akashạ Nền Triết học cổ Ấn Độ đã từng nói rằng căn bản của vật
chất vốn hư không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là sinh lực; và
cũng nói về sự chuyển di tư tưởng bằng phương pháp Thần giao cách cảm: Và những
điều này gần đây đã được khoa học Âu Tây xác nhận. Vậy tại sao chúng ta không
có một thái độ cởi mở để chấp nhận ít nhất là tiềm năng của chất Akasha, cũng
là một quan niệm khác của Triết học Ấn? Sự giải thích bằng trạng thái vô thức
có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp cho những người khác, nhưng làm sao
giải thích hiện tượng này là ông Cayce đã nói rất nhiều chi tiết đầy đủ, nó
tuôn tràn một cách dồi dào như suối chảy trong những cuộc khán nghiệm sưu tầm về
những thời đại cổ xưa ở châu Atlantide, Ai Cập, và thời kỳ của đức Chúa Jesus?
Có thể nào ông đã góp nhặt tài liệu trong tiềm thức của những
người đã từng sống vào những thời kỳ đó chăng? Mặc dầu họ không phải là những
người đến nhờ ông soi kiếp? Hay ông Cayce đã khám phá ra những điều đó trong ký
ức của Lịch Sử, được ẩn dấu tiềm tàng và giữ gìn nguyên vẹn trong những cõi vô
hình huyền bí của Vũ Trụ? Sau cùng ông Cayce đã chấp nhận quan niệm về chất
Akasha, không phải vì ông có một bằng chứng tuyệt đối về đều ấy, mà bởi vì nó
đã được xác nhận trong những cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn; và những cuộc
khán nghiệm của ông về tất cả mọi vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và hoàn
toàn đáng tin cậy.
Có lẽ sự dùng Thần Nhãn để nhìn thấy những sự việc đã xảy ra
trong quá khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và cũng có lẽ
trong tương lai, một nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự thật về
chất Akasha, và điều này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng gì hơn những
hiện tượng đã có, chẳng hạn như luồng sóng vô tuyến, tánh chất phóng quang của
chất radium, nguyên tử lực, hoặc trí nhớ của bộ Óc con người, và sự truyền cảm
của bộ Thần kinh hệ. Dầu sao, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và sự đúng đắn
một lạ lùng của nó là một sự thật hiển nhiên. Trong khoảng 22 năm trường, bắt đầu
từ năm 1923 trở đi là năm mà ông Cayce bắt đầu soi kiếp và khán bịnh bằng Thần
Nhãn, cho đến năm 1945 là năm ông từ trần, ông đã soi kiếp cho tất cả độ 2.500
người. Cũng như những cuộc khán bịnh bằng Thần Nhãn, những cuộc soi kiếp đều được
ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Nhiều thơ từ văn kiện đã
chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi có đủ bằng chứng
xác nhận về sự đúng đắn của những điều đã tiết lộ. Những người nào muốn tìm biết
sự thật về những điều này vẫn còn có thể chất vấn nhiều người hiện nay còn sống
và đã từng được ông Cayce soi kiếp cho họ.
Như vậy, nếu chúng ta có thể tin tưởng nơi tánh cách chân thật
của những tập hồ sơ văn kiện lạ lùng đó và sự giải đáp của nó về những bài toán
bí hiểm của cuộc đời, thì ta đã có trong tay một số tài liệu khổng lồ và hiếm
có về vấn đề này. Trước hết chúng ta có một số bằng chứng cụ thể hiển nhiên về
luật Luân Hồi, là một nguyên tắc tiến hóa căn bản của con người. Và tất cả những
yếu tố kể trên cũng chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục chúng ta, thì ít nhứt nó
cũng đáng để cho chúng ta chú ý vì mục đích khảo cứu và sưu tầm khoa học. Có biết
bao nhiêu những cuộc phát minh lớn lao vĩ đại, lúc ban đầu cũng chỉ căn cứ trên
những giải thuyết lạ lùng và khó tin. Khi người ta hỏi nhà bác học Einstein bằng
cách nào ông ta đã phát minh ra thuyết Tương Đối luận, ông đáp:
- Tôi chỉ thử đặtt một nghi vấn về một định lý.
Ngoài ra, chúng ta còn có một số tài liệu rất dồi dào về tâm
lý, y lý và triết lý, nó d8em đến cho ta một tầm kiến thức rộng rãi và khác hẳn
về cuộc đời.
Trong khoảng hai mươi hai năm đó có biết bao nhiêu người đau
khổ tuyệt vọng đã tìm đến ông Cayce và đã được ông săn sóc giúp đỡ do sự hiểu
biết thâm sâu và năng khiếu Thần Nhãn của ông. Họ bị đủ thứ đau khổ bịnh tật về
thể xác lẫn tinh thần, và tất cả đều muốn tìm sự giải đáp cho câu hỏi sau đây:
" Tại sao sự đau khổ này lại đến cho tôi?"
" Nguyên nhân vì đâu mà tôi bị sự đau khổ này?"
Không phải tất cả những trường hợp đó đều là nguy cấp hay tuyệt
vọng. Có nhiều người xem ra thì những kiếp trước họ cũng tầm thường như kiếp
này, vì không có gì đặc biệt. Nhưng, dầu cho sự đau khổ của họ nặng hay nhẹ,
các cuộc soi kiếp đã chỉ cho thấy rằng cái thân phận và hoàn cảnh hiện thời của
họ là cái kết tinh của bao nhiêu nhân và quả nối tiếp lẫn nhau như những cái
khoen của một sợi dây xích và bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước. Tất cả đều đã được
chỉ cho thấy rằng những bịnh tật, thống khổ của họ bây giờ đều có nguyên nhân
xa hay gần, do sự hành động của một định luật căn bản gọi là Luật Nhân Quả.
Những gì họ đã nghe và học hỏi đã làm cho họ thay đổi cuộc đời;
sự hiểu biết thâm sâu về bài học Nhân Quả đã giúp cho họ một nguồn an ủi cùng
tìm thấy sự thăng bằng và an tịnh của tâm hồn.
Nếu người ta chấp nhận tánh cách chân thật của những cuộc soi
kiếp, người ta cũng phải nhìn nhận sự kiện này là nó đã làm đảo lộn trí óc và
quan niệm của họ về cuộc đời. Tầm quan trọng của sự việv kể trên không phải là
nó đem đến cho ta một giả thuyết mới: đó là một lý thuyết rất cổ xưa và đã từng
là một điều tín ngưỡng của nhiều dân tộc rải rác ở nhiều miền lục địa trên quả
địa cầu. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng vì hai điều
này:
Điều thứ nhất: đây là lần đầu tiên ở Âu Mỹ mà người ta đã có
được những bản phúc trình đúng đắn mạch lạc, rõ ràng và đáng tin cậy về những
kiếp trước của một số nhiều người.
Điều thứ hai: đây là lần đầu tiên trong lịch xử thế giới, những
bản phúc trình đó được ghi chép và sắp thành hồ sơ có ngăn nắp, trật tự, để cho
mọi người có thể tra cứu, sưu tầm. Ngoài ra, những cuộc soi kiếp của ông Cayce
đã hợp nhứt triết lý Đông Tây càng thêm phần sinh sắc.Nhờ đó, chúng ta đã có một
sự tổng hợp rất cần thiết giữa hai quan điểm triết học khác nhau của Đông
Phương và Tây Phương.
Những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce cũng đã tổng
hợp khoa học cà tôn giáo bằng cách chỉ cho ta thấy rằng cõi giới tinh thần được
cai quản bởi những định luật Nhân Quả một các đúng đắn cũng y như cõi giới vật
chất. Nó cho ta thấy rằng sự đau khổ của con người không phải là do một sự rủi
ro tình cờ theo quan niệm duy vật, mà là do bởi những tư tưởng và cách hành động
sai lầm trong quá khứ. Nó chỉ rằng những sự sai biệt và bất đồng giữa thân thế,
hoàn cảnh và khả năng của người đời không phải là do ý muốn độc đoán của Thượng
Đế hay là do ảnh hưởng mù quáng của sự di truyền, mà nó chỉ là cái kết quả của
những hành động và cách xử thế của con người trong kiếp trước.
Mọi sự đắng cay, thất bại, buồn rầu đều có một ý nghĩa và mục
đích giáo hóa chúng ta về đướng xử thế; những bệnh tật tai ương xảy đến cho ta
đều có một nguyên nhân sâu xa về tinh thần. Và tất cả những sự quằn quại đau khổ
đều là những bài học quý mà chúng ta thọ lãnh trên trường học lớn của thế gian,
ngõ hầu trong tương lai nó sẽ đưa chúng ta đến cái mục đích Minh Triết và Toàn
Thiện.
Chương 4 - Vài Loại Quả Báo Xác Thân
Những người tàn tật, đui què, câm điếc, những người bị các chứng
nan y, đó là những thí dụ rõ rệt nhứt về sự đau khổ của người đời. Đứng trước
những cảnh đau khổ đó, chúng ta cảm thấy một lòng trắc ẩn sâu xa và thấm thía.
Khi mà một trong những cảnh khổ đó xảy đến cho ta, khi chúng ta gặp phải những
cảnh ngộ đắng cay, trái ngược, chúng ta có lẽ đâm ra hoài nghi về lòng nhân từ
bác ái của đấng Tạo Hóa. Có lẽ chúng ta sẽ tự hỏi: "Tại sao tôi bị sự đau
khổ này? Và tại sao cảnh khổ này lại xảy đến cho tôi?"
Anh X... Là một người hiền lành và đức hạnh hơn người. Anh đã
bị mất hết gia tài, sản nghiệp và tất cả mấy đứa con anh đều chết hết; anh chịu
đựng những cảnh khổ đó một cách kiên nhẫn và không phàn nàn rên siết. Nhưng khi
anh bị một chứng bịnh kỳ quái làm toàn thân anh đều nổi các mụt nhọt lở loét,
ghê tởm, thì anh X... Bèn nguyền rủa Thượng Đế lần đầu tiên, và cũng lần đầu
tiên, anh la lên trong cơn tuyệt vọng để tìm biết lý do những sự đau khổ đã xảy
đến: "Ai có thể nói cho tôi biết, rồi tôi sẽ im lặng và an phận. Tôi đã
gây nên những tội lỗi gì?"
Nói rằng nguyên nhân sự đau khổ là do bởi những hành động sai
lầm, tội lỗi gây ra, thì người thời nay thường cho đó là một điều dị đoan, di sản
của những tôn giáo cổ xưa đã lỗi thời. Ít người chịu suy nghĩ và nhìn nhận điều
đó. Tuy vậy, theo những cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì tội lỗi và đau khổ đi
liền với nhau như bóng với hình, và giữa Nhân với Quả vốn có một sự liên quan
chắt chẽ.
Để hiểu rõ cái quan niệm trên, nó làm nền tảng cho những cuộc
soi kiếp của ông Cayce, ta cần hiểu ý nghĩa của danh từ Karma, là danh từ duy
nhất giải thích ý nghĩa về vấn đề Nhân Quả. Karma là một danh từ Phạn ngữ, có
nghĩa là hành động. Nhưng theo ý nghĩa về triết học, thì nó định nghĩa Luật
Nhân Quả, là một định luật cai quản và chi phối mọi hình thức sinh hoạt trong
Trời Đất. Ông Emerson là người đã từng hấp thụ và tin tưởng nền Triết học Ấn Độ,
gọi đó là Luật Thừa Trừ. Đấng Christ cũng đã nói về luật ấy một cách gọn gàng
giản dị trong câu: "Ngươi sẽ gặt những gì ngươi đã gieo." Định lý
khoa học của Newton nói rằng: "Mỗi hành động đều gây nên một phản ứng
tương đương và ngược chiều," áp dụng trên cả hai phương diện vật chất lẫn
tinh thần.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce làm cho người ta thích thú
say mê vì nó khám phá ra tận nguồn gốc của những bịnh tật đau khổ trong kiếp hiện
tại, truy nguyên ra từ những hành động ở những kiếp quá khứ, và làm sáng tỏ một
cách rõ ràng cái quan niệm trừu tượng về Nhân Quả. Một sự nghiên cứu tỉ mỉ về
những trường hợp đã khán nghiệm co biết rằng có nhiều loại quả báo khác nhau. Một
trong những loại đó có thể gọi là "Quả Báo Dội Ngược," nghĩa là một
hành động gây tổn thương cho kẻ khác, kết quả sẽ dội ngược trở về bản thân của
đương sự.
Trong những tập hồ sơ của ông Cayce, có nhiều thí dụ về loại
quả báo này, mà một trường hợp được kể ra như sau:
Một vị giáo sư dạy nhạc, lúc mới sinh ra đã bị mù mắt, có
nghe nói về ông Cayce trong một chương trình phát thanh "Những Sự Mầu Nhiệm."
Ông bèn đến nhờ ông Cayce khán bịnh và sau một thời gian chạy chữa theo sự chỉ
dẫn của ông Cayce, ông ta cảm thấy khá nhiều. Ba tháng sau, ông đã thuyên giảm
được 10 phần trăm về con mắt bên trái, mà các nhà chuyên môn về bịnh đau mắt
cho là đã hoàn toàn hỏng. Kế đó, một cuộc soi kiếp cho thấy rõ ràng tất cả bốn
tiền kiếp của ông ta: Kiếp thứ nhất ở Bắc Mỹ hồi thời kỳ Chiến tranh Phân Ly
(Secession); kiếp thứ nhì ở Pháp hồi thời kỳ Giặc Thánh Chiến (Croisades); kiếp
thứ ba ở Ba Tư vào khoảng 1.000 năm trước Tây lịch; và kiếp thứ tư ở Châu
Atlantide trước khi xảy ra cuộc Đại Hồng Thủy. Chính trong kiếp thứ ba ở Ba Tư,
ông ta đã gây nên cái nhân ác nó báo ứng bằng sự mù mắt của ông ta trong kiếp
này. Hồi đó, ông ta có chân trong một bộ lạc dã man có tục lấy dùi sắt nhọn
nung đỏ châm vào mắt những tù binh, và chính ông ta là đao phủ quân hành tội
các tù nhân bằng cách đó.
Một thí dụ thứ hai đáng được ghi nhớ là trường hợp của một
thiếu nữ làm nghề sửa móng tay, bị chứng liệt bại cả hai chân từ khi mới lên một
tuổi. Cô này không thể đi đứng gì được, nếu cô không dùng nạng chống và những dụng
cụ nối xương nhân tạo. Cuộc soi kiếp tiết lộ rằng nguyên nhân của bịnh trạng cô
bây giờ là do một tiền kiếp ở Châu Atlantidẹ Trong kiếp đó, cô đã dùng những
phép thuật tà đạo để làm cho kẻ khác bị yếu mềm cả tay chân, trở nên bất lực và
chịu để cho cô sai khiến. Bởi vậy trong kiếp này cô phải chịu quả báo về sự tổn
thương mà cô đã gây ra cho kẻ khác. (Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce thường dùng
chữ "Linh hồn" để chỉ đương sự, vì con người vốn là một linh hồn bất
tử đầu thai từ kiếp này sang kiếp khác để học hỏi những bài học kinh nghiệm cần
thiết trên đường tiến hóa đưa đến mức Toàn Thiện.)
Một thí dụ thứ ba về quả báo dội ngược được kể ra như sau:
Một người đàn bà 40 tuổi từ lúc nhỏ bị một chứng bịnh kỳ lạ.
Mỗi khi cô ăn một vài thức ăn như bánh mì, hoặc chất ngũ cốc, thì bị nhảy mũi dữ
dội như bị chứng sổ mũi hoặc cảm cúm. Khi cô dùng đến một vài thứ đồ vật dụng,
nhất là đồ bằng da hay bằng chất nhựa (plastique, ) thì lại cảm thấy đau nhói dữ
dội ở bên hông trái. Cô đã đi khám bịnh với nhiều bác sĩ, nhưng không có kết quả,
và cho biết rằng cô chỉ thấy bớt trong những cuộc chữa bịnh bằng thôi miên lúc
25 tuổi. Sự thuyên giảm đó kéo dài được sáu năm, nhưng triệu chứng cũ lại tái
phát. Cô đến nhờ ông Cayce chữa bịnh. Cuộc soi kiếp tiết lộ rằng:
"Trong một tiền kiếp, linh hồn này làm nghề bào chế sư,
y đã dùng nhiều chất hóa học để gây tổn thương cho kẻ khác. Bởi đó y bị hành
xác bằng những chất hóa học trong kiếp này. Linh hồn này cũng đã dùng một vài
chất độc để làm cho kẻ khác bị nghẹt thở, bởi đó ngày nay ông bị nhiễm độc bởi
một vài chất kim khí, chất nhựa, và đồ da thuộc bằng chất hóa học... "
Một loại quả báo thứ nhì trên địa hạt vật chất có thể được gọi
là quả báo về xác thân, theo đó sự lạm dụng cơ thể trong một kiếp sẽ gây nên quả
báo thích nghi trong một kiếp sau. Đây là một ví dụ:
Một người đàn ông 35 tuổi, từ thuở nhỏ đã bị chứng đau ruột
và bộ máy tiêu hóa. Y phải ăn uống kiêng cữ gắt gao và chỉ dùng được một vài thức
ăn giản dị mà thôi, và mặc dầu như thế, y cũng tiêu hóa các bữa ăn của y một
cách khó khăn, sau nhiều giờ vất vả và mệt nhọc. Chứng bịnh này gây cho y rất
nhiều điều bất tiện, và gây trở ngại không ít trong đời sống ngoài xã hội. Cuộc
soi kiếp của ông Cayce tiết lộ cho biết nguyên nhân của bịnh trạng này là trong
một tiền kiếp dưới trào vua Louis 13 bên Pháp, y làm chức hầu cận của nhà vuạ Y
thừa hành chức vụ một cách tận tâm và chu đáo, nhưng y có tật tham ăn và ăn uống
quá độ. Trong một kiếp trước nữa, khi y làm nghề y sĩ dưới triều vua nước Ba
Tư, y cũng ăn uống vô tiết độ. Như thế trong hai kiếp, y đã phạm cái lỗi về tâm
lý là lạm dụng sự ăn uống để tìm khoái lạc của nhục thể. Điều này làm đảo lộn sự
quân bình trong trạng thái tâm lý của y, và phải được thừa trừ bằng một cách
nào đó trong kiếp hiện tại. Quả báo về xác thân làm cho y bị đau bộ máy tiêu
hóa, và bắt buộc y phải hạn chế ăn uống trong kiếp này.
Một loại quả báo thứ ba về thân xác mà người ta thường thấy
trong nhũng cuộc soi kiếp của ông Cayce, có thể gọi là "Quả báo Tượng
Trưng." Đây là một loại quả báo rất lạ kỳ và thú vị nhứt trong các loại quả
báo về thể xác. Một trường hợp của loại quả báo này được kể ra như sau:
Ông Cayce có soi kiếp cho một người thanh niên bị bịnh thiếu
máu từ thuở nhỏ. Y là con của một vị bác sĩ, bởi đó y đã được săn sóc thuốc
thang và chạy chữa đủ cách, nhưng vẫn vô hiệu quả. Một chứng bịnh nan y như thế
hẳn là phải có một nguyên nhân rất sâu xạ Cuộc soi kiếp cho biết rằng trong một
tiền kiếp ở xứ Perou, đã năm kiếp về trước, linh hồn này làm tướng đem quân chiếm
đoạt xứ ấy một cách bạo tàn. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói: "Cuộc chiến
tranh đó đã làm cho bao nhiêu đầu rơi máu chảy, gây nên một thảm họa lưu huyết
rất lớn. Bởi đó trong kiếp hiện tại của linh hồn nầy, y bị bịnh mất máu, không
sao chạy chữa."
Chúng ta sẽ hiểu rõ ý nghĩa câu này hơn, nếu chúng ta so sánh
với trường hợp quả báo vềt thể xác, vì tội lỗi của người này không phải do sự lạm
dụng một bộ phạm nào trong cơ thể của ỵ Đây cũng không phải là một trường hợp
"Quả báo dội ngược," vì nếu như thế thì người thanh niên này có lẽ đã
là nạn nhân của một cuộc tàn sát hung bạo, chẳng hạn như y có thể là một người
lính Ba Lan bị quân Đức Quốc Xã của Hitler sát hại.
Trái lại, ở đây chúng ta thấy nghiệp báo ứng vào chính thể
xác của y: Nó trở thành một vật khí dụng cho y dùng để trả quả. Bịnh mất máu
làm cho cơ thể yếu đuối suy nhược suốt một đời, chính là một cơ hội trả quả nặng
nề đau đớn hơn và có một ý nghĩa giáo dục rộng rãi hơn là một cái chết vì đao
kiếm trên bãi chiến trường. Linh hồn này đã làm đổ máu cả một dân tộc để làm thỏa
mãn tham vọng chinh phục đất đai. Trong kiếp này sự yếu đuối bất lực so bịnh
thiếu máu gây nên làm cho y chịu quả báo một cách tượng trưng.
Điều này có vẻ hình như hoang đường, nếu chúng ta không quen
với những quan niệm thuộc về loại đó, qua sự phát minh gần đây về những sự
tương quan giữa linh hồn và thể xác theo khoa Tâm Bịnh Học (Psychosomatique).
Trước đây không lâu, người ta vẫn tưởng rằng tất cả mọi chứng
bịnh đều so những nguyên nhân về sinh lý. Những sự tiến bộ của khoa chữa bịnh
tinh thần (Psychiatrie) đã chỉ rằng ít nhất có vài bịnh trạng nguyên nhân là do
bởi những sự xáo trộn tinh thần hoặc xúc động tình cảm gây nên. Từ sự khám phá
này mới nảy sinh một ngành Y học mới, gọi là khoa Tâm bịnh học
(Psychosomatique, do hai danh từ Hy Lạp: Psyche là linh hồn, và soma là xác thể),
khoa này cũng đạt được những kết quả hiển nhiên và không thể chối cãi về sự
liên quan giữa xác thể và linh hồn.
Khoa Tâm bịnh học đã chứng minh rằng những sự căng thẳng về
tình cảm nếu không biểu lộ được bằng lời nói hay hành động, thường tự biểu lộ
nơi thể xác một cách tượng trưng bởi một thứ "Tiếng nói của cơ thể."
Thí dụ: Nếu người bịnh không nuốt được một cách trôi chảy
trong bữa ăn mà người ta không tìm thấy có một nguyên nhân nào thuộc về cơ thể,
thì đó có thể là một cái gì trong đời của bịnh nhân mà y "Không thể nuốt
được." Sự buồn mửa, nếu không phải là do bịnh tật của cơ thể sinh ra, có
nghĩa là người bịnh còn mang trong lòng một cái hận nào đó trong đời sống tình
cảm của y.
Dường như có một sự tương quan chặt chẽ giữa "Tiếng nói
của cơ thể" theo khoa Tâm bịnh học, và điều mà người ta gọi là "Quả
báo tượng trưng." Trong các trường hợp sau này, dường như đương sự có một
ý thức sâu xa thâm trầm về tội lỗi của mình, và cái ý thức đó biểu lộ ra nơi một
bộ phận trong cơ thể. Sự chọn lựa một bộ phận nào sẽ tùy nơi cái ý nghĩa tượng
trưng của bộ phận ấy. Dưới đây là một vài thí dụ điển hình trong số rất nhiều
trường hợp quả báo tượng trưng mà người ta tìm thấy trong các tập hồ sơ của ông
Cayce.
Một người bị chứng bệnh suyễn kinh niên, trong lúc soi kiếp
được nghe ông Cayce nói rằng: "Anh đã từng đè nén, áp bức kẻ khác, lẽ tự
nhiên, nhân quả báo ứng, có lúc anh phải cảm thấy nghẹn ngào khó thở, cũng như
chính anh bị kẻ khác đè nén và áp bức vậy."
Một người điếc bị cảnh báo rằng: "Như vậy anh đừng bịt lỗ
tai làm ngơ trước sự đau khổ của những người cầu xin anh giúp đỡ." Cuộc
soi kiếp cho biết người điếc này là một người dòng sang, quý tộc dưới thời Cách
Mạng Pháp, nhưng thường ngoảnh mặt làm ngơ trước những tiếng kêu rên siết và những
cảnh lầm than khốn khổ của người đương thời.
Một người bị chứng bịnh lao trong tủy xương sống, được biết
cho rằng: "Linh hồn này đã từng gây chướng ngại khó khăn cho kẻ khác. Nên
bây giờ y phải chịu những khó khăn chướng ngại đó trong thân thể của ỵ"
Một người bị chứng bịnh rút gân, làm cho hai chân y bị teo bắp
thịt, càng ngày càng nhỏ dần, được cho biết rằng: "Đây không phải là bịnh
rút gân và teo bắp thịt mà thôi đâu; đó là hậu quả của những gì maà anh đã làm
cho kẻ khác trong những kiếp trước."
Trường hợp lạ lùng nhất về quả báo tượng trưng trong các tập
hồ sơ Cayce là trườnghợp của một trẻ em mười một tuổi có tật đái dầm từ khi mới
lên hai tuổi. Trường hợp này được kể ra một cách đầy đủ chi tiết hơn, vì tánh
cách đặc biệt của sự điều trị cho em bé ấy.
Người thiếu niên này hồi nhỏ rất hiền lành, được cha mẹ y
nuôi nấng dễ dàng cho đến khi người mẹ sinh thêm một đứa em gái nhỏ: Từ khi đó,
y bắt đầu đái dầm trên giường trong giấc ngủ. Y đái dầm như vậy đều đều mỗi
đêm. Cha mẹ y nghĩ rằng có lẽ y cảm thấy bị bỏ rơi khi người mẹ sinh thêm một
em nhỏ nữa, nên tiềm thức của y khiến cho y tái diễn thói quen của tuổi sơ sinh
để làm cha mẹ y phải chú ý và săn sóc y như thuở ban đầu. Cha mẹ y bèn hết sức
cố gắng để tỏ cho y biết rằng tình thương của cha mẹ vẫn không thay đổi vì đứa
em gái nhỏ mới sinh, và y vẫn được thương yêu săn sóc như trước, nhưng vẫn
không có kết quả.
Khi đứa trẻ lên ba tuổi, cha mẹ y bèn nhờ một vị bác sĩ
chuyên môn về bịnh thần kinh chạy chữa cho ỵ Sau một năm thuốt thang điều trị,
y vẫn không thuyên giảm chút nào, và cha mẹ đành phải chịu vậy. Suốt năm năm
trường, y vẫn tiếp tục đái dầm mỗi đêm. Cha mẹ y chạy đủ thầy chuyên môn và thử
đủ mọi cách điều trị chứng bịnh vẫn trơ trơ không sao chữa khỏi. Y vẫn đái dầm
lên cho đến năm tám tuổi. Một lần nữa cha mẹ y lại chạy chữa với một bác sĩ
khác, và cuộc điều trị kéo dài suốt hai năm, nhưng vẫn không hiệu quả. Khi y
lên mười tuổi, thấy rằng cuộc điều trị vẫn không ăn thua gì, cha mẹ y mới thôi
và đành chịu phép. Khi y lên mười một tuổi, cha mẹ y nghe nói về thuật chữa bịnh
của ông Caycẹ Người cha bèn yêu cầu ông Cayce khán bịnh về trường hợp kì lạ này
của đứa trẻ. Ông Cayce bèn dùng Thần Nhãn để soi kiếp cho đứa trẻ thì thấy rằng
trong kiếp trước, y là một người giáo sĩ đạo Gia Tô trong hồi xử án những kẻ
theo tà giáo. Chức vụ của y là trị tội những mụ đồng bóng, phù thủy bằng cách
trói họ trên những chiếu ghế đẩu, rồi cầm chân ghế chổng ngược đầu để nhận chìm
họ xuống ao nước lạnh. Sau khi tìm ra cái lý do nhân quả nói trên, cuộc soi kiếp
cho biết bịnh ấy có hy vọng chữa khỏi. Cha mẹ đứa trẻ được cho biết là hãy áp dụng
phương pháp ám thị cho y trong giấc ngủ, và sự ám thị này phải thuộc về tinh thần
chớ không phải về thể xác.
Vài hôm sau, khi về đến nhà, ban đêm người mê bèn đến ngồi cạnh
giường con trai bà. Đợi đến lúc y đã ngủ mê, bà mới bắt đầu nói bằng một giọng
trầm trầm và chậm rãi những lời này: "Con là một người hiền lành tốt bụng.
Con sẽ làm cho nhiều người được sung sướng. Con sẽ giúp đỡ tất cả những người
con gặp trên đường đời của con. Con rất hiền lương và tốt bụng." Bà lặp đi
lặp lại nhiều lần câu ấy nhiều lần, và thay đổi với những danh từ khác nhâu,
tuy rằng với bấy nhiêu ý tưởng đó trong chừng mười phút trở lại, trong khi con
bà đang ngủ mệ Đêm đó, lần đầu tiên từ chín năm nay, đứa trẻ không đái dầm như
môi khị Trong nhiều tháng, bà mẹ vẫn theo đuổi phương pháp ámthị đó và cũng vẫn
dùng bấy nhiêu lời tương tự. Đứa trẻ không đái dầm một lần nào trong suốt mấy
tháng đó. Lần lần, bà mẹ thấy rằng bà chỉ cần ám thị ba ngày một lần, rồi sau
đó mỗi tuần một lần là đủ; và sau cùng, sự ám thị cũng không còn cần thiết nữa:
Con bà đã hoàn toàn khỏi bịnh.
Trường hợp này có nhiều điểm lý thú. Trước hết là cuộc ám thị
vừa áp dụng đầu tiên, đã làm dứt hẳn một chứng bịnh kinh niên trong chín năm.
Và nếu người mẹ là một người đàn bà không có học thức và đức hạnh; thì có lẽ
người ta cho rằng đó là chuyện nói thừa; nhưng bà là một nữ luật sư ở Tòa Án,
bà không phải là một người tin nhảm hay dị đoan mê tín, và không có tâm địa bất
lương.
Điểm thứ hai là trong sự ám thị đó, bà mẹ không hề bảo con là
đừng đái dầm. Sự ám thị đó không nhằm vào cái ý thức về vào cái ý thức tâm linh
của người thiếu niên. Nói một cách khác, sự ám thị nhắm vào cái ý thức về sự tội
lỗimà y đã làm trong kiếp trước, nó đã biểu lộ ra một cách tượng trưng trong thể
xác của y do đường tiểu tiện, thận và bọng đái. Kiếp trước y đã nhận người khác
xuống ao nước lạnh, hoặc chịu trách nhiệm về cái hành động tàn ác đó; kiếp này,
y cảm thấy trong chỗ kín đáo, u uẩn của tiềm thức, rằng y phải trả cái nghiệp
ác đó, và cái quả báo đã ứng hiện vào xác thân của y một cách tượng trưng. Mặc
dầu trong kiếp này, y không có làm hại ai, nhưng một lớp kín đáo trong tiềm thức
làm cho y nghi ngờ về lòng tốt của mình, vì y còn mang nặng trong lòng cái kỷ
niệm về sự trừng phạt nặng nề đau khổ mà y đã gây cho kẻ khác trong kiếp trước.
Sự ám thị của bà mẹ đã thức động đến cái lớp kín đáo u uẩn đặc biệt đó, làm cho
y hiểu rằng sự tội lỗi của y có thể xóa bỏ được bằng những hành động và cử chỉ
hiền lương, tốt lành, và bởi đó, cái quả báo tượng trưng kia sẽ không còn là cần
thiết nữa.
Từ đó người thiếu niên đã bắt đầu sống một cuộc đời mới. Y được
mọi người thương mến, y là một người học trò tốt và tỏ ra có khả năng lãnh đạo.
Tâm tình tánh chất của y đã thay đổi. Trong một cuộc giảo nghiệm về khả năng tại
Viện Đào Tạo Nhân Cách Johnson Ó Connor, y đã được liệt vào hạng những người có
triển vọngï thành công về sự giao tế ngoài xã hội. Người mẹ y cho rằng sự thay
đổi cá tính của y một phần nhờ bởi sự điều trị thần kinh, và một phần nhờ bởi
cuộc khán bịnh bằng Thần Nhãn của ông Caycẹ Hiện nay, vào năm 18 tuổi, theo ý
kiến của cha mẹ y, thì người thiếu niên có một đức tính căn bản là rộng rãi
khoan dung đối với mọi người. Đối với thói hư tật xấu cua người đời, y đều tìm
cách bào chữa và tìm ra một sự giải thích về tâm lý để khoan dung và tha thứ
cho họ. Dường như tánh độc ác, khắc nghiệt của y trong kiếp trước, mà chứng bịnh
đái dầm là một hình phạt tượng trưng, đã được biến đổi thành một đức tánh khoan
dung nhân hậu trong kiếp này. Nhờ đó cán cân nhân quả đã được lập lại sự cân bằng,
và căn bịnh quả báo của y cũng đã dứt tuyệt.
Nếu chúng ta xét lại những trường hợp nhân quả báo ứng trên,
chúng ta có thể thấy rõ một vài nguyên tắc hành động chung của Luật Nhân Quả.
Trong những cuộc khán nghiệm và soi tiền kiếp của ông Cayce, ông đã chỉ cho ta
thấy rằng mọi hành động trong quá khứ đều gây nên một nghiệp quả hiển nhiên và
cụ thể trong hiện tại. Nhưng cái nghiệp quả đó không phải lúa nào cũng báo ứng
một cách thật đúng khớp với cái nguyên nhân gây ra, cũng như vay nửa cân trả
tám lạng. Thí dụ như trường hợp người nhạc sư bị mù mắt. Kiếp trước ông ta đã lấy
dùi sắt nhọn nướng đỏ chọc vào mắt kẻ tù binh; nhưng kiếp này ông ta không có
sinh vào làm dân của một bộ lạc dã man đến rồi đến phiên ông bị bắt làm tù binh
của bộ lạc cừ địch tàn bạo, dùng dùi sắt nướng đỏ chọc vào mắt ông tạ Ông ta
sinh ra đã bị mù lòa, và sinh trưởng trong một xã hội văn minh tân tiến của thế
kỷ hai mươi. Những sự việc xảy ra trong kiếp này của ông ta không hoàn toàn
đúng hẳn như trong kiếp trước.
Thí dụ trên và nhiều thí dụ khác cũng một loại, đã đưa chúng
tôi đến cái kết luận chung như sau: "Luật Nhân Quả là một định luật tâm
lý, nó hành động trước hết trên địa hạt tâm lý, những hoàn cảnh vật chất chỉ là
một phương tiện để đạt tới cái mục đích tâm lý đó mà thôi. Bởi đó, sự báo ứng của
nghiệp quả trên bình diện vật chất không hẳn phải là thật đúng khớp và ăn rập
theo khuôn mẫu với cái nguyên nhân đã gây ra từ trước, mà chỉ là đúng một cách
phỏng chừng. Trên bình diện tâm lý, nghiệp quả báo ứng mới thật đúng khớp hơn,
và đầy đủ trọn vẹn hơn." Một nguyên tắc đại cương khác dường như căn cứ
trên vấn đề khí cụ của nghiệp quả. Trong các tập hồ sơ Cayce, người ta không hề
thấy có trường hợp nào mà sự đau khổ trong kiếp hiện tại lại gây ra bởi một nạn
nhân cũ của đương sự trong kiếp trước, và đã gặp lại y trong kiếp này. Trong
trường hợp của vị nhạc sư mù từ lúc mới sinh: Không có điều gì chỉ rằng cha mẹ
Ông ta vốn là những nạn nhân cũ trong kiếp trước, nay đầu thai lại để hành phạt
ông tạ Cô thiếu nữ làm nghề sửa móng tay bị bịnh liệt bại hai chân từ thuở nhỏ
không phải là bị trả thù bởi những nạn nhân cũ của cô trước kia ở châu
Atlantide.
Nói tóm lại, quả báo xảy đến thường là không phải do chính nạn
nhân cũ của đương sự gây ra, mà có thể do những người khác, những người này chỉ
là những khí cụ của nghiệp quả, cũng chẳng khác nào như những người tay sai đi
đòi nợ, để cho y trả những món nợ cũ. Và những người "Tay sai" này
cũng chỉ hành động một cách vô ý thức, chứ không hề biết gì cả về cái vai trò
"Thiên Lôi" hay "Hung Thần" của mình, tức là cái vai trò
làm khí cụ của nghiệp quả.
Chương 5 - Quả Báo Của Sự Chế Nhạo
Theo giáo lý Gia Tô, thì tánh kiêu ngạo là một trong bảy điều
tội lớn nhất của con người. Cũng như những tính điều khác trong đạo Gia Tô điều
này rất lý thú, nhưng dường như hơi cách xa những vấn đề thật tế về sự đau khổ
của nhân loại. Tuy nhiên, chúng ta chấp nhận những bằng chứng trong cuộc soi kiếp
của ông Cayce, thì sự kiêu ngạo có thể tạo nên nghiệp quả đau đớn xác thân, nhất
là khi nó biểu lộ bằng sự chế diễu hay sự khinh bỉ. Một cái cười độc ác hay những
lời dèm pha, chỉ trích, chê bai dường như gây một cái nhân tương đương với một
hành động bạo tàn, và sẽ mang đến cái quả báo dội ngược: Người chế nhạo sẽ bị một
thứ bịnh tật, tai ương, đau khổ giống như của người bị y chế diễu! Những hồ sơ
Cayce có ghi chép bảy trường hợp mà những bệnh tật đau khổ nặng nề có thể truy
nguyên ra từ những hành động chế nhạo kể trên. Có điều hơi lạ, là sáu trường hợp
trong số đó xảy ra trước hết ở La Mã, trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tộ Về điểm
này một lần nữa, chúng ta lại thấy những nhóm linh hồn thuộc về một thời kỳ lịch
sử, tái sinh trở lại cõi trần đồng một lượt ở một thời kỳ khác. Trong số đó có
ba trường hợp về bịnh bại liệt.
Trường hợp thứ nhất là của một người đàn bà bốn mươi lăm tuổi,
có ba người con; chồng bà ấy làm một nghề tự dọ Năm ba mươi sáu tuổi bà bị bại
liệt cả hai chân và không thể đi đứng vận động gì được. Từ khi đó, bà vẫn ngồi
trên một chiếc xe lăn và phải có người đỡ mỗi khi muốn cử động. Cuộc soi kiếp
cho biết nguyên nhân bịnh trạng của bà là một tiền kiếp dưới thời Đế Quốc La
Mã. Hồi đóm bà là một người trong dòng dõi quý tộc của triều đại vua Néron và
trực tiếp tham gia khủng bố những người theo đạo Gia Tộ Cuộc soi kiếp nói:
"Linh hồn này đã cười khi thấy những người bị hành hình trong vũ trường,
và bây giời y phải chịu cảnh đau khổ tương tự như của những người ấy!"
Trường hợp thứ hai, có lẽ là trường hợp đau khổ nhất trong tập
hồ sơ Cayce, là của một người đàn bà ba mươi bốn tuổi, bị bệnh bại liệt từ lúc
sáu tuổi, làm cho bà bị què chân và xiêu vẹo xương sống. Người cha chẳng những
rất thản nhiên với bịnh trạng của bà, mà còn lấy hết tiền bạc của bà dành dụm
được nhờ nuôi gà vịt kiếm lời. Số phận của bà càng hẩm hiu hơn nữa vì hai cuộc
tình duyên đau khổ. Người yêu đầu tiên bị tử trận trong cuộc Thế Chiến Thứ Nhất.
Sau đó bà đính hôn với một người đàn ông khác, nhưng người này bị đau nặng và vừa
khi khỏi bịnh xong thì liền cưới ngay cô nữ y tá đã săn sóc y trong nhà thương!
Ngoài ra những đau khổ về thể xác và tình cảm trên đây, còn thêm nào là đời sống
cô độc ở quê, và một lần té ngã trên những bực thang bằng đá, làm cho bà phải nằm
liệt giường và bị thêm một tật khác ở xương sống: Người ta không thể tưởng một
cuộc đời đau khổ hơn nữa! Nguyên nhân của bệnh trạng này thuộc hai kiếp về trước
ở đế quốc La Mã. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này thuộc về giòng dõi nhà
vua Palatius, và thường đến vũ trường xem những cuộc đấu võ giữa hai tội nhân,
hoặc giữa một tội nân với một thú dữ. Sự đau khổ hiện thời một phần lớn là vì bởi
y đã cười cợt một cách khinh bỉ trước sự yết đuối bất lực của những kẻ tù nhân
bị thú dữ xé xác trong vũ trường!"
Trường hợp thứ ba là của một nhà sản xuất phim ảnh, bị chứng
liệt bại từ khi lên mười bảy tuổi, và hiện thời hãy còn có tật ở chân. Nguyên
nhân cũng là vào thời kỳ chống đạo Gia Tô ở đế quốc La Mã. Cuộc soi kiếp cho biết:
"Linh hồn này thuở xưa làm lính đao phủ quân của nhà vua, và đã cười cợt
chế nhạo những kẻ tỏ dấu sợ sệt hoặc những người bị ngã quị trong võ trường dưới
ngọn đao hành tội của ỵ Y đã gây ác quả không phải vì y làm phận sự của người
đao phủ, mà vì y đã khinh bỉ chế nhạo những người theo một lý tưởng tôn giáo.
Trong kiếp này, một xác thể tàn tật đem cho y cái kinh nghiệm cần thiết để làm
thức động Chân Tánh và phát triển những sức mạnh tâm linh tiềm tàng của ỵ"
Dưới đây là bốn trường hợp lý thú mà sự chế nhạo lại bị những
quả báo khác hơn là bịnh liệt bại. Một là trường hợp của một thiếu nữ bị chứng
lao xương háng. Trong kiếp trước đây, cô có mặt trong nhóm người đầu tiên đến
khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, bịnh trạng của cô được truy nguyên ra ở
một kiếp trước nữa ở La Mã. Hồi đó, cô thuộc giồngquý tộc dưới triều vua Néron,
và hay mua vui bằng cách đến xem những cảnh hành đội người Gia Tô Giáo trong
các vũ trường. Cảnh tượng một thiếu phụ bị móng vuốt sư tử cào rách một bên
hông đã làm cho đương sự vô cùng vui thích và cười đùa một cách khoái trá!
Đây là một trường hợp khác: Một thiếu nữ kia mới mười tám tuổi
đáng lẽ ra có một vẻ đẹp quyến rũ, nếu cô không bị phát phì! Các bác sĩ y khoa
nói rằng đó là do bộ hạch óc làm việc quá độ. Cuộc khán bịnh bằng Thần Nhãn của
ông Cayce cũng xác nhận có sự sai lệch trong sự hoạt động của hạch và phát phì
của cô ta là một chứng bịnh về nhân quả. Hai kiếp trở về trước, cô là một lực
sĩ ở thành La Mã, có tiếng về khoa điền kinh và vẻ đẹp cân đối của thân hình.
Nhưng y hay chế nhạo những tay lực sĩ khác nặng cân hơn và thua kém y về sự
khéo léo lanh lẹ.
Trường hợp thứ ba là của một thanh niên hai mười mốt tuổi,
theo đạo Gia Tộ Cha mẹ y muốn cho y sau này trở nên một giáo sĩ; nhưng y thấy rằng
nghề ấy không đúng với sở thích của ỵ Y bèn từ chối không chịu nghe theo. Tật xấu
lớn nhất của y là tật đồng tình luyến ái (yêu bạn trai hay bạn gái cùng đồng một
nam tính hay nữ tính với mình: Homosexualité). Y bèn yêu cầu ông Cayce soi kiếp,
và được biết rằng trong một tiền kiếp dưới một triều vua ở nước Pháp y là một họa
sĩ chuyên môn về lối vẽ hoạt kê hài hước. Bằng một nét bút chì sắc sảo và linh
động, y hay vẽ những cảnh tượng luyến ái giữa những người đồng tình với nhau để
làm trò cười cho thiên hạ. Cuộc soi kiếp luận như sau: "Anh chớ lên án kẻ
khác nếu anh không muốn bị lên án. Anh cười người khác bao nhiêu, anh sẽ phải bị
người cười bấy nhiêu, và anh lên án kẻ khác về cái tật nào, thì chính anh sẽ mắc
phải cái tật đó!"
Trường hợp thứ tư là của một thiếu niên bị tai nạn xe hơi hồi
mười sáu tuổi, làm cho y bị đứt tiện ngang tủy xương sống. Các bác sĩ chuyên
môn nói rằng y sẽ không thể sống được, nhưng rốt cuộc y vẫn sống sót. Y hoàn
toàn bại liệt cả nửa thân mình, từ đốt xương sống thứ năm trở xuống và kể từ
khi đó y không hề rời khỏi chiếc xe lăn. Lúc y được 33 tuổi, 17 năm sau khi tai
nạn xảy ra, mẹ y yêu cầu ông Cayce soi kiếp cho ỵ Cuộc soi kiếp cho biết rõ hai
tiền kiếp: Một kiếp hồi thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ, trong khi đó y phục vụ
trong quân đội và tỏ ra là một sĩ quan ưu tú và can đảm. Do kinh nghiệm trong
kiếp đó mà kiếp này y có được những đức tính kỷ luật, trật tự, yêu đời và khả
năng quyền biến. Trong kiếp trước nữa ở La Mã vào lúc bắt đầu Tây lịch kỷ
nguyên, y đã tạo ra cái nguyên nhân của thảm trạng hiện tại. Hồi đó y là một
người lính trong đạo binh La Mã và lấy làm khoái trá mà nhìn thấy những sự đau
khổ của những người theo đạo Gia Tô bị hành hình ở pháp trường. Y đã từng đấu sức
trong vũ trường, và về sau y nhìn xem những kẻ địch thủ của y đối chọi với các
thú dữ. Y đã nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng tàn ác, gây sự đau khổ chết chóc,
nhưng y không chút động lòng. Kết quả là trong kiếp này y nhìn thấy sự đau khổ ở
chính mình, và y cũng phải tập nhìn nó một cách thản nhiên nhưng với một mục
đích khác hẳn: Quả báo này có cái tác dụng sâu xa là nhờ sự đau khổ, y sẽ cảm
thấy rằng sự tín ngưỡng tôn giáo mà y diễu cợt nhạo báng trước kia, nay đã đột
khởi ở trong linh hồn y để bù lại những gì y đã tạo ở kiếp trước.
Có điều lý thú là trong những trường hợp kể trên, gồm có ba
người bị liệt bại từ nhỏ, một người bị bịnh lao xương háng, một người phát phì,
một người có tật đồng tính luyến ái, một người dập tủy xương sống, tất cả là bảy
người nhưng không có trường hợp nào là bịnh di truyền. Trong mỗi trường hợp, bịnh
trạng chỉ xuất hiện sau khi đương sự đã sinh ra đời, ở vào khoảng giữa năm lên
một và năm lên 36 tuổi. Trong một trường hợp, bịnh tật do tai nạn xe hơi gây
nên, Dầu rằng thế nào, đằng sau cái nguyên nhân hiển hiện, còn ẩn khuất một
nguyên nhân sâu xa hơn. Cái định mệnh lạ lùng nó đặt để rằng trong một tai nạn
xe cộ, có người thiệt mạng, có người lại sống sót, có người bị thương tích nặng
nề, có người lại không bị một vết trầy da, thường được coi như một sự may rủi,
tình cờ. Nhưng nếu ta xét những trường hợp kể trên thì thấy rằng dường như có sự
hành động của một bàn tay vô hình, dầu rằng trong sự hỗn loạn của một tai nạn xảy
ra bất thình lình, và như thế những quả báo xảy đến đều đúng luật công bình,
không mảy may sơ sót.
Mới nghe qua những trường hợp kể trên, người ta thấy rằng dường
như những quả báo xảy đến có vẻ quá nặng nề đối với một viếc không quan trọng
như là một tiếng cười, nhưng nếu chúng ta suy xét kỹ thì sẽ thấy quả có sự công
bằng.
Một người đùa cợt nhạo báng trước sự đau khổ của kẻ khác tức
là y kết án người này về những hoàn cảnh trái ngược của họ mà y không hề hiểu
biết được cái lý do ẩn tàng. Y khinh bỉ cái quyền tự do của người khác, dầu cho
đó là cái tự do lỗi lầm mà mỗi người đều có thể rút những bài học kinh nghiệm lấy
cho mình. Y chà đạp, dày xéo cái nhân vị, cái giá trị và tính cách thiêng liêng
của mỗi linh hồn, dầu rằng linh hồn ấy có rơi vào sự đớn hèn, da đọa hay lố bịch
chăng nữa. Ngoài ra, y còn tự tôn và cho rằng mình cao hơn kẻ mà y chế diễu đùa
cợt. Trong sự chế diễu đùa cợt, có một hình thức tự tôn rá6t bỉ ổi làm cho
đương sự cách biệt rất xa với tình bác ái đại đồng giữa nhân loại và vạn vật.
Những điều kể trên làm cho ta phải nhớ đến những giáo lý răn dạy người đời, được
chứa đựng trong một quyển sách về đạo lý cổ truyền. Chúng ta bắt đầu nhận thấy
rằng thật là hữu phước thay cho người nào thoát khỏi được cái thói xấu hay nhạo
báng đùa cợt. Tác giả bộ Thánh Thi đã tỏ ra có một bản năng sáng suốt khi người
thốt ra những lời này: "Tôi sẽ thắng dây cương ở đôi môi của tôi để khỏi
phải gây tội lỗi vì cái lưỡi."
"Người chớ xét đoán kẻ khác nếu ngươi không muốn bị người
xét đoán! Vì ngươi sẽ bị kết án cũng như ngươi đã kết án kẻ khác vậy."
Đức Jesus cũng nói rằng: "Kẻ nào mắng người khác là
"Đồ ngu!" sẽ bị thiêu đốt dưới ngọn lửa Địa ngục!"
Xét về những trường hợp mà sự chế nhạo đùa cợt bị mang lấy quả
báo vô cùng thảm khốc như đã kể trên, thì lời nói của đức Jesus hẳn là có một ý
nghĩa sâu xa thâm trầm về phương diện tâm lý vậy.
Phần 2:
Chương 6 - Vài Cảm Tưởng Về Luật Quả Báo
Những tập hồ sơ Cayce trình bày cho ta thấy biết bao nhiêu những
sự đau khổ của người đời, có thể phân tách ra từng nhiều loại, đau khổ bệnh tật
về thể xác lẫn cả về tinh thần. Những hồ sơ đó làm nổi bật những khía cạnh trừng
ph5t của Luật Nhân Quả, bởi vì những người đến nhờ ông Cayce giúp đỡ, trước hết
là những người đau khổ về bịnh tật. Một người đầy đủ sức khỏe không có lý do đến
viếng một bác sĩ; và một người sung sướng ít khi thấy cần phải tìm hiểu về mục
đích rốt ráo và ý nghĩa của cuộc đời. Chính vì đó mà phần lớn những cuộc khán
nghiệm bằng Thần Nhãn của ông Cayce được thực hiện cho những người bị thắc mắc
đau khổ về những bịnh tật khó khăn, hoặc có khi là những sự đau khổ tinh thần rất
lớn, mà không có một vị y sĩ, một nhà tâm lý, hay một vị mục sư nào có thể tìm
ra cách giải quyết.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã thấy giá trị của sự đau
khổ trên phương diện luân lý và tinh thần; nhờ thấy rõ lý do và nguyên nhân sự
đau khổ, nên nó không còn là một điều khủng khiếp và rùng rợn đối với chúng tạTrái
lại, những cuộc soi kiếp đó đã khuyến khích, an ủi, giúp nguồn cảm hứng và xoa
dịu những tâm hồn đau khổ một cách sâu xa thâm trầm. Tuy nhiên, một tập hồ sơ
thâm trầm của Cayce không phải chỉ gồm có những trường hợp chữa bịnh và giúp đỡ
những kẻ bịnh tật khốn khó mà thôi. Trong những Chương sau, chúng ta sẽ thấy sự
hành động của Luật Nhân Quả trong việc đào tạo khả năng, đức tính, thiên tài,
và những bẩm tính cùng tư chất đủ mọi loại trong con người, làm căn bản cho sự
khám phá ra những tài năng ẩn tàng cùng là vấn đề hướng nghiệp, ngõ hầu giúp
cho thiên hạ tìm thấy con đường hành động của mình để có thể thành công ở đời.
Một hoàn cảnh tốt và một thân thể kiện toàn là do những nghiệp
quả tốt đưa đến. Nhưng những cuộc soi kiếp thường không giải thích về nguyên
nhân của những quả báo tốt lành, vì người ta cho rằng không phải những người được
yên lành sung sướng, mà chỉ có những trường hợp đau khổ mới là đáng được chú ý.
Những người được soi kiếp cũng đồng quan niệm với cái khuynh hướng chung của mọi
người, là một số phận tốt lành hạnh phúc không cần phải giải thích lý do; mọi
người đều cho rằng mình có quyền được hưởng một số phận yên lành tốt đẹp. Chỉ
khi nào bị điêu linh khốn khổ, tai họa dập dồn, thì người ta mới bắt đầu tự hỏi
lại sao họ lại bị như thế!
Một thân hình tốt đẹp cũng là do nghiệp quả tốt gây nên. Những
cuộc soi kiếp thỉnh thoảng cũng cho biết rằng một thân hình cân đối mỹ lệ trong
kiếp này là kết quả của sự săn sốc giữ gìn thân thể trong kiếp trước. Trong một
cuộc soi kiếp, ông Cayce có đưa ra một trường hợp lý thú về sắc đẹp do một lý
do nghiệp quả khác hẳn. Đó là trường hợp của một người đàn bà là kiểu mẫu đẹp
có tiếng ở New York. Cô có hai bàn tay tuyệt đẹp, và được các hãng buôn mời chụp
ảnh làm kiểu mẫu để quảng cáo cho những món hàng trang sức như thuốc nhuộm móng
tay, dầu thơm, và đồ nữ trang. Quả báo tốt lành khiến cho cô có sắc đẹp trong
kiếp này được truy nguyên từ một kiếp trước trong một tu viện ở Anh Quốc. Trong
tu viện, cô đành trọn cuộc đời và dùng hai bàn tay để làm những công việc hèn mọn
và thấp thỏi nhất với một tinh thần phụng sự và hoàn toàn hiến dâng. Cái chí
nguyện tâm linh ấy đã đem đến cho cô trong kiếp nầy một thân hình mỹ lễ với hai
bàn tay đẹp đẽ khác thường. Đây là một triển vọng đáng khuyến khích cho những
ai mong muốn có sắc đẹp!
Những quả báo đau khổ xảy đến cho ta có lẽ gây cho ta một ấn
tượng sâu xa thấm thía hơn là những quả báo tốt lành, nhứt là nó lại càng thấm
thía hơn và cần thiết hơn ở vào thời buổi hỗn loạn và suy đồi hiện naỵ Người thời
nay trí khôn đã mở rộng, khoa học càng ngày càng phát triển, cuộc đời tinh thần
của họ cần căn cứ trên một nền tảng thông minh có thể làm thỏa mãn được lý trí.
Một phép xử thế đúng đắn, hạp với lẽ Đạo là cần thiết để đem
đến cho con người một đời sống hạnh phúc, an vui và giải thoát. Người ta sẽ nhận
thấy tầm quan trọng lớn lao của điều này khi người ta hiểu rõ những định luật
Nhân Quả và Luân Hồi. Bởi đó, giáo lý Minh Triết cổ truyền đem đến cho ta một
phương thuốc bổ khỏe, thần hiệu để chữa khỏi chứng bịnh liệt nhược tinh thần của
nhiều giáo phái hiện naỵ Có lẽ những sự hành phạt đau khổ của luật quả báo mà
chúng tôi trình bày trong quyển sách này sẽ không làm nản lòng quá mức những
người nào chấp nhận định luật Luân Hồi; trái lại nó còn đem cho họ một niềm hy
vọng một sự yêu đời và một đức tinh mới mẻ căn cứ trên sự tin tưởng ở định luật
công bình của Vũ Trụ, nó cai quản mọi sự trên thế gian.
Những thí dụ kể trên có lẽ sẽ làm cho chúng ta dè dặt cẩn thận
hơn trong những hoạt động và cử chỉ của đời sống hằng ngày. Khi chúng ta biết rằng
sự tàn nhẫn độc ác có thể gây nên quả báo đui mù tàn tật, bịnh mất máu, bịnh
xuyễn hay bịnh liệt bại; sự hoang dâm có thể gây nên chứng bịnh động kinh
(épilepsie); sự áp chế đè nén kẻ khác có thể đem đến bịnh liệt bại; thì những
điều đó có thể làm cho chúng ta dễ quay đều hướng thiện và cố gắng sống một đời
sống tốt lành. Ngoài ra, những trường hợp kể trên đem đến sự giải thích về tình
trạng thê thảm của hằng triệu người đau khổ về bịnh tật trên thế gian. Chúng ta
không thấy những kẻ tật nguyền, què quặt, đui mù, câm điếc, điên khùng, những
người bị các chứng bịnh nan y, liệt bại, động kinh cùi phong, những người cụt
tay, cụt chân vì tai nạn hay chiến tranh... Những người xấu số đáng thương ấy,
chúng ta không nhìn thấy vì họ Ở ẩn trú trong nhà, hoặc nằm trong các bịnh viện.
Chúng ta chỉ tình cờ gặp họ một đôi khi ở ngoài đường phố, và không biết rõ tổng
số những người bịnh tật đau khổ ấy lên đến bao nhiêu!
Nhưng họ gồm một thành phần rất đông đảo, và số phận của họ rất
thảm thương. Sự giải thích thông thường của những giáo sĩ đạo Gia Tô về những
thảm trạng đau thương ấy là: "Đó là ý muốn của Chúa Trời!" Nhưng thật
khó mà dung hòa cái ý niệm một đấng Cha Lành đầy lòng từ bi bác ái mà lại tạo
ra những cảnh đau khổ lầm than đó cho những đức con vô tội của Ngài. Về điểm
này, người ta lại nói rằng ý muốn của Chúa Trời là một điều bất khả tư nghị,
không thể cân nhắc đo lường, và không thể hiểu được! Nhưng rốt cuộc câu ấy vẫn
không giải quyết được sự mâu thuẫn nói trên.
Thuyết Luân Hồi đã đưa ra sự giải thích cho vấn đề bí hiểm đó
bằng cách chỉ rằng sự vật diễn ra trong vũ trụ không bao giờ do sự ngẫu nhiên
tình cờ, mà là do sự hành động của một định luật thiên nhiên rất công bình và hợp
lý. Đó là một định luật căn bản trong Trời Đất, theo đó thì những người đau khổ
bịnh tật vốn là do những nguyên nhân của họ đã gây ra trong quá khứ, và bây giờ
họ phải gánh lấy hậu quả; không một ai có thể bị những cảnh lầm than khốn đốn nếu
đó không phải là do những nguyên nhân xa gần mà họ đã tạo nên trong những kiếp
quá khứ. Người Tây phương không thể chấp nhận quan niệm về Luân Hồi một cách dễ
dàng vì nó khó tin và không thể đem ra thí nghiệm một cách khoa học, hoặc không
có gì làm bằng chứng.
Tuy nhiên, trong đời có biết bao nhiêu những chuyện khó tin
mà chúng ta không hề nghĩ đến! Từ một cái trứng bé nhỏ chui ra một con nòng nọc,
nó lội nước như một con cá, rồi lớn dần và rụng đuôi để trở thành con cóc. Một
con sâu kết một kén bằng tơ và sau đó ít lâu nó từ trong cái kén một cái kén bằng
tơ và sau đó ít lâu nó từ trong cái kén chui ra và trở thành một con bươm bướm
màu mè sặc sỡ. Đó chỉ là một vài thí dụ lạ lùng để chỉ cho ta thấy rằng sự sống
của một sinh vật có thể thay hình đổi dạng nhiều lần liên tiếp mà vẫn không mất
cái cá tính riêng của nó; và chúng ta chấp nhận điều ấy một cách tự nhiên. Nếu
ta suy nghĩ kỹ, có lẽ chúng ta sẽ thấy rằng những thí dụ đó cũng không khác gì
hơn là việc linh hồn những thể xác khác nhau mà vẫn giữ nguyên vẹn cá tính của
nó.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce mà ta có thể chấp nhận được
về phương diện tâm lý và luân lý đã giúp cho chúng ta giải tán được sự hoài nghị
Những tài liệu lạ lùng đó là một bằng chứng để giúp cho chúng ta có một tầm hiểu
biết sâu xa hơn. Có lẽ nó giúp đỡ cho chúng ta thấy rằng ngoài ra những kiếp sống
tầm thường, bẩn chật, gò bó của chúng ta trên cái thế giới nhỏ hẹp này, còn có
một tầm sinh hoạt rộng lớn bao la hơn nữa, và cuộc đời còn có một ý nghĩa sâu
xa thâm trầm hơn những gì mà chúng ta đã có thể tưởng tượng từ trước đến naỵ
Chương 7 - Quả Báo Treo
Một điều lạ lùng mà người ta có thể nhận thấy trong những trường
hợp quả báo về xác thân như chúng tôi đã nêu trên, là có đôi khi những quả báo
chỉ xuất hiện một hay nhiều kiếp sau khi cái nhân được tạo ra. Người ta tự hỏi
tại sao lại có sự đình chỉ đó, và tại sao nghiệp quả không báo ứng ngay tức khắc
như một quả banh dội lại ngay sau khi được ném vào tường?
Dường như câu hỏi đó có nhiều cách giải đáp. Một là: Linh hồ
đã gây nhân tạo nghiệp, phải đợi đến khi có một hoàn cảnh và thời giờ thuận tiện
cho quả kia kết thành hình. Có khi phải đợi nhiều thế kỷ mới có một cơ hội thuận
tiện và trong khi chờ đợi, thì khoảng thời gian đó được sử dụng để cải thiện
cho tâm tính của đương sự. Người ta tìm thấy một thí dụ về loại quả báo treo
này trong những tập hồ sơ Cayce về những linh hồn trước kia đã sống ở Châu
Atlantide.
Khoa học chưa bao giờ có thể xác nhận hay hoàn toàn phủ nhận
sự hiện diện của Châu Atlantide vĩ đại và cổ xưa chìm dưới đáy biển Đại Tây
Dương, mặc dầu người ta có đủ lý do để tin ở sự kiện lấy trước những bằng chứng
lịch sử, khoa học và văn hóa. Một tài liệu lịch sử quan trọng là bộ sách
"Crisias Timeus" của Platon trong đó tác giả tường thuật những điều
ông đã nghe nói về Châu Atlantidẹ Một trong những bằng chứng khoa học thường được
nêu ra là sự khám phá của các nhà bác học, nhân dịp một sợi dây cáp (câble sous
marin) đặt ngầm dưới biển Đại Tây Dương bị đứt và chìm xuống đáy biển ở một bề
sâu 3.000 thước. Khi sợi dây cáp được vớt lên, thì nó quến theo những mẫu phún
thạch (lavạ) Khi người ta quan sát bằng kiếng hiển vi thì thấy rằng những mẫu
phún thạch này ngày xưa đã từng đông đặc lại trên đất liền, trước khi chìm xuống
đáy biển.
Trong những bằng chứng văn hóa đáng kể nhứt, thì trước hết là
những chuyện giai thoại về cuộc Đại Hồng Thủy. Người ta gặp chuyện những giai thoại
này không những trong bộ Thánh Kinh (Bible), mà còn trong những truyện Thần Thoại
tôn giáo và lịch sử của hầu hết tất cả những dân tộc cổ xưa trên thế giới.
Kế đó là những điểm tương đồng giữa những ngôn ngữ, văn tự và
kiến trúc của Ai Cập và Trung Mỹ, ở vào một thời kỳ mà người ta không thấy có
những phương tiện giao thông giữa hai lục địa Mỹ Châu và Phi Châu.
Tất cả những bằng chứng kể trên có thể giúp cho người ta tin
tưởng nơi sự hiện diện của Châu Atlantide, nhưng vẫn chưa đủ để đưa đến một kết
luận chắc chắn. Dầu sao, nếu ta có phải tin nơi những cuộc soi kiếp của ông
Cayce, thì châu Atlantide đã từng có một cách hiển nhiên, không còn nghi ngờ gì
nữa. Theo ông Cayce một vài gian phòng bí mật hãy còn khóa chặt trong Kim Tự
Tháp lớn ở Ai Cập, một ngày kia sẽ có thể tiết lộ cho chúng ta một kho tài liệu
đầy đủ về lịch sử và nền văn minh của châu Atlantidẹ Ông Cayce cho biết rằng những
tài liệu đó được đem chôn giấu trong Kim Tự Tháp, do những người dân Atlante
ngày xưa di cư qua Ai Cập trong cuộc thiên tai địa chấn lần thứ ba và cũng là lần
cuối cùng đã nhận chìm châu Atlantide xuống đáy biển vào khoảng 9.500 năm trước
Tây Lịch kỷ nguyên. Ông Cayce cũng có nói rằng đảo Bimini, ở ngoài khơi tiểu
bang Florida bên Hoa Kỳ, nguyên là đỉnh ngọn núi cao ở châu Atlantide ngày xưa.
Ông cũng cho biết rằng tại nơi đó, người ta có thể tìm thấy dưới đáy biển một
ngôi đền cổ của dân Atlante, mái bầu của ngôi đền được xây cất với những tấm kiếng
thủy tinh theo một kiểu kiến trúc đặc biệt để thâu ánh nắng mặt trời. Những cuộc
soi kiếp cho biết dân Atlante ngày xưa đã từng đạt tới một trình độ khoa học tiến
bộ hơn của chúng ta ngày naỵ Họ đã từng phát triển tới một mực rất cao các
nghành điện khí, vô tuyến điện, vô tuyến truyền hình, những phương tiện di chuyển
trên không trung, tàu ngầm, cùng phương pháp sử dụng mãnh lực của Mặt Trời và
nguyên tử lực. Họ đã từng phát minh những kỹ thuật dùng nhiệt lực, thắp sáng,
và chuyển vận tiến bộ hơn của chúng ta ngày nay.
Điều đáng ghi nhớ là những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường
lập đi lập lại nhiều lần rằng dân Atlante ngày xưa bị họa diệt vong vì họ đã lạm
dụng những sức mạnh kinh khủng mà họ chế ngự được. Họ dùng điện lực, khoa thôi
miên và mãnh lực của tư tưởng để đàn áp, chế ngự kẻ khác, hoặc sai khiến chúng
làm việc một cách nô lệ, hoặc để cưỡng hiếp phụ nữ và thỏa lòng háo sắc của họ
Nïười ta sẽ hiểu rằng những sự lạm dụng quyền năng và những hành vi trái Đạo kể
trên không thể cứu chuộc được một cách đầy đủ và trọn vẹn trong những thời kỳ
mà khoa học chưa được phát triển, và người ta chưa có những kiến thức sâu rộng
về khoa tâm lý hoặc khoa Huyền Môn. Cuộc thử thách hữu hiệ nhứt để biết xem một
người đã thắng được thói ăn uống vô tiết độ hay chưa, là đặt trước mặt y những
món cao lương mỹ vị mà y ưa thích, để xem y có biết tự chủ hay không. Người ta
không thể biết đượ rằng một người đã hoàn toàn tự chủ về đường sắc dục hay
chưa, nếu y không gặp cơn thử thách: Bị cám dỗ mà vẫn không động lòng như Thánh
Antoine ngày xưa vẫn thanh tịnh giữa những giai nhân tuyệt sắc, đáng yêu!
Cũng giống như thế, những linh hồn đã lạm dụng những quyền
năng phi thường và mầu nhiệm nhờ sự phát triển khoa học của châu Atlantide thuở
xưa, không chắc là đã từ bỏ thói ích kỷ tham tàn và cải tạo tâm tính, nếu họ
chưa gặp những hoàn cảnh tương tự của một thời kỳ phát triển khoa học và kỹ thuật
như thời đại này, để thử thách xem họ có biết dùng những phương tiện đó với một
tinh thần xây dựng, hay là với mục đích kỷ hại nhân như thuở xưa kia.
Sự tiến bộ từng chu kỳ của Lịch sử đã làm cho thế kỷ 20 trở
nên thời kỳ phát triển khoa học kể trên; bởi đó những cuộc soi kiếp của ông
Cayce tiết lộ cho biết rằng có rất nhiều dân Atlantide thời cổ nay đã đầu thai
chuyển kiếp vào thời kỳ hiện tại. Những sự tiến bộ về khoa học và kỹ thuật có
thể hiểu được bằng hai cách: Trước hết, đó là do kết quả của những kinh nghiệm
về mọi phát minh khoa học mà những linh hồn mới đầu thai đã mang lại từ những
kiếp quá khứ của châu Atlantide ngày xưa; thứ hai, thời kỳ này là giai đoạn thử
thách cho những linh hồn đó để xem trong những thế kỷ trung gian, họ đã thâu thập
được những đức tính gì khả dĩ giúp cho họ chống chỏi lại sự cám dỗ do thói ích
kỷ và tàn bạo của thế hệ văn minh khoa học vật chất đưa đến. Bởi đó, cái yếy tố
căn bản nó quyết định vấn đề "Quả báo treo" dường như là những linh hồn
đã gây sự nghiệp quả xấu phải chờ đầu thai vào một thời kỳ thuận tiện, có một nền
văn minh tiến bộ thích nghị Vấn đề này hình như cũng có liên quan đến sự tiến bộ
từng chu kỳ của lịch sử, và việc luân phiên của những nhóm linh hồn trong việc
chọn lựa những thời kỳ đầu thai chuyển kiếp xuống Trần.
Những trào lưu chủng tộc và các sắc dân trên Địa Cầu cũng đầu
thai trở lại thế gian theo từng đợt hay từng nhóm, cũng ví như những luồng sóng
dập dồn từng thời kỳ, theo định luật Tuần Hoàn của vũ trụ. Tuy nhiên, có nhiều
đoạn trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce chỉ rằng sự chuyển kiếp của những
nhóm thiểu số trong những luồng sóng lớn đó, và thậm chí sự đầu thai của từng
cá nhân trong những nhóm ấy, có thể không phải là do tiền định một cách chặt chẽ
và máy móc theo từng chu kỳ nhất định. Những linh hồn và từng nhóm linh hồn
không phải tái sinh trở lại một cách đều đặn như một việc đã định saün. Về điểm
này, cũng như trên những lãnh vực khác của Cơ Trời máy Tạo, con người vốn có
quyền tự do ý chí, và một cá nhân hay một nhóm người đều có quyền tự do chọn lựa
những thời kỳ đầu thai tùy theo ý muốn.
Điều này lại đưa đến một sự phức tạp mới nữa: Nếu một linh hồn
cần phát triển một đức tính trong những giao tế của y với một linh hồn hay một
nhóm linh hồn khác, có lẽ y sẽ cần trì hoãn sự đầu thai của y trong một thời
gian để đợi đến một thời kỳ được chọn lựa cho sự đầu thai chung của những linh
hồn ấy. Và nếu đó là một sự trì hưỡn lâu dài, thì trong khi chờ đợi, linh hồn ấy
có thể dùng thời gian để cố gắng phát triển một vài đức tính mới, hoặc một khía
cạnh mới nào đó về sự tiến hóa của y, và bởi đó mới có cái hiện tượng "Quả
báo treo."
Những sự kiện kể trên nhắm vào những yếu tố bên ngoài của quả
báo treo; nhưng ngoài ra còn có những yếu tố bên trong. Một sự kiện tâm lý sau
đây còn có một tầm quan trọng tương đương, nếu không nói là lớn hơn; đó là sức
mạnh tinh thần cần thiết để chịu đựng những quả báo xảy đến. Linh hồn phải trả
quả cần có cơ hội thâu thập những đức tính cần thiết để đương đầu với quả báo
khi nó xảy đến; chứ nếu không thì quả báo nặng nề quá sức chịu đựng cò thể làm
cho đương sự bị đè bẹp, thay vì giúp ích cho sự tiến hóa của y.
Nhiều người bịnh tật khi được ông Cayce soi kiếp và được cho
biết rằng nguồn gốc bịnh trạng của họ được truy nguyên ra từ nhiều kiếp trở về
trước, đều lấy làm tò mò muốn biết lý do của sự trì hoãn lâu dài như thế. Những
người muốn làm sáng tỏ vấn đề này bằng một cuộc soi kiếp thứ nhì, đều nhận được
câu trả lời giống như của cô thiếu nữ què mà chúng tôi đã kể chuyện trong
Chương Năm. Cô này hỏi: "Tại sao linh hồn lại đợi cho đến kiếp này mới trả
xong nghiệp quả đã gây ra từ thời Đế Quốc La Mã?" Cô ấy được trả lời như
sau: "Bởi vì linh hồn ấy không đủ sức trả quả sớm hơn."
Câu chuyện ấy chỉ rõ rằng nếu một linh hồn không đủ sức trả
quả sớm hơn, đó là vì bởi một lý do bên trong hơn là lý do bên ngoài. Trong trường
hợp đó, cũng như những trường hợp bệnh tật khác, một sự nghiên cứu tỉ mỉ về những
kiếp trung gian chỉ rằng những kiếp này là những kinh nghiệm cần thiết để giúp
cho đương sự có cơ hội thu thập thêm một vài đức tính tốt và để tiến hóa thêm.
Thí dụ, nếu chúng ta xét lại trường hợp của người thiếu niên
16 tuổi, bị thương nặng trong vụ tai nạn xe hơi như đã kể trên, chúng ta thấy rằng
nguyên nhân của nghiệp quả này là do y đã gieo trong thời kỳ đế quốc La Mã. Tuy
nhiên, một kiếp đầu thai vào thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ đã giúp cho họ có cơ hội
phát triển một vài đức tính như can đảm, yêu đời, và khả năng khai thác khía cạnh
tốt của mọi hoàn cảnh. Những đức tính đó là những điều mà y cần dùng để chịu đựng
cảnh khổ trong kiếp hiện tại, khi quả đã chín mùi và đến kỳ phải trả.
Một thí dụ sau đây có thể giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về vấn
đề này:
Một người kia vay năm triệu đồng của ngân hàng để kinh doanh
sự nghiệp. Y không thể nào trả hết số tiền đó trong vài ngày hay một tuần lễ,
hoặc một tháng sau.Vì lẽ đó, y xin hẹn đến một kỳ hạn nào đó, thí dụ là ba năm
để cho y có thời giờ dành dụm lần hồi cho đủ số trước khi trả dứt làm một lần.
Ngân hàng không thể bắt y phải trả dứt trong một tuần lễ, vì lẽ tất nhiên là y
không đủ sức trả gấp, và đòi nợ một cách gắt gao như thế thật là không có ích
gì. Có thể rằng trên địa hạt tâm linh, sự trì hoãn thời kỳ phải trả quả, gọi là
quả báo treo, cũng diễn ra với một tinh thần đó.
Nếu một ngày kia thuyết Luân Hồi được một số đông người thừa
nhận và nếu quan niệm về Nhân Quả được quần chúng Phương Tây cũng như Đông
Phương hiểu rõ, ít nhất trên nguyên tắc đại cương, thì vấn đề quả báo treo có lẽ
sẽ trở nên một đầu đề lo sợ cho rất nhiều người! Cái ý tưởng rằng một hành động
hung dữ độc ác trong quá khứ có thể bị quả báo đui mù, tàn tật trong một kiếp
tương lai xa hay gần, làm cho người ta cảm thấy băn khoăn lo sợ. Đối với những
người nhậy cảm và nhiều tưởng tượng, thì một món nợ nhân quả mà họ không được
biết rõ cũng ví như một lưỡi gươm của Damoclès treo lủng lẳng trên xà nhà và chực
rơi xuống đầu họ bất cứ lúc nào. Quả báo treo có thể trở nên một sự đe dọa khủng
khiếp rùng rợn trong những năm đầu của thế hệ phổ biến về thuyết Luân Hồi, cũng
như Quỷ Satan và lửa Hỏa ngục đã từng là một mối đe dọa sợ hãi cho người đời
trong thế hệ đã qua!
Để chống lại khuynh hướng sợ sệt đó những nhà lãnh đạo các
phái Tư Tưởng Mới có thể đi đến việc phủ nhận toàn bộ vấn đề quả báo treo, cũng
như phong trào Khoa Học Công Giáo (Science Chrétenne) phủ nhận tội lỗi, bịnh tật,
sự chết, sự lầm lạc và cõi vật chất. Những sự phủ nhận đó có một sức dẫn dụ rất
mạnh và có thể đưa đến những kết quả khá lành mạnh về đường tâm linh. Tuy
nhiên, phủ nhận vật chất, thế gian, tội lỗi và quả báo, không có nghĩa là giải
quyết được vấn đề! Bổn phận của chúng ta không phải là dấu diếm sự thật, cũng
như con chim đà điểu vùi đầu xuống đống cát; mà là thắng đoạt, chế ngự và tổ chức
lại cõi đời vật chất theo những lý tưởng tâm linh cao cả. Phủ nhận Luật Quả Báo
chẳng khác nào như không nhìn nhận những món nợ mà mình phải trả, và những bài
học mà mình phải học hỏi, và đó là một thái độ bất lương. Kẻ nào muốn gạt gẫm
hay trốn tránh trách nhiệm, dâu đó là những trách nhiệm vật chất hay tinh thần,
không thể gây cho người khác lòng mến phục.
Thói thường, khi người ta không thích một điều gì, người ta
hay lý luận một cách khôn khéo để phủ nhận điều ấy. Đó cũng là một sự tìm cách
trốn tránh trách nhiệm. Nhưng chúng tôi không muốn nói rằng sự dẫn dụ
(suggestion) là vô ích. Trái lại, sự dẫn dụ có thể rất hữu ích để chữa những bịnh
trạng thuộc về tâm lý. Chúng ta đã thấy trường hợp lý thú của một trẻ em bị chứng
bệnh đái dầm và phương pháp dẫn dụ để đánh tan ý thức về tội lỗi in sâu trong
tiềm thức, đã chữa cho em ấy được khỏi bịnh.
Nếu những nhà chữa bịnh tinh thần muốn chữa các chứng bịnh về
nhân quả, thì phương pháp điều trị là làm cho bịnh nhân thành thực nhìn nhận những
tội lỗi cũ; bày tỏ một ý muốn chân thành cứu chuộc những tội lỗi và sau cùng, tỏ
ra một sự cương quyết làm việc phải và hướng thiện theo đường lối ngược chiều với
tội lỗi đã gây ra. Như vậy, các quả báo sẽ lần lần tiêu tan, và bịnh sẽ thuyên
giảm.
Nếu chúng ta chấp nhận thuyết Luân Hồi, thì ta phải nhìn nhận
rằng nhân loại chưa được tiến hóa cao về phương diện tâm linh, và bởi đó con
người phải chịu quả báo xấu xa trong những kiếp tương lai. Nhưng điều đó không
là cho ta quá băn khoăn lo sợ, vì hai lý do:
Một là: "Mỗi ngày chỉ chịu đựng vừa đủ sự khổ nhọc của
nó!" (A chaque jour suffit sa peinẹ) Câu tục ngữ này có nghĩa là: Ta nên sống
mỗi ngày một cách bình tĩnh và không nên quá băn khoăn lo lắng. Chẳng những thế,
mỗi kiếp sống cũng vậy; dầu cho ta có bị những khó khăn đau khổ như thế nào, ta
cũng phải sống trọn kiếp của mình với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng số phận
của mỗi người là rất công bình, và ta có đủ sức chịu đựng mọi điều xảy đến.
Không bao giờ ta phải trả một quả báo nào mà ta không đủ sức chịu đựng.
Hai là: Dầu cho ta có tin ở Luật Nhân Quả hay không, ta cũng
phải thấy rằng tương lai là một cái gì mà ta không thể biết một cách chắc chắn.
Và ta biết rằng những tai họa xảy đến cho ta là do lẽ nhân quả báo ứng chớ
không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ, thì những nỗi băn khoăn sợ sệt của chúng
ta cũng sẽ giảm bớt, vì lý do giản dị là quả báo xảy đến chỉ do một định luật
Công Bằng. Con người thường hay sợ sệt những tai họa sẽ đến, nhưng nếu một sự
việc xảy đến một cách công bình, để cho ta học một bài học hay và mở rộng tầm
kiến thức của mình thì đó không phải là một điều đáng sợ. Một người lương thiện
nếu mắc nợ thì lo trả; y làm việc một cách siêng năng chăm chỉ để trả góp đúng
kỳ hạn vào đầu tháng. Y không phải lúc nào cũng lo lắng sợ sệt cái ngày trả nợ
sẽ đến. Y đem hết tinh thần, sức lực, cố gắng làm việc để có thể trả dứt nợ nần.
Vì bởi tầm ý thức của chúng ta có giới hạn, nên chúng ta
không biết được rằng mình đã mắc phải bao nhiêu món nợ quả báo trong thời kỳ dĩ
vãng xa xăm. Nhưng chúng ta nên có cái thái độ thẳn thắn của một người lương
thiện, để chấp nhận những món nợ của chúng ta với một sự thiện chí và thành thật
muốn trả nợ.
Sự chấp nhận định luật Nhân Quả và đức tin nơi một sự Công Bằng
Thiêng Liêng, phải là cái thái độ của chúng ta đối với mọi quả báo xảy đến.
Trong một Vũ Trụ công bằng, trật tự và tốt lành, mà định luật Luân Hồi đã tiết
lộ cho chúng ta thấy, thì tuyệt nhiên ta không có gì cần phải sợ sệt hết cả.
Chương 8 - Quả Báo Đối Với Sức Khỏe
Có nhiều người tin tưởng một cách sai lầm về Luật Nhân Quả. Họ
nghĩ rằng theo luật ấy, mọi sự đều có tiền định, và điều này làm cho họ có một
thái độ thụ động, lười biếng, mất cả chí tiến thủ, và việc gì cũng đổ thừa cho
số mạng. Đó là trường hợp của người Ấn Độ, mà sự tin tưởng của Luật Nhân Quả vốn
ăn sân dân tộc của họ đã từng nhiều ngàn năm, làm cho phần đông có cái thái độ
kể trên.
Trình độ sinh hoạt ở Ấn Độ nói chung vẫn ở vào một mực rất thấp
thỏi và bi đát. Tình trạng này phần lớn là do óc thụ động, thiếu tranh đấu của
người Ấn trong sự chấp nhận nghiệp quả và số mạng của họ.
Nếu chúng ta chấp nhận quan niệm về Nhân Quả, thì thái độ của
chúng ta đối với luật Quả Báo, cũng như đối với mọi định luật thiên nhiên, phải
là an phận và tin tưởng. Nhưng chúng ta không khỏi tự hỏi rằng chúng ta nên chấp
nhận sự kiềm tỏa của Luật Quả Báo và bằng lòng an phận đến một giới hạn nào, và
đến một mực độ nào? Vấn đề này được nêu ra trong những trường hợp quả báo về
xác thân gây nên những bệnh tật đau khổ cho xác thể.
Về vấn đề này, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đều rất lý
thú vì nó đem đến sự giải đáp rõ ràng và chắc chắn cho những sự tranh luận về
thuyết Luân Hồi.
Những câu hỏi sau đây đã được nêu ra:
- Đối với những ng&ười đau khổ vì một chứng bịnh quả báo,
phải dùng phép điều trị như thế nào? Có hy vọng chữa khỏi những chứng bịnh
"Nhân quả" đó không? Mỗi cuộc soi kiếp trong tập hồ sơ Cayce đều
khuyên ra không nên có một thái độ quá thụ động trong sự trả quả. Luôn luôn
trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce đều lặp đi lặp lại câu này để nói với bịnh
nhân:
"Đó là nghiệp quả của anh (hay chị). Và bây giờ, đây là
điều mà anh (hay chị) có thể làm để sửa đổi lại."
Trong những tập hồ sơ đó, có điều đáng chú ý là trong tất cả
mọi trường hợp về bịnh "Nhân quả," luôn luôn đều có những lời khuyên
về cách điều trị. Trong nhiều trường hợp về bịnh quả báo, cuộc soi kiếp cho biết
có hi vọng chữa khỏi. Trong những trường hợp mà nghiệp quả nặng nề hơn, cuộc
soi kiếp nói rõ rằng không nên hy vọng được hoàn toàn chữa khỏi, nhưng bịnh có
thể được thuyên giảm nhờ sự cố gắng; và kế đó là sự diễn tả phương pháp điều trị.
Đây là một trường hợp lý thú của một người thợ điện, 34 tuổi,
bị một chứng bịnh đau mắt có cườm rất nặng, không thể chữa khỏi. Trong ba năm,
y không làm việc gì được; y đã quá mù mắt để có thể đọc hay viết; và khi y thử
đi vài bước thì y thường bị vấp ngã. Y đã vào nằm nhiều bịnh viện, trong khi đó
vợ y làm công trong một cửa hàng lớn để nuôi gia đình và một đứa con năm tuổi.
Trong một cuộc khán nghiệm, y được cho biết là một chứng bịnh quả báo, nhưng y
không nên tuyệt vọng. Cuộc soi kiếp nói:
- À! Chúng ta có cái tthể xác ở đây. (Các cuộc soi kiếp đều bắt
đầu bằng một câu này, tuy giản dị mà lạ lùng, trước khi diễn tả căn bịnh của
đương sự.) Theo chỗ chúng thấy thì bịnh trạng rất nặng, nhưng anh chớ tuyệt vọng
vì sự cứu chữa đã sắp đến.
Tiếp theo sau đó là sự diễn tả căn bịnh bằng những danh từ Y
học. Kế đó, ông Cayce nói về những mãnh lực hàn gắn tiềm tàng trong thể xác của
bịnh nhân; ông nói qua vài điều chỉ rằng nguyên do chứng bịnh này là do quả báo
gây ra. Tiếp theo đó là lời khuyên bịnh nhân hãy thay đổi tâm tính, và dẹp bỏ mọi
điều oán ghét, thù hận và mọi tư tưởng ác. Cuộc soi kiếp kết thúc bằng một
phương pháp điều trị tỉ mỉ từng chi tiết.
Độ một năm sau, chính người bịnh nhân ấy viết thơ yêu cầu ông
Cayce dành cho một soi kiếp thứ nhì; y cho biết rằng y đã áp dụng cách điều trị
một cách đúng đắn và đã thấy khá. Sự thuyên giảm đó kéo dài được bốn tháng,
nhưng sau đó bịnh lại tái phát và sức khỏe bị giảm sút. Dường như y chỉ áp dụng
phép điều trị về phương diện vật chất, mà không chú ý bao nhiêu đến phương diện
tinh thần, vì cuộc soi kiếp lần thứ hai đã cảnh cáo y một cách không úp mở như
sau:
"À! Chúng ta có cái thể xác ở đây. Thể xác này, chúng ta
đã thấy trước đây không lâu. Chúng ta nhận thấy rằng thể xác này đã có nhiều tiến
bộ về vật chất, nhưng nó còn rất nhiều điều phải sửa chữa.
"Như đã nói ở trên, đây là một chứng bịnh quả báo. Linh
hồn này phải thay đổi thái độ đối với cuộc đời, đối với mọi hoàn cảnh và đối với
người đồng loại. Bịnh được thuyên giảm một phần nào, do sự áp dụng những phương
pháp điều trị về thể chất. Nhưng nếu linh hồn này lấy làm tự mãn, và không chịu
thay đổi thái độ về mặt tâm linh; nếu y vẫn còn nuôi lòng thù hận, ích kỷ, độc
ác bất công và ganh ghét; nều y vẫn còn nuôi trong lòng nhữn gì trái ngược lại
với đức kiên nhẫn, khoan dung, bác ái, thiện cảm, nhân từ, thì bịnh trạng của y
không thể nào có thể chữa khỏi.
"Linh hồn này còn muốn khỏi bịnh vì mục đích gì?"
"Phải chăng là để thỏa mãn những dục vọng của thể
xác?"
"Hay là để làm tăng trưởng thêm lòng ích kỷ của mình? Nếu
như thế, thì tốt hơn là y hãy cứ ở nguyên tình trạng cũ của y bây giờ.
"Nếu linh hồn này có sự thay đổi bên trong về thái độ và
về đường tâm tính, nếu y biểu lộ sự thay đổi đó trong lời nói và hành động, và
nếu y áp dụng cách điều trị đúng như phương pháp đã nêu ra, thì bịnh y sẽ có thể
thuyên giảm.
"Nhưng trước hết cần phải có một sự thay đổi tánh tình,
tâm trạng và mục đích. Tất cả những cách điều trị máy móc mà anh đã áp dụng chỉ
có thể đem đến một sự khỏi bịnh hoàn toàn khi nào linh hồn anh và mục đích của
anh được tiếp nhận ân đức Thánh Linh. Ân huệ đó, anh muốn nhận lãnh hay từ chối,
là tùy ý anh. Chúng tôi không còn gì để xét thêm, trừ phi anh biết tự sửa đổi.
Chúng tôi đã chấm dứt cuộc khán bịnh ở nơi đây."
Người ta nhận thấy trong những đoạn kể trên đây, rằng hy vọng
được khỏi bịnh tùy thuộc nơi sự thay đổi trong tâm hồn và thái độ của bịnh nhân
đối với cuộc đời. Anh muốn khỏi bịnh với mục đích gì? Đó là một câu hỏi rõ ràng
với một giọng dò xét. Phải chăng là để thỏa mãn những dục vọng của xác thể? Hay
là để làm tăng trưởng lòng ích kỷ? Nếu như thế tốt hơn anh hãy ở vào tình trạng
cũ!
Trải qua trên 15.000 cuộc soi kiếp, ông Cayce không một lần
nào từ chối giúp đỡ ý kiến để cho một bịnh nhân tự điều trị lấy, dầu y đã phạm
tội lỗi xấu xa nặng nề như thế nào. Nhưng cũng như trong trường hợp kể trên,
ông thường nhấn mạnh rằng bịnh tật đau khổ có một mục đích giáo dục để bắt buộc
chúng ta quay về đường chính, và sự tội lỗi, tà vạy đã gây nên quả báo bịnh tật
cần phải được sửa đổi. Người bịnh cần phải cố gắng bằng đủ cách để cải thiện
tình trạng của mình; nhưng đồng thời y phải sửa đổi sự yếu kém bên trong tâm hồn.
Những sức mạnh hàn gắn thiên nhiên và những cách điều trị của khoa học hiện đại
có thể đem đến một sự thuyên giảm tạm thời, nhưng không thể chữa khỏi bịnh, nói
về khía cạnh tinh thần của Luật Quả Báo. Nói tóm lại, sự khỏi bịnh phải là do ở
khía cạnh tâm linh, nó phải đến từ bên trong, chứ nếu không, nó sẽ không được
lâu bền.
Trường hợp sau đây của một người mù, rút trong số hằng trăm
trường hợp mù lòa trong các tập hồ sơ Cayce, có thể tiêu biểu cho quan điểm kể
trên. Đây là biên bản cuộc khán nghiệm: "Đây cũng là một bịnh quả báo. Sự
áp dụng các lý tưởng đạo đức tâm linh trong cách xử thế hằng ngày đã đem đến một
sự thay đổi lớn trong cuộc đời của bệnh nhân. Tuy lúc đầu bịnh nhân vẫn không
thấy bớt, nhưng chúng tôi thấy rằng cặp mắt bịnh nhân đã lần lần thuyên giảm
khi y bắt đầu sửa đổi tâm tánh. Chúng tôi nhận thấy rằng sự cố gắng đầu tiên phải
là thuộc về địa hạt tinh thần và bịnh nhân phải cố gắng biểu lộ lòng nhân từ
trong những cử chỉ hằng ngày. Hãy tập lấy sự thiện cảm, tình thân hữu, đức kiên
nhẫn, dịu dàng, khoan dung, nhân hậu... "
Trong hai trường hợp kể trên, người ta thấy rằng cuộc soi kiếp
nhấn mạnh trước hết ở sự thay đổi tâm tính và cải tạo tinh thần, và đó là điều
kiện cốt yếu để sửa đổi nghiệp quả về xác thân. Nếu chúng ta nhớ rằng mục đích
của sự quả báo là giáo dục tâm linh, chúng ta sẽ hiểu rằng phương pháp điều trị
kể trên là lẽ tự nhiên vậy. Điều tội lỗi mà luật quả báo sửa đổi, không phải là
thứ "Tội lỗi" hiểu theo ý nghĩa dị đoan cổ xưa là làm trái ý hoặc xúc
phạm Quỷ Thần, cũng không phải theo ý nghĩa của các nhà Thần học, hay của nền
luân lý khiết bạch hồi thời Nữ hoàng Victoria. Đó là tội lỗi theo ý nghĩa tâm
lý, nó bao gồm tất cả những gì trái với định luật thiên nhiên.
Tội lỗi hiểu theo ý nghĩa đó vốn căn cứ trên lòng ích kỷ, hay
khuynh hướng chia rẽ người với ta, và tăng cường bản ngã đó có thể khoác lấy
nhiều hình thức. Nó có thể là sự tàn bạo đối với kẻ khác; hoặc sự lạm dụng cơ
thể của chính mình do bởi sự vô tiết độ hay sinh hoạt cẩu thả; hoặc nó có thể
là do sự kiêu căng, tự tôn tự đại. Những sự lỗi lầm đó sở dĩ có là do bởi một
điều lầm lạc chính đại, căn bản về nguồn gốc con người.
Vì con người vốn là tinh thần chứ không phải là xác thể. Tội
lỗi của con người là do bởi y quên đi cái chân lý căn bản đó và tưởng rằng mình
là cái thể xác. Y phải cố gắng loại trừ điều ảo vọng đó; và phương tiện chắc chắn
nhứt để đánh đổ điều hư vọng ấy không phải là phủ nhận thể xác một cách tiêu cực,
mà là một phương pháp tích cực tự hỗn hợp với tinh thần.
Về điểm này, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và những giáo
lý thần bí khác gọi sự hỗn hợp tinh thần đó là Ân Phước, hay Ơn Trên. Người ta
thấy trong những trường hợp kể trên cũng như trong những trường hợp khác về quả
báo xác thân trong tập hồ sơ Cayce, rằng lời khuyên răn tối hậu để được khỏi bịnh
là bịnh nhân hãy cố gắng làm thế nào để được thấm nhuần Ơn Trên, hay lòng Nhân
Từ của đấng Christ. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã dùng những lời lẽ và
danh từ Gia Tô Giáo, bởi vì ông Cayce là người theo đạo Gia Tộ Trong lúc bình
thường, ý thức của ông đã thấm nhuần những từ ngữ và quan điểm Gia Tô, vì vậy
những lời nói do nơi tiềm thức của ông thốt ra trong giấc thôi miên đều phải đi
xuyên qua cái bức màn đó. Người ta có thể hiểu rằng nếu ông Cayce sinh trưởng ở
một xứ Phật giáo, thì có lẽ ông đã dùng những lời lẽ danh từ trong khuôn khổ
tôn giáo và văn hóa địa phương và có lẽ ông đã dùng những danh từ nhà Phật.
Nhưng cách biểu lộ tư tưởng của ông, dầu là dưới hình thức nào, cũng không có ảnh
hưởng gì đến công việc cứu khổ mà ông vẫn theo đuổi. Dưới đây là một thí dụ về
sự khuyên răn của ông cho một người bị chứng bịnh lao tủy xương sống: "Anh
hãy nhớ rằng nguồn gốc bịnh trạng của anh là tự anh gây ra: Nó là một chứng bịnh
quả báo. Phương diện tốt nhứt là anh hãy cầu nguyện Ơn Trên và hoàn toàn tin tưởng
nơi đấng Thiêng Liêng, vì Ngài là Công Bằng, Chân Lý và Ánh Sáng."
Ơn Trên ở đây không phải là một độc quyền của đạo Gia Tô hay
của những người tin ở đấng Christ: Ơn Trên có thể được ban xuống cho tất cả người
nào, dầu y là người Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo hay Gia tô cũng vậy. Được thấm
nhuần Ơn Trên, tức là do sự sám hối, ăn năn tội lỗi và quyết chí sửa mình mà được
hưởng ân huệ tốt lành nó làm tiêu tan nghiệp chướng do luật Quả Báo đưa đến. Sự
suy gẫm, cầu nguyện, đọc Thánh Kinh, lập hạnh, và làm việc phụng sự giúp đời,
là những phương pháp thường được nêu ra trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce để
sửa đổi tâm tính và tiến bộ tâm linh. Nhưng muốn được hiệu nghiệm, những phương
pháp đó phải được thi hành một cách thành thật, chứ không phải là một cách máy
móc. Nếu không có một tình thương nhân loại và chúng sinh phát ra tự trong đáy
lòng, nếu không có đức nhân ái từ bi, thì những phương pháp thực hành kể trên
chỉ là trống rỗng và không có giá trị gì. Chỉ có những kỷ luật đúng đắn, một sức
dẫn dụ mạnh mẽ quyết tâm cải tà quy chánh, mới có thể đưa linh hồn vào đúng con
đường của nó. Nhưng còn đối với hằng triệu linh hồn hãy còn vào thời kỳ ấu trĩ
về phương diện tâm linh, những phương pháp trên không thể nhất thời đưa họ tiến
ngay đến mục đích. Không phải tất cả mỗi người đều đã tiến hóa đến một trình độ
tâm linh đầy đủ để có thể đạt được trong một kiếp cái tình bác ái rộng rãi bao
la nó bao trùm tất cả mọi loài, tức là trạng thái thâm thức đó mới có đủ mãnh lực
làm tiêu tan mọi điều tật ách, nghiệp chướng do quả báo dưa đến.
Trong trường hợp người thanh niên bị chứng bịnh lao ở tủy
xương sống, cuộc soi kiếp dường như biết rõ y không đủ sức thực hiện những điều
kể trên. Bởi đó, với sự thẳng thắn của một vị y sĩ biết rõ tiềm lực và khả năng
của bịnh nhân và không muốn làm cho y hy vọng những điều quá sức mình, ông
Cayce đã cho y biết rõ: "Bịnh anh chỉ có thể giảm bớt phần nào thôi, chứ
không thể dứt tuyệt." Tuy nhiên, cuộc soi kiếp không phải đã kết thúc.
Trong trường hợp này và những trường hợp khác nữa, cuộc soi
kiếp tiếp tục đưa ra cho bịnh nhân những phương pháp điều trị về phần thể chất,
để cho bịnh nhân có thể làm những cố gắng cụ thể để tự chữa bịnh lấy mình. Sự
kiên nhẫn, bền chí, can đảm và những đức tính khiêm tốn, nhân từ, khoan hậu, mà
bịnh nhân cố gắng phát triển và thâu thập được trong thời kỳ đó, sẽ đóng góp phần
nào trên phương diện tinh thần, ít nhứt là một cách gián tiếp, để sửa chữa nghiệp
quả. Như vậy, thay vì có một thái độ tiêu cực, thụ động đối với vấn đề trả quả,
những cuộc soi kiếp của ông Cayce luôn luôn khuyến khích bịnh nhân hãy có một
thái độ tích cực tranh đấu để vượt qua nỗi chướng ngại đau khổ của mình. Dưới
đây là một khía cạnh quan trọng khác của vấn đề chữa bịnh.
Trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce luôn luôn đưa ra những
điều khuyên răn các bịnh nhân tùy theo trình độ tiến hóa riêng của từng người.
Ông đưa ra những phương pháp điều trị thiên hẳn về tinh thần cho những người
không thể hiểu được hoặc chống chỏi lại những phương pháp đó. Bác sĩ Alexis
Carrel, tác giả hai quyển sách nhan đề: "Con Người, Một Vật Huyền Bí"
và "Cuộc Hành Trình Đến Thành Lourdes," cho biết rằng ở Lourdes, nhiều
ngườit sâu xa, đã được chữa khỏi ngay tại chỗ về bịnh ung thư và những chứng bịnh
nan y khác. Nếu như sự khỏi bịnh ấy quả có thật, thì chắc chắn là việc ấy không
thể xảy đến cho những người không có một đức tin và một thái độ tinh thần giống
như của những người được khỏi bịnh kể trên.
Sự nghiên cứu nhiều cuộc soi kiếp và khán bịnh của ông Cayce
chỉ rõ ràng nguồn tài liệu luôn luôn biết rõ giới hạn đức tin của bịnh nhân.
Trong nhiều trường hợp, những cuộc soi kiếp biết rằng vài bịnh nhân có thrể được
chữa khỏi bằng phương pháp dẫn dụ tinh thần. Trong những trường hợp khác cũng
cùng một chứng bịnh nhưng bịnh nhân lại không thể chữa khỏi bằng phương pháp
đó, hoặc vì do sự thiếu hiểu biết, hoặc do sự hoài nghi, hoặc vì họ quá thiên về
quan niệm vật chất. Đối với những người này, tốt hơn là hãy khuyên họ dùng
phương pháp điều trị thể xác. Người ta nhớ một câu chuyện cổ điển Ấn độ nói về
một người đệ tử của một người đạo sĩ nọ. Người đệ tử đã trải qua một giai đoạn
huấn luyện công phu để có thể chế ngự được vật chất bằng sức mạnh tinh thần. Y
là một người đệ tử ưu tú và có nhiều khả năng. Y bèn ẩn mình trong rừng sâu, và
sau mười năm tập luyện y mới trở lại gặp Tôn Sự Tôn Sư hỏi: "Con đã làm gì
trong suốt thời gian đó?" Người đệ tử đáp lại với một giọng hơi tự đắc:
"Con đã luyện tập chế ngự tư tưởng để có thể đi trên mặt nước và bây giờ
con có thể vượt qua sông như đi trên đất bằng." Vị Tôn Sư nói với một giọng
buồn rầu: "Con ơi! Con đã lãng phí thời giờ vô ích. Con há lại chẳng biết
rằng con có thể vượt qua sông mà chỉ trả có một xu cho người lái đò?"
Câu chuyện này do một dân tộc đã từng phát triển sức mạnh tâm
linh trải qua nhiều thế kỷ để lại, có một ý nghĩa sâu xa để cho chúng ta suy gẫm.
Lẽ dĩ nhiên, sự cố gắng để tự chữa bịnh cho mình bằng sức mạnh tinh thần là một
cố gắng đáng khen và nó giúp cho ta tự đào luyện tinh thần và ý chí. Khoa học
công giáo và những phong trào tôn giáo cùng một loại đã từng phổ biến trước
công chúng sự hiểu biết về những quyền năng của tư tưởng, nó là nguồn gốc của
nhiều chứng bịnh của người đời, và đồng thời cũng có thể được dùng để chữa bịnh
luôn. Tuy nhiên, người ta cần biết rằng có những chứng bịnh nguyên nhân không
phải do tư tưởng gây ra; nhiều chứng bịnh, dầu là nguyên nhân nào, có thể điều
trị bằng những phương tiện vật chất một cách hữu hiệu hơn là điều trị bằng tinh
thần.
Những quan niệm về y học của ông Cayce còn có một khía cạnh
khác: Những cuộc soi kiếp không cho là một phương pháp điều trị nào lại
"Tinh thần" hơn một phương pháp nào. Tất cả những phương pháp điều trị
đều có một nguồn gốc thiêng liêng như nhau.
Một người phụ nữ kia bị chứng đau lưng rất dữ dội. Bà muốn biết
xem nên theo cách điều trị thể xác hay tinh thần. Cuộc khán bịnh của ông Cayce
giải đáp câu hỏi đó như sau: "Bịnh trạng của bà phần lớn có thể chữa khỏi
bằng tinh thần. Nhưng bà hãy để tự nhiên. Nếu bà thấy đau nhiều, bà hãy theo
phép điều trị bằng thuốc men để đáp ứng sự nhu cầu của xác thể. Thật ra hai
phương pháp điều trị đều không khác gì nhau, vì là đều do một nguồn gốc mà ra.
Hai phương pháp ấy không phải tương phản nhau như vài người tưởng lầm."
Một ký giả ở Pittsburg bị bịnh tê thấp đã mười năm, được
khuyên nên điều trị bằng cách tắm nước nóng và dùng tử loại tuyến để làm tăng sự
lưu thông máu huyết và bài tiết chất độc trong máu. Cuộc soi kiếp nói: "Mọi
sự chữa bịnh đều do một Quyền Năng Thiên Liêng. Ai chữa khỏi bịnh cho anh? Đó
là cái Nguồn Sống sinh ra muôn loài vạn vật. Bất cứ phương tiện nào người ta
dùng để chữa bịnh, dầu cho đó là thuốc men, máy móc dụng cụ, tắm nước nóng, hay
là phương tiện nào khác, người ta cũng phải trở về cái Nguồn Sống Duy Nhứt, tức
là Thượng Đế vậy."
Chương 9 - Kích Thước Mới Của Khoa Tâm Lý
Người ta có thể học được nhiều việc bằng cách thử giải quyết
những vấn đề khó khăn. Sự giải quyết nhiều vấn đề lý thú căn cứ trên một nguyên
tắc quan trọng là sự lý luận hay suy gẫm.
Vấn đề quan trọng nhứt trong mọi vấn đề bí hiểm của cuộc đời
là sự bí mật về con người. Con người là ai? Y từ đâu đến và sẽ đi về đâu? Để giải
đáp vấn đề này, chúng ta có thể áp dụng một phương pháp khoa học giản dị như
sau: Chúng ta đưa cho một người kia sáu cái diêm quẹt và bảo y hãy sắp thành bốn
hình tam giác đều cạnh với nhau (triangles équilatéraux.) Người ấy lần mò sắp đặt
các diêm quẹt một hồi lâu... Sau cùng y đành chịu thua và bỏ cuộc vì không sao
sắp được. Bài toán đố bí hiểm này chỉ có thể giải quyết được nếu người ấy bỏ
cái ý nghĩ sắp các diêm quẹt theo hai chiều đo (chiều dài và ngang) trên một mặt
bàn bằng phẳng, mà hãy thêm vào một chiều đo thứ ba (3ème dimension), tức là
chiều sâu, và sắp thành một khối Kim Tự Tháp (Pyramide).
Vấn đề bí hiểm của đời người đại khái cũng giống như cái trò
chơi kể trên. Chúng ta chỉ cần thêm vào một bề đo thứ ba, tức là yếu tố thời
gian, và chúng ta sẽ có thể hiểu được nguồn gốc và tương lai của con người.
Người ta thường cho rằng đời người chỉ là cái kiếp sống của thể
xác, kể từ khi bắt đầu sinh ra cho đến khi chết là hết. Nhưng nếu người ta có
thể chứng minh một cách khoa học rằng con người không phải là cái thể xác vật
chất, mà cũng là một linh hồn; linh hồn ấy đã từng sống trước khi y sinh ra và
sẽ tiếp tục tồn tại sau khi y chết, thì sự khám phá đó sẽ làm đảo lộn tất cả
khoa tâm lý học hiện naỵ Điều đó chẳng khác nào như một cái ống thăm dò mà người
ta cắm xuống tận những lớp sâu trong lòng Trái Đất để tìm mỏ dầu. Khoa Tâm Lý Học
hiện đại ví như một cái lỗ sâu có năm phân để trồng một củ hành, so với một cái
giếng dầu lửa bề sâu ba ngàn thước tượng trưng cho bề đo vừa nói trên.
Trong thời gian gần đây, các nhà tâm lý học đã nghiên cứu tỉ
mỉ về cá tính của con người, và nhờ sự nghiên cứu công phu đó, người ta đã có
nhiều sự áp dụng thực tế vào các vấn đề lao động, hướng nghiệp, công tác xã hội...
Tuy thế những sự phát minh đó cũng chỉ biết một cách rất nông cạn về con người.
Nếu người ta áp dụng thuyết Luân Hồi, thì đó là một ngọn đèn
pha sáng rực soi vào những hang ngách tối tăm, sâu thẳm của vấn đề bí hiểm này.
Nhờ đó, người ta có thể nhận thấy rõ bằng cách nào được cấu tạo nên những tánh
tình, cử chỉ, thái độ, đức tánh, vận mạng cùng thân thế hiện nay của một người.
Chúng ta có thể dùng một thí dụ khác: đời người có thể ví như
một khối nước đá ngâm dưới nước; chín phần chìm xuống nước chỉ có một phần nổi
lên trên. Thuyết Luân Hồi tiết lộ cho ta thấy chín phần khối nước đá chìm dưới
mặt nước, còn khoa tâm lý học hiện nay chỉ nghiên cứu một cách vất vả mệt nhọc về
một phần nhỏ bé nổi lên trên, mà ta có thể nhìn thấy!
Những tập hồ sơ của Cayce còn đưa ra nhiều thí dụ về bề đo
"Thời gian" kể trên, và về cách mà nó giải thích cá tính hiện nay của
một người. Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce có nói về một người lính Gaulois
bị tướng La Mã Annibal bắt làm tù binh và bắt làm nô lệ chèo thuyền ở giữa biển.
Người tù binh này bị các tướng da đen ngược đãi và sau cùng, y bị một tên da
đen đánh chết. Việc này xảy ra đã từ ba kiếp về trước, nhưng lòng căm thù uất hận
về hành động tàn ác này đã ăn sâu vào tiềm thức của y trải qua 22 thế kỷ. Trong
kiếp này, y làm nghề nông nghiệp và trồng tỉa ở tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ.
Suốt cả đời, y luôn luôn có một lòng thù ghét sâu đậm đối với
dân da đen; thậm chí, y lập nên một Hội bảo vệ chủ quyền của người da trắng. Đó
là một thí dụ điển hình về việc người ta giữ nguyên vẹn cá tính từ kiếp này
sang kiếp khác. Người ta có thể tìm thấy rất nhiều trường hợp như thế trong các
tập hồ sơ Cayce.
Một nhà viết báo nó biểu lộ trong nhiều năm một tinh thần chống
Do Thái rất mãnh liệt. Cuộc soi kiếp cho biết rằng thái độ ấy được truy nguyên
ra từ một kiếp trước ở xứ Palestine, trong kiếp đó, y thuộc về giáo phái
Samaritains, phái này thường có những cuộc xung đột dữ dội với người Do Thái ở
nước láng giềng.
Một người đàn bà 38 tuổi, độc thân, đã có nhiều mối tình
duyên trong đời, nhưng không chịu kết hôn với một người nào vì bà ta có một
lòng nghi kỵ rất thâm sâu đối với đàn ông. Sự dè dặt và nghi kỵ này do bởi ở một
kiếp trước bà ta đã từng đau khổ vì bị chồng bỏ để đi tùng chinh trong trận
Thánh Chiến.
Một người phụ nữ nọ có một tinh thần tôn giáo rất rộng rãi
khoan dung, được biết rằng cô có đức tính này là nhở bởi kiếp trước có tham dự
cuộc Thánh Chiến, và đã từng sống chung với người Hồi Giáo. Trong khi tiếp xúc
với những người thuộc một tôn giáo khác hẳn, lần đầu tiên cô dã nhận thức được
rằng những người "Ngoại đạo" cũng biểu lộ những đức tính tốt như can
đảm, nhân từ, khoan hậu, và lòng sùng tín thiêng liêng. Điều này đem đến cho cô
một ấn tượng mạnh mẻ sâu xa đến nỗi nó đã làm cho cô có một ý thức rõ rệt và bền
bỉ về đức tính khoan dung đối với người thuộc tôn giáo khác hơn mình.
Trái lại, một nhà chuyên môn quảng cáo nọ có óc hoài nghi và
không có tín ngưỡng tôn giáo, kiếp trước cũng là một chiến sĩ trong trận Thánh
Chiến. Nhưng y cảm thấy có sự khác biệt giữa sự Thuyết Giáo và Hành Đạo trong số
những người mà y đã gặp, đến nỗi trong kiếp này y vẫn còn giữ một sự nghi ngờ rất
lớn đối với những sự biểu lộ tôn giáo về hình thức bên ngoài.
Những thí dụ kể trên gồm ba thái độ khác nhau: Thái độ về vấn
đề chủng tộc, đối với người khác phái và đối với vấn đề tôn giáo, mà nguyên
nhân là do bởi ở một kiếp trước. Lẽ tụ nhiên trong mỗi trường hợp, đương sự phải
gặp những hoàn cảnh địa phương thuận tiện để gây cho y sự phản ứng về các vấn đề
đó. Người căm thù dân da đen sinh ra ở miền Nam Hoa Kỳ năm 1853 là thời kỳ mà
những phong tục và truyền thống ở xứ này là những hoàn cảnh thuận tiện để gây
cho y cái ý niệm kỳ thị chủng tộc da đen.
Vấn đề ảnh hưởng của hoàn cảnh địa phương cũng được nêu ra
trong những trường hợp khác như đã kể trên, hoặc trong nhiều trường hợp tương tự.
Sự kiện rằng có nhiều người cũng ở vào những hoàn cảnh địa phương giống như
nhau, nhưng lại có sự phản ứng khác hẳn, dường như chỉ rằng sự phản ứng đó có một
nguyên nhân sâu xa hơn là do những hoàn cảnh sinh hoạt ở kiếp này.
Các nhà chữa bịnh tâm thần đều đồng thanh cho rằng những thái
độ tinh thần của con người vốn từ trong tiềm thức biểu lộ ra ngoài. Nguyên tắc
Luân Hồi chỉ nới rộng lĩnh vực tìm thức để gồm luôn cả những kinh nghiệm của những
kiếp trước. Cũng như trong nhữg trường hợp bệnh tật của xác thể, người ta đã
truy nguyên lý do của mỗi chứng bịnh ở những kiếp trước là do bởi yếu tố thời
gian. Đó là nói về những thái độ cử chỉ của con người đối với một vài vấn đề nhất
định. Những thái độ đó, cũng như những khuynh hướng, đố kỵ, ưa thích... đều gồm
lại làm thành phần cá tính của một người. Những bản năng tự tồn, bản năng sinh
sản... đều hỗn hợp một cách chặt chẽ với tất cả những điều ham muốn khác của đời
sống con người. Tuy nhiên, ngoài ra những sự nhu cầu căn bản chung của nhân loại,
còn có những điều thích thú say mê và hứng khởi đặc biệt, biểu lộ một cách khác
biệt nhau rất xa ở một số người. Thí dụ:
Trong một gia đình có năm người con, một đứa thích âm nhạc, một
đức thích máy móc, một đứa thiên về hội hoạ, một đức thích sưu tầm các loài bướm;
đứa sau chùng chơi bời du đãng và phá phách làng xóm.
Sự giải thích thông thường của khoa học tâm lý về sự khác biệt
giữa những khả năng và tính chất kể trên: Một là do sự di truyền và hai là do
những yếu tố tâm lý phân giải (psychanalyse) tùy thuộc nơi vị trí của một người
trong gia đình và những kinh nghiệm riêng mà y thâu nhập được.
Những tập hồ sơ của Cayce chứa đựng những thí dụ dưới đây về
những khuynh hướng đặc biệt của một số người, được truy nguyên ra từ nhiều kiếp
trước.
Một vị nha y sinh trưởng ở thành phố New York, mặc dầu rất
hài lòng về chức nghiệp và đời sống ở thành thị, nhưng thỉnh thoảng lại thấy muốn
sống ở ngoài đồng ruộng hoặc trên bờ sông với một khẩu súng đi săn và một cần
câu; và cắm trại một mình với một chiếc lều dựng lên giữa bãi sa mạc. Sự thích
thú sống gần với thiên nhiên này vốn không phù hợp với tâm tính của một người
quen sống ở thị thành, nhứt là gia đình của y đã từng sống ở thành thị trải qua
nhiều thế kỷ. Điều này chỉ có thể giải thích được bằng thuyết Luân Hồi. Cuộc
soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một tiền kiếp, y là một người Đan Mạch
di cư sang Bắc Mỹ trong thời kỳ khai thác thuộc địa. Y sống ở New Jersey, trong
một vùng có nhiều đầm đìa, hồ ao, sông rạch; y sống với nghề săn bắt, gài bẫy
thú rừng, và buôn bán các loại thú. Cuộc đời hoạt động chốn bụi trừng, đầm lạch,
sông ngòi, đã đem cho y một sự thích thú đặc biệt vẫn còn tồn tại đến ngày nay,
tuy rằng điều ấy còn phải lệ thuộc vào đời sống hành nghề nha sĩ của y trong kiếp
này.
Có nhiều người cảm thấy yêu mến nồng nàn một xứ hay một vùng
địa phương xa lạ. Những cuộc soi kiếp truy nguyên ra sự hấp dẫn này ở một kiếp trước
của đương sự, trong kiếp đó y đã từng trải qua một thời kỳ sung sướng và hạnh
phúc ở xứ ấy. Thí dụ: Một người đàn bà nọ kinh doanh buôn bán lớn ở vùng bờ biển
phía đông xứ Hoa Kỳ, luôn luôn vẫn có ý muốn di cư xuống ở miền Tây Nam xứ ấy.
Sau cùng bà ta di cư thật và hiện nay bà làm chủ một khách sạn lớn ở tại New
Mexicọ Cuộc soi kiếp cho biết bà đã từng sống trong hai tiền kiếp ở vùng này,
và lòng trìu mến của bà đối xử ấy vẫn còn tồn tại trong những thế kỷ trung
gian.
Có bốn người kia, một người cảm thấy yêu mến những vùng hải đảo
miền Nam Thái Bình Dương, một người muốn sống ở tiểu bang New Orleans, một người
yêu mến xứ Ấn Độ và một người lại thích ở xứ Trung Hoa. Những cuộc soi kiếp cho
biết rằng trong kiếp trước, họ đã từng sống ở các xứ ấy, và đó là lý do của sự
hấp dẫn nói trên.
Sự thích thú về một môn nghệ thuật hay một nghề nghiệp nào
cũng là do ở những kinh nghiệm trong các tiền kiếp. Một thiếu phụ kia yêu thích
đến say mê môn khiêu vũ và kịch nghệ Hy Lạp, được biết rằng đó là do kinh nghiệm
trong một kiếp trước của y ở Hy Lạp, trong thời kỳ những môn nghệ thuật này
phát triển đến cực điểm. Sự thích thú của một thanh niên nọ về hiện tượng thần
giao cách cảm được truy nguyên ra từ một kiếp trước ở châu Atlantide, trong kiếp
trước y đã dạy môn tâm lý học và chuyển di tư tưởng.
Cũng do một kinh nghiệm cũ về nghề hoa tiêu về giám đốc ngành
chuyên vận ở châu Atlantide, mà một thiếu nữ nọ cảm thấy rất thích thú về môn
lái máy bay và môn kỹ thuật hàng không trong kiếp này. Một người đàn bà nọ ham thích
làm việc công tác xã hội phụng sự các trẻ em tật nguyền khốn khổ, được cho biết
rằng kiếp trước y đã từng sống ở xứ Palestine, tại đây y chịu ảnh hưởng giáo lý
của đức Jusus và bắt đầu hiến dâng cuộc đời để săn sóc cứu chữa những kẻ tàn tật
và bịnh hoạn. Một vị kỹ sư nọ đảm nhiệm một cơ quan nghiên cứu, và đã từng làm
việc nhiều năm trong phong trào phát triển ngành kỹ thuật, kiếp trước vốn là một
người Atlante chuyên coi về ngành Quản trị Khoa học trong xứ ở châu Atlantide.
Sự tái diễn những kinh nghiệm và khả năng đặc biệt từ những
tiền kié6p, dường như càng biểu lộ rõ rệt trong cuộc đời của những nhân vật tên
tuổi. Chúng tôi không căn cứ điều này trên những cuộc soi kiếp của ông Cayce,
mà căn cứ trên tiểu sử của những nhân vật ấy.
Thí dụ như trường hợp của ông Heinrich Schliemann, nhà khảo cổ
Đức đã khám phá ra những di tích cổ của thành phố Troie bị chôn vùi dưới mặt đất,
và nhờ đó đã xác nhận tánh cách lịch sử của thiên Anh Hùng Ca
"Iliade" của Homèrẹ Ông là con của một vị mục sư nghèo, giảng đạo tại
miền Bắc nước Đức nhưng trong lúc thiếu thời ông đã say mê "Iliade",
ông nhất định học tiếng Hy Lạp và truy tầm nơi diễn tả sự tích của thiên Anh
Hùng Ca bất hủ này.
Trong ba mươi lăm năm, ông Schiemann cố gắng dành dụm một số
tiền để giúp ông thực hiện công trình khảo cổ này. Ông trở nên một nhà sinh ngữ
học ưu tú, nhưng ông lại thích nhất môn sinh ngữ Hy Lạp và tất cả những gì thuộc
về xứ ngàn năm vạn vật này. Về sau, ông dùng những cách hành văn Hy Lạp trong
khi nói chuyện và nhà chép tiểu sử của ông thuật lại rằng trong dịp làm lễ rửa
tội cho con trai ông, ông đặc quyển Anh Hùng Ca của Homère trên đầu con ông và
ngâm vang lên những câu thơ bất hủ trong đó trước khi giao nó cho vị linh mục
làm phép rửa tội! Điều này chỉ là một trong những cử chỉ lố lăng khác, nó phản ảnh
một lòng hâm mộ hâm mộ và say mê nồng nhiệt nền văn hóa cổ xưa của xứ Hy Lạp. Một
sự say mê nồng nhiệt như thế có thể hiểu được nếu chúng ta thấy rằng đó chỉ là
do ký ức của linh hồn muốn nhắc nhở và sống lại thời kỳ hạnh phúc đã qua trong
dĩ vãng.
Một thí dụ khác cũng rất lý thú là trường hợp của nhà văn
Lafcadio Hearn. Ông sinh ra trên một hòn đảo ở gần Hy Lạp, cha ông là người Ái
Nhĩ Lan, mẹ Ông là người Hy Lạp. Ông đi phiêu lưu giang hồ từ Hy Lạp sang Anh
quốc, Mỹ quốc, đảo Guadeloupe, Martinique, và sau cùng ông đã tìm thấy
"Quê hương tinh thần" của ông ở xứ Phù Tang tại đây ông cưới vợ Nhật,
đổi tên Nhật, và dạy học ở một trường Nhật. Sự hiểu biết sâu xa về tâm hồn của
người Nhật bổn, tài năng lạ lùng của ông trong sự diễn đạt cái tinh hoa của nước
Nhật cho thế giới Âu Tây và diễn đạt tư tưởng Âu Tây cho người Nhật, không làm
cho ta ngạc nhiên nếu ta thấy rằng đó chỉ là do những kinh nghiệm cũ của ông ta
trong một tiền kiếp ở Nhật Bản.
Trường hợp của ông T.E.Lawrence là một thí dụ khác nữa. Ông
ta rất đặc biệt khôn khéo trong việc tiếp xúc với người Ả Rập và đã sống chung
với họ như một người Ả Rập. Ông không hề cảm thấy thoải mái dễ chịu ở tại quê
hương xứ sở hay trong gia đình ông ở Anh quốc. Ông chán nản mọi sự học ở nhà
trường, trừ ra lớp học lịch sử cuộc Thánh Chiến (Croisades), và việc nghiên cứu
các tòa lâu đài cùng thành lũy thời Trung Cổ.
Sự thành công đặc biệt của ông trong vai trò tướng soái chỉ
huy quân đội Ả Rập có thể hiểu được như là kết quả của một giai đoạn phiêu lưu ở
kiếp trước hồi thời Trung Cổ, trong kiếp đó chính ông ta là người Ả Rập và là một
chiến thuật gia, nhưng không đạt được mục đích trước khi ông ta từ trần.
Những khuynh hướng đặc biệt kể trên không phải chỉ có những
nhân vật tên tuổi của lịch sử mà thôi; mỗi người đều có thể nhận thấy ít nhiều
khuynh hướng đó ở chính những bạn bè thân quyến của mình.
Những nét riêng hay đặc điểm về cá tính, cũng như những thích
thú và cử chỉ cùng thái độ đặc biệt của một người là những yếu tố quan trọng trong
việc phân tách tâm lý, và những tập hồ sơ của Cayce đã nêu ra những trường hợp
vô cùng lý thú về sự truy nguyên ra những kiếp trước.
Bà vợ của một nhà triệu phú nọ Ở miền Tây Hoa Kỳ có một tính
chất rất độc tài và chuyên chế. Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân là vì bởi kiếp
trước, y đã từng làm giáo sư ở tiểu bang Ohio, và trong những kiếp trước nữa, y
đã từng nắm giữ những chức vụ cao ở Palestine và ở Ẩn Độ.
Một thanh niên nọ từ thuở nhỏ đã tỏ ra có tính rất hay tranh
luận đôi co, và có thể lý luận mọi sự một cách rất hùng hồn và xác đáng. Nguyên
nhân là trong một kiếp trước, y đã từng làm một luật gia và một luật gia và một
kiếp trước nữa, y đã làm quan Tòa ở xứ Ba Tư.
Một người đàn bà nọ có khuynh hướng trầm lặng và thần bí.
Trong kiếp trước, bà ấy đã từng cầm đầu một tu viện kín, vào hồi đầu thế kỷ mười
chín.
Một thanh niên nọ con nhà giàu có lớn, nhưng lại có tật chè
chén say sưa quá độ đến nỗi gây sự thất vọng và đau khổ cho một gia đình trưởng
giả. Thói say sưa này được truy nguyên ra do sự chơi bời phóng túng trong kiếp
trước, hồi thời kỳ thiên hạ đổ xô nhau đi tìm vàng ở California. Người ta thấy
hằng trăm trường hợp tương tự trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce.
Khoa tâm lý học hiện đại cho rằng sự khác biệt giữa những người
nhân loại được định đoạt trước hết bởi sự di truyền của cha mẹ và sau đó bởi ảnh
hưởng của hoàn cảnh chung quanh. Tuy nhiên, theo quan niệm về thuyết Luân Hồi
thì chính sự di truyền và ảnh hưởng của hoàn cảnh cũng là những kết quả báo ứng
của những nguyên nhân gây ra từ những kiếp trước, và bởi đó mọi đức tánh của
linh hồn đều là do cái công phu đào tạo của từng cá nhân chứ không phải do cha
mẹ truyền lại.
Đức Phật có nói: "Hành động là kết quả của tư tưởng."
Những gì mà chúng ta làm hiện nay là kết quả của những điều ta đã suy ngẫm từ
trước. Trong Phật giáo, thuyết Luân Hồi là một giáo lý căn bản; đức Phật dạy rằng
những đức tính của con người bây giờ là kết quả của những tư tưởng và hành động
của y trong những kiếp trước.
Có nhiều người, tuy chấp nhận Nhân Quả, nhưng lại quan niệm
luật ấy dưới khía cạnh trừng phạt và đau khổ. Ta nên nhớ rằng danh từ Karma chỉ
có nghĩa là hành động, và đó là một danh từ trung lập. Mọi sự vật trong vũ trụ
đều có hai phương diện Âm và Dương, và Nghiệp Quả (Karma) cũng không ngoài cái
thông lệ đó. Lẽ tất nhiên, một hành động có thể tốt hay xấu, vị kỷ hay vị thạ Nếu
cách hành động cư xử của một người là tốt, thì không có gì ngăn trở y cứ tiếp tục
làm những điều phải và tốt lành do cái đà tiến hoá tự nhiên của con người. Điều
đó có thể gọi là Nguyên Tắc Liên Tục của nghiệp quả. Trái lại, nếu một người có
những hành động xấu xa hung dữ độc ác, thì nghiệp quả đó phải được sửa chữa bằng
luật Quả Báo; điều này gọi là Nguyên Tắc Thừa Trừ.
Do Nguyên Tắc Thừa Trừ, tức là do bởi mãnh lực tạo thế quân
bình của Luật Nhân Quả, chúng ta được dìu dắt trở lại con đường chính, là con
đường tự tu tiến và cải thiện lấy mình. Còn do Nguyên Tắc Liên Tục, chúng ta cứ
từ từ tiến bước một cách đều đặn, không gián đoạn trên con đường chính, tức là
con đường Tiến hóa đưa đến mục đích giải thoát vậy.
Chương 10 - Những Hạng Người Khác Nhau
Trong sự tiếp xúc hằng ngày với những người chung quanh,
chúng ta có thể phân biệt được một vài loại mà chúng ta sắp thành hạng theo một
hệ thống riêng. Có hạng người tánh tình cởi mở, xã giao lịch thiệp; có hạng người
dè dặt kín đáo, tánh tình trầm lặng; có hạng người ích kỷ, hạng người vị tha...
Nhiều nhà tâm lý học đi đến kết luận rằng con người có thể sắp
thành hạng, và lập một căn bản khoa học cho việc sắp hạng ấy. Sự phân hạng
thông thường nhất là cuả Carl Jung, ông này phân loài người ra làm hai hạng
chính: Hạng người có tâm hồn khép chặt (intraverti); và hạng người có tâm hồn cởi
mở (extraverti). Hạng người "Khép chặt" tức là hạng người hướng sự
chú ý của họ vào bên trong, nghĩa là vào chính bản thân mình; còn hạng người
"Cởi mở" tức là hạng người hướng sự chú ý của họ ra thế giới bên
ngoài.
Tuy nhiên, các Đạo gia cho rằng Carl Jung và những nhà tâm lý
học khác đều không đưa ra những giải thích mỹ mãn và đích đáng về lý do nào đã
khiến cho một người sinh ra đời lại có một tâm hồn khép chặt, và một người khác
sinh ra lại có một tâm hồn cởi mở. Ông Carl Jung và những nhà bác học khác cho
rằng hai trạng thái tâm lý căn bản này là do những nguyên nhân về sinh lý. Tuy
nhiên quan niệm nhà Đạo gia đối với vấn đề này, cũng như các vấn đề khác, là những
nguyên nhân về sinh lý kể trên chỉ là phụ thuộc; còn các sinh hoạt cùng thái độ
cử chỉ của một người trong một kiếp trước mới là nguyên nhân chính.
Những tập hồ sơ Cayce có ghi chép rõ ràng nhiều trường hợp hướng
nội, tức là của những tâm hồn khép chặt, nguyên nhân do bởi những kinh nghiệm từ
kiếp trước. Xét kỹ những trường hợp này, người ta thấy rằng nguyên tắc liên tục
của luật Nhân Quả hành động một cách rõ ràng, và chuyển từ kiếp này sang kiếp
khác một vài thái độ hay trạng thái tâm lý của con người một cách liên tục
không gián đoạn. Dưới đây là một trường hợp: Một thiếu nữ 21 tuổi, sinh viên,
có khiếu về âm nhạc, nhưng có tánh e lệ rụt rè một cách quá đáng. Mặc dầu cô có
dung mạo đẹp đẽ, nhưng cô khó tìm bạn và rất buồn mà thấy mình không được nhận
vào Câu Lạc Bộ của trường. Người ta không biết gì về những hoàn cảnh gia đình của
cô trước khi cô vào trường, vì có thể đó là nguyên nhân gây cho cô cái tánh rụt
rè nhút nhát bây giờ. Tuy nhiên, cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng điều
này có nguyên nhân ở một kiếp trước. Hồi đó, cô ta là một mệnh phụ dưới triều
đình nước Pháp, có tài hoa, sắc đẹp và rất lịch thiệp. Nhưng chồng bà vốn là một
người ích kỷ, không muốn cho bà xã giao khéo léo và lịch sự với tất cả mọi người.
Bởi đó, ông ta ngăn trở mọi sự giao tế xã hội của vợ bằng một sự áp chế lạnh
lùng và khắc nghiệt, thậm chí có khi ông ta đánh đập vợ bằng roi vọt. Điều này
làm cho bà vợ e dè sợ sệt, và sự sợ sệt đó hãy còn in sâu vào tiềm thức cho đến
bây giờ.
Sau đây là một trường hợp cũng có sự áp chế tương tự, tuy rằng
trong những hoàn cảnh khác hẳn. Ông Cayce soi kiếp cho một thah niên 28 tuổi,
anh chàng này hiếu học và tâm tính "Khép chặt." Ông Cayce cho biết
trong một kiếp trước, y bị khủng bố tàn nhẫn trong những vụ xử án các tay phù
thủy ở Salem, thuộc tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Kinh nghiệm đó đã bộc lộ bằng
hai cách trong tâm tính của y bây giờ. Trước hết y có sự căm hờn đối với mọi
hình thức áp chế; và sau đó y có tánh rất hiếu học, nhưng lại muốn giữ những điều
hiểu biết riêng cho mình, không muốn thố lộ cho ai.
Chúng ta đã thấy rằng cho một con chó hay con mèo mà bị đánh
đập tàn nhẫn, chúng cũng biết tự vệ và có lòng đố kỵ với loài người. Lẽ tự
nhiên, đối với người thanh niên này, trong tiềm thức của y vẫn còn in sâu một bản
năng tự vệ, nó khiến cho y hãy giữ gìn đề phòng những người chung quanh, không
chịu tiếp xúc với họ và không chịu thổ lộ với ai những điều hiểu biết của mình.
Những tập hồ sơ Cayce còn ghi nhiều trường hợp giống như trên về những vụ án
phù thủy ở Salem, mà kết quả là làm cho đương sự có một khái độ khép nép, ẩn độn,
dè dặt cũng y như thế. Một vị bác sĩ có tính rất dè dặt kín đáo, không thích
giao du, được biết nguyên nhân là vì trong một kiếp trước, y đã giữ giới tịnh
khẩu theo kỷ luật của phái Quaker. Một vị giám đốc Thương Vụ Ở New York cũng có
tính rụt rè, thiếu xã giao lịch thiệp. Trong một kiếp trước, ông ta là một nhà
thám hiểm, sống một cuộc đời cô độc và tự lập ở miền Nam Phi Châu. Một cô nữ
sinh nhút nhát và tự ti mặc cảm, được biết kiếp trước cô ta là một người thổ
dân da đỏ dưới thời đô hộ của người thực dân da trắng ở Bắc Mỹ Châu và hãy còn
giữ thái độ nghi ngờ và giữ mình đối với kẻ khác.
Theo sự chứng minh của những trường hợp kể trên và nhiều trường
hợp khác trong tập hồ sơ Cayce, thì tính rụt rè ẩn độn vẫn kéo dài một cách
liên tục từ kiếp này sang kiếp khác, bắt đầu từ kinh nghiệm đầu tiên khiến cho
đương sự có thái độ đó. Nguyên tắc liên tục này cũng áp dụng y như trong trường
hợp những người có tánh tình cởi mở. Đây là trường hợp một người đàn bà ngoài
ba mươi tuổi, đã hai lần ly dị, có một tâm hồn cởi mở và vẫn còn nghĩ đến một
cuộc tái giá lần thứ bạ Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng cái thái độ hồn
nhiên, yêu đời đó được truy nguyên từ hai kiếp về trước: Trong một kiếp, cô làm
huấn luyện viên tại một khiêu vũ trường hồi thời kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ;
trong một kiếp trước nữa dưới triều đình vua nước Pháp, cô là một bà ái phi của
vua Louis thứ mười lăm. Trong kiếp đó, cô đã phát triển được những khả năng
khôn khéo, lịch thiệp và quyến rũ, làm cho người người đều thương mến, từ ông
vua cho đến chị bếp trong cung cấm. Trong kiếp làm huấn luyện viên khiêu vũ, cô
cũng đã xử dụng và phát triển thêm những khả năng trên đây.
Đây là một thí dụ lý thú khác nữa: Một nhà làm trò ảo thuật ở
New York có một sức hấp dẫn rất mạnh, xã giao lịch thiệp, và đặc biệt có tài
hài hước, được biết rằng những khả năng trên đây truy nguyên từ những kinh nghiệm
trong hai kiếp trước. Cuộc soi kiếp cho biết trong một kiếp trước, y là một
trong những người khai thác thuộc địa đầu tiên đến vùng Mohawk Valley ở Bắc Mỹ.
Những đức tính mà y đã phát triển trong kiếp đó và một kiếp trước nữa, đã giúp
cho y có cái khả năng hấp dẫn và chỉ huy kẻ khác trong kiếp này. Sự khôn khéo lịch
thiệp và tài lãnh đạo của y được phát triển là do thời kỳ tranh đấu cho lý tưởng
ở Bắc Mỹ hồi thuở ban đầu. Sự nhanh trí khôn và tinh thần hài hước của y nảy
sinh ra từ một kiếp làm hề dưới triều vua Henri VIII ở Anh quốc.
Nói tóm lại, tất cả những trường hợp của những người có tâm hồn
cởi mở và xã giao lịch thiệp dường như kết quả của những hoạt động xã hội trong
những kiếp trước đó. Trong những tập hồ sơ của Cayce, có nhiều trường hợp thành
công hoặc thất bại trong sự giao tế và sống hòa bình với hoàn cảnh xã hội bên
ngoài. Một trường hợp là của một người đàn bà có tính chất cởi mở, hoạt động và
vị thạ Trước hết, cô có tham vọng trở nên một nữ tài tử, nhưng hoàn cảnh gia
đình và một thể xác lùn thấp không làm cho được như y nguyện, cô bèn xoay qua vấn
đề kinh doanh. Cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước trong thời kỳ Cách Mạng ở Bắc
Mỹ, cô đã hưởng thụ rất nhiều, có địa vị xã hội cao, sống một cuộc đời xa hoa lộng
lẫy, nhưng thiếu lương thiện và khinh thường đạo lý. Khả năng lôi cuốn hấp dẫn
kẻ khác, tinh thần hài hước và khoa ngôn ngữ của cô là do từ kiếp đó mà có;
nhưng vì cô đã xử dụng khả năng ấy một cách thiếu đạo đức nên kiếp này bị thất
bại trên trường đời.
Những trường hợp kể trên chỉ cho ta thấy rằng vấn đề nghề
nghiệp vẫn đi đôi với vấn đề đạo đức tâm linh. Người ta thường thấy, cũng như
trong trường hợp này rằng sự thất bại về nghề nghiệp, lý do không phải vì thiếu
khả năng, mà vì thiếu tinh thần đạo đức; điều này không thể sửa chữa nếu tham vọng
về nghề nghiệp của đương sự được thỏa mãn một cách êm đẹp, tốt lành. Cuộc soi
kiếp khuyên người thiếu phụ này, lúc ấy mới có ba mươi hai tuổi, hãy hành nghề
tài tử hoặc săn sóc trẻ em thiếu nhi hay cô nhi nói tóm lại, cô phải dùng những
khả năng của mìn vào những mục đích xây dựng và vị tha.
Đây là một trường hợp khác của một người đàn bà, bốn mươi
chín tuổi, làm thư ký ở Hoa Thịnh Đốn, vì trong kiếp trước đã lạm dụng những đức
tính lịch thiệp xã giao của mình, nên phải chịu những điều kiện tâm lý khắc
nghiệt để sửa đổi trong kiếp này. Trong những bức thơ, cô cho biết rằng trong bất
cứ mọi giới mà cô cố gắng để tiếp xúc, cô đều cảm thấy rằng không được mọi người
hoàn nghinh. Có lẽ đó là vì hồi thuở nhỏ, cô thường bị những người anh và chị
trong gia đình ruồng bỏ, nên vẫn còn mang nặng cảm giác ấy kh ra tiếp xúc với đời.
Cô viết thơ như sau: "Tôi lớn lên với một sự mặc cảm sợ sệt luôn luôn ám ảnh
tôi. Khi tôi đi chơi với một nhóm bạn bè, tôi luôn luôn cảm thấy rằng sự có mặt
của tôi không cần thiết, và tôi tự hỏi rằng tôi phải nói gì và phải làm gì. Tôi
muốn đi sâu hơn vào các vấn đề, nhưng không biết phải làm sao. Tôi luôn luôn có
cảm tưởng rằng tôi phải cố gắng làm nhiều hơn kẻ khác, để làm cho họ vui lòng.
Bởi đó, tôi hy sinh sức khỏe và thời giờ của tôi để làm việc gì cho một người
nào đó. Tôi muốn rằng người ta cần dùng đến tôi."
Kế đó, cô thuật lại rằng đã bị ba lần thất vọng vì tình,
trong đó có hai lần người yêu bỏ đi cưới vợ khác. Cuộc soi kiếp cho biết người
đàn bà này trong kiếp trước là một trong những người khai phá thuộc địa đầu
tiên ở tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Y đối xử với người khác một cách vui vẻ, lễ độ,
nhưng chỉ vì mục đích ích kỷ, trục lợi. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này
tuy được thỏa mãn về sự thành công của mình, nhưng đã đem lại sự thất vọng cho
nhiều người. Những người mà y lợi dụng trước kia, ngày nay trở lại gâu những sự
lo âu phiền muộn cho y trong kiếp này. Lợi dụng kẻ kác làm cái đà tiến thân cho
mình, tức là tạo nên nghiệp quả xấ mà ngày nay y phải trả." Định luật vũ
trụ rất mực công bình: Nó trả lại một cách đúng đắn những gì của ta cho ra.
Cũng như một cái gương phản chiếu, những điều kiện sinh hoạt của người đàn bà
này phản ảnh những gì y đã gây ra trong cuộc đời kẻ khác. Thật ra, trong kiếp
trước cô không mong muốn sự họp bạn với kẻ khác, trừ ra khi nào cô có thể lợi dụng
họ. Trong kiếp này, từ thuở nhỏ sống trong gia đình, cô đã bị ngược đãi, làm cô
cảm thấy bị ruồng bỏ. Bởi đó cô cảm thấy cuộc đời bấp bệnh và tâm hồn y trở nên
khép chặt cho đến lúc trưởng thành cũng vẫn còn. Cô có một dung nhan khá đẹp và
những đức tính đầy đủ để có thể hấp dẫn nhiều người, nhưng mặc dầu cô tưởng rằng
được mọi người yêu mến, sau cùng cô đã bị thất vọng. Cô nhìn nhận rằng cái cảm
giác bị ruồng bỏ và tâm hồn khép chặt của cô đã làm cho cô thay đổi thái độ và
cố gắng giúp đỡ kẻ khác để được mọi người yêu mến, và được mọi người cần dùng đến
mình. Và đó chính là cách hành động sửa đổi tốt lành của luật Nhân Quả.
Sự xã giao khôn khéo mà cô đã lạm dụng do lòng ích kỷ và thiếu
thành thật trong kiếp trước, đã đem đến cho cô sự khó khăn trở ngại hiện nay,
mà cô chỉ có thể vượt qua được bằng những việc làm vị tha, với một tinh thần
thành thật giúp đỡ người khác. Sự lợi dụng lường gạt kẻ khác dường như là một
thói xấu thông thường, và thuộc về loại quả báo dội ngược trên bình diện tâm
lý. Về điểm này, dưới đây là một đoạn trong cuộc soi kiếp của ông Cayce mà ông
đã thốt ra với một giọng không úp mở:
"Linh hồn này thường bị kẻ khác làm cho thất vọng. Hãy
nghe đây cái định luật căn bản và bất diệt này: Ai gieo giống nào có ngày sẽ gặt
giống nấy. Kiếp trước, cô đã phỉnh lừa gạt gẫm kẻ khác. Ngày nay, chính cô bị kẻ
khác gạt gẫm phỉnh lừa, làm cho cô bị thất vọng để cho cô học bài học kiên nhẫn,
là đức tính đẹp đẽ nhất trong tất cả mọi đức tính."
Nói chung, luật Nhân Quả luôn luôn hành động theo nguyên tắc
giáo dục, sửa đổi, cải tiến, và lập lại thế quân bình trong tâm tính của con
người. Mục đích rốt ráo là làm cho người đời sẽ quay đầu hướng thiện, và cứu
cánh sẽ trở nên trọn lành.
Phần 3:
Chương 11 - Quả Báo Tâm Lý
Chúng ta đã thấy bằng cách nào tánh kiêu căng một thói xấu
trên địa hạt tinh thần có thể gây nên quả báo cụ thể trên địa hạt vật chất dưới
dạng những bịnh tật khốn khó. Những tập hồ sơ Cayce cũng chứa đựng nhiều trường
hợp mà những tội lỗi trên địa hạt tinh thần gây nên quả báo thuộc về tâm lý;
trong số đó có hai trường hợp đáng kể về quả báo lạc loài cô đơn, mà nguyên
nhân là tội bất khoan dung.
Trường hợp thứ nhất là của một vị nữ tu trong một tu viện
Pháp hồi thời vua Louis mười bốn. Vị nữ tu này rất nghiêm khắc, lạnh lùng và
thiếu đức bao dung đối với những sự lầm lạc yếu đuối của người đời, hiểu Thánh
Kinh một cách quá chặt chịa, gò bó từng chữ từng cầu, và khinh bỉ những người
nào vi phạm những lời răn dạy trong Thánh Kinh. Hậu quả của thái độ khắc nghiệt
đó biểu lộ trước hết trong kiếp này bằng một chứng bịnh đau hạch, dây dưa không
dứt, làm cho bịnh nhân bị hoại huyết quá nhiều trong lúc có kinh nguyệ. Chứng bịnh
này làm cho cô không thể đi học đều đặn, mỗi tháng nằm liệt giường hết hai tuần
lễ, làm cho cô trở nên nhút nhát, thích sống cô đơn, và tránh xa các bạn bè đồng
lứa tuổi. Những điều này có ảnh hưởng đến cá tính của cô về mọi mặt.
Về sau những chứng bịnh kể trên đã lần lần giảm bớt. Nhờ có một
thân hình đẹp đẽ, cân đối, cô làm nghề kiểu mẫu ở New York và lập gia đình. Tuy
nhiên, cuộc tình duyên của cô không có hạnh phúc. Vợ chồng không hợp ý tâm đầu:
Người chồng thì lạnh lùng và khắc khổ, còn cô thì lại khao khát sự yêu đương.
Trận Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, người chồng phải vượt biển tùng chinh. Từ đó,
cô bắt đầu sống một thời kỳ độc thân, làm cho cô buồn không thể chịu nổi cảnh
đơn chiếc, nên phải dọn vào ở trong một trại nghỉ mát. Tại đây, cô bắt đầu uống
rượu và sống một cuộc đời bê thạ Lúc đầu cô cảm thấy rằng uống một hai ly rượu
giúp cô thoát khỏi sự ám ảnh nặng nề của cơn sầu khổ. Nhưng một khi đã bước vào
con đường ấy rồi, cô không thể ngưng lại đượ nữa; càng ngày càng uống rượu nhiều
thêm. Có khi cô uống luôn ngày đêm không dứt, trong ba tuần liên tiếp như vậy,
và ngủ với bất cứ người nào, lính thủy, lính tập hay phi công, tùy theo lúc cao
hứng. Khi cô say rượu thì mất cả mọi sự dè dặt trong cử chỉ, và bất chấp cả áo
quần. Cô đi tiểu tiện và đại tiện ngay ở giữa sân nhà chỉ khoác một cái áo
choàng để hở, và nếu người ta không ngăn cản thì cô cứ điềm nhiên khỏa thân đi
thẳng vào phòng khách lữ quán đang ở trọ. Sau cùng, sức khỏe của cô bắt đầu suy
sụp dưới ảnh hưởng chất men rượu nồng. Hai bàn tay bắt đầu run đến một mực mà
cô không thể cầm viết ký tên vào những ngân phiếu để lãnh tiền của chồng gởi về.
Trong những lúc tỉnh táo và đầy đủ trí khôn,cô quyết định rời khỏi trại nghỉ
mát trung tâm quy tựu hằng nửa chục những căn cứ hải quân và đồn trại ở gần
bên. Những bức thư cuối cùng cho biết rằng nay cô làm thơ ký với ít nhiều trách
nhiệm; nhưng về sau cô vẫn tiếp tục chè chén bê tha, và sau cùng đã ly dị chồng.
Dường như sự trụy lạc của cô trước hết là do bởi thần kinh quá căng thẳng, mà điều
này lại phát sinh từ chứng bịnh đau hạch mà ra. (Ông Cayce hay nhấn mạnh rằng
các bộ phận hạch tủy trong thân người thường là những phương tiện biểu lộ của
luật quả báo). Chứng bịnh này lại là cái hậu quả trực tiếp của những hành vi kết
án khắc nghiệt của cô đối với kẻ khác và sự thiếu lòng nhân từ của cô ở kiếp
trước. Những sự lầm lạc yếu đuối của kẻ khác, mà trước kia cô lên án một cách
khắt khe, nghiệt ngã, ngày nay đã trở nên những sự lầm lạc yếu đuối của chính
mình. Bằng cách trả quả báo như thế, cô mới hiểu được rằng sự lầm lạc tội lỗi của
người đời là đáng thương, và họ là những người mà ta phải thông cảm và giúp đỡ
thay vì lên án và chê bai. Cũng như những kẻ chế nhạo, những người chỉ trích
chê bai kẻ khác phải chịu nhận lãnh cái số phận của những kẻ mà họ đã lên án.
Trường hợp thứ nhì là của một người đàn bà có thói kiêu căng
và thành kiến trong hai kiếp trước. Trong một kiếp vào thời kỳ của đấng Christ
tại Palestine, cô là vợ của một vị giáo sĩ Do Thái. Với địa vị xã hội này, cô
đã tỏ ra khắc nghiệt và khinh bỉ những người thanh niên phóng đãng, tự do, vô
tôn giáo. Thời gian trôi qua cũng không làm phai mờ và giảm bớt lòng kiêu căng
và tự phụ của cộ Trong kiếp thứ nhì, cô tái sinh ở Salem, tiểu bang
Massachusetts, Hoa Kỳ, nhưng vẫn không chừa thói khắc nghiệt và lên án kẻ khác,
mà dường như cô càng trở nên khó khăn nghiệt ngã hơn! Cuộc soi kiếp cho biết rằng:
Linh hồn này đã gặp phải những người rất khó tính trong kiếp hiện tại, những
người khắc khe, soi mói và saün sàng lên án kẻ khác. Trước kia linh hồn này đã
gây nhiều đau khổ cho kẻ khác. Khi người ta nhận chìm một vài người xuống nước
trong vụ xử án những người phù thủy, cô chứng kiến việc ấy và vỗ tay hoan
nghinh. Khi những người khác bị đánh bằng roi vọt, cô cũng biểu đồng tình. Bởi
vậy, linh hồn này thường nhớ lại những sự hành phạt đau khổ của những thời kỳ
đó trong những khi cô bị loạn trí. Hiện thời cô bị chứng nội thương trong mạch
máu và tủy xương sống, do bởi thiếu sự điều hành giữa bộ thần kinh giao cảm và
bộ Óc, chứng bịnh này là cho cô có những thời kỳ "Phản ứng thể xác."
Sự phản ứng thể xác này là một chứng bịnh thần kinh mà đương sự bị đau từ năm
39 tuổi, và những cơn khủng hoảng thường tái phát trải qua 14 năm kế đó. Cô
không có gia đình; nhà ở khu sang trọng tại New York, và sự kiện rằng cô không
có làm nghề nghiệp gì dường như chứng tỏ rằng cô có phương tiện và tài sản. Người
ta có thể cho rằng sự Ở không, vô sự có thể là một yếu tố quan trọng gây nên những
cơn khủng hoảng tinh thần. Nhưng đó chỉ là một nguyên nhân tạm bợ bên ngoài, có
tính cách nhất thời mà thôi, chứ không phải nguyên nhân sâu xạ Trong tận thâm
tâm của người đàn bà này, có một lòng khắt khe nghiệt ngã đối với nhân loại, một
sự thản nhiên lạnh lùng trước những điều nguyện vọng và đau khổ của người đời.
Sự khắc nghiệt, bất khoan dung của cô đã làm cho nhiều người thất vọng đau khổ
trong những kiếp trước: Bởi vậy, thật là công bình mà thấy cô trải qua kinh
nghiệm thất vọng đau đớn trong kiếp này.
Người ta có thể tự hỏi rằng tại sao người đàn bà này không bị
trả quả báo về sự khắc nghiệt của cô hồi thời ở xứ Palestine, trong kiếp đầu
thai ở Salem. Câu hỏi này có thể giải đáp bằng hai cách khác nhau. Trước hết,
kiếp đầu thai ở Salem có lẽ có một mục đích khác hơn là sửa chữa tánh khắc nghiệt
của cộ Bởi đó, tánh khó khăn này đã bành trướng thêm trong khi cô theo đuổi một
công việc quan trọng khác ở kiếp nói trên. Lẽ thứ hai là thái độ khắc nghiệt của
cô ở Palestine có thể chưa rõ rệt lắm, và chưa biểu lộ bằng những hành động gây
tổn thương cho kẻ khác. Đó chỉ là tánh bất khoan dung lúc mới đầu, chưa đủ mạnh
để có thể gây nên một nghiệp quả lớn lao. Ngoài ra, mọi việc xảy ra trong đời
cô là một sự thử thách. Trong kiếp sống ở Salem, cô có thể là một người khoan
dung hay khắc nghiệt, tùy ý cô chọn lựa con đường tâm tính của mình. Nhưng cô
đã thất bại trước sự thử thách đó; cô càng tăng cường thêm tánh khắc nghiệt đã
có ở Palestine thay vì sửa chữa lại, và bởi đó cô tạo nên quả báo mà cô phải trả
trong kiếp này.
Trong những thói xấu đồng một loại với tánh bất khoan dung và
nghiệt ngã, có tánh hay chỉ trích. Trường hợp sau đây là một thí dụ lý thú về
quả báo gây nên bởi tánh hay chỉ trích. Đó là một người thanh niên 27 tuổi, làm
thiếu úy trong quân đội, có tánh tự ti mặc cảm, và luôn luôn nghĩ rằng mình bất
lực, không làm nên trò trống gì. Chúng tôi không được biết những lý do nào làm
trở ngại sự phát triển cá tính của y thuở thiếu thời. Có thể rằng y đã có một
người cha hay người mẹ có thói hay công kích một cách vô lý; hoặc y có một thân
hình dị dạng, làm cho bè bạn trong lớp chế diễu nhạo báng. Chúng tôi đưa ra những
sự phỏng đoán trên đây là vì căn cứ vào cái quả báo hiện thời của đương sự, vì
trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói: "Ai giống nào sẽ gặt giống nấy. Vì anh
đã chỉ trích kẻ khác, nên ngày nay anh phải bị chỉ trích lại."
Cuộc soi kiếp cho biết rằng người thanh niên ấy trong kiếp
trước là một nhà phê bình nghệ thuật, thường có thói quen chỉ trích một cách gắt
gao, cay đắng, nghiệt ngã, mọi nghệ phẩm mà y không vừa lòng. Vì trong quá khứ
y đã gieo sự ngờ vực trong lòng kẻ khác, làm cho họ mất tin tưởng về khả năng của
chính mình, thì ngày nay đến lượt y phải bị cái quả báo tương đương là thói tự
ti mặc cảm.
Chúng ta thấy ở đây một khía cạnh mới của Luật Nhân Quả vô
cùng phức tạp, một khía cạnh rất quan trọng về mặt tinh thần, đáng để cho ta
suy gẫm. Tự nhiên những nhà phê bình chuyên môn chỉ gồm một số rất ít, nhưng
trên Trái Đất hiện nay người ta đếm có gần hai tỷ rưỡi những nhà phê bình tài tử,
tay ngang, nghĩa là không chuyên nghiệp. Có lẽ không một nghề nghiệp nào trên
thế gian có nhiều tay hành nghề tài tử như nghề này, họ phê bình và chỉ trích
thiên hạ một cách say mê thỏa thích, kể từ ngày họ mới tập nói cho đến ngày mà
Thần Chết khóa miệng họ lại dưới nấm mồ! Nghề này không cần bỏ vốn, và dễ làm
hơn ăn cơm! Ngoài ra, nó còn khác hẳn với mọi thứ tiêu khiển của người đời, đó
là một trò chơi mà người ta có thể thực hành ở ngoài đường hoặc trong nhà, suốt
cả năm này qua tháng nọ, mà chỉ cần dùng một khí cụ duy nhất, là một cặp lưỡi sắc
bén! Chỉ cần có hai hay ba người tụ họp lại, là cái trò chơi phê bình, chỉ
trích này bắt đầu!
Tuy nhiên, mặc dầu sự chỉ trích là môt trò tiêu khiển không tốn
kém, nhưng nó có thể bắt buộc ta trả một cái giá rất đắt một ngày về sau. Nguồn
tài liệu (đó là danh từ mà ông Cayce dùng để ám chỉ cái quyền năng của ông) thấy
rõ sự hành động của luật Nhân Quả trải qua giòng thời gian vô tận, thường đưa
ra những lời cảnh cáo nghiêm khắc và rõ ràng cho những người nào có cái tật
này. Thí dụ sau đây, trong hằng trăm những thí dụ khác, là một bằng chứng hiển
nhiên để cho ta dùng làm tài liệu suy gẫm:
"Chúng tôi thấy linh hồn này thường tỏ ra quá nghiêm khắc
trong sự chỉ trích kẻ đồng loại. Phải tốp bớt lại, vì những gì mà ta chỉ trích ở
kẻ khác, sẽ đến với ta dưới một hình thức nào đó."
Đó là một lời tuyên bố rõ ràng về luật quả báo, theo đó một
nguyên nhân gây ra trên địa hạt tâm lý sẽ mang đến một hậu quả tâm lý tương
đương. Điều này nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những lời răn dạy trong Kinh
Thánh Gia Tộ Đức Jesus có dạy rằng: "Ta nói cho các ngươi biết, mỗi lời
nói vô ích mà mỗi người thốt ra, họ sẽ phải trả lời trong ngày Phán Xét cuối
cùng," và kế đó là những lời răn: "Không phải những gì chui vào lỗ miệng
của một người, nó làm cho y bị Ô nhiễm, nhơ bợn, mà là những gì từ trong lỗ miệng
của y chui ra!" "Ngươi chớ lên án nếu ngươi không muốn bị kẻ khác lên
án. Vì ngươi lên án kẻ khác như thế nào, thì đến phiên ngươi sẽ bị lên án cũng
y như thế đó!"
Lời răn trên đây, đối chiếu với luật quả báo mà chúng ta phải
thấy, có một ý nghĩa hùng hồn, mạnh mẽ và hợp lý trên phương diện thực tế mà
người ta chớ khá coi thường. Về những trường hợp kể trên, chúng ta nên nhớ rằng
chính cái nguyên động lực, và mục đích của mỗi hành động mới là cái sức chuyển
vận luật Nhân Quả. Không phải nghề phê bình văn nghệ nó làm cho người thanh
niên kia bị sa đọa trong kiếp trước, mà chính là cái thái độ bên trong của y và
sự ngờ vực mà y đã gieo trong lòng kể khác về tài năng của họ, trong khi y hành
nghề một cách cẩu thả. Người ta thấy một tình trạng tương tự khi người lính La
Mã ngược đãi những tín đồ đạo Gia Tô, như đã kể ở Phần 5. Nghiệp của y gây ra
không phải là vì y thừa hành chức vụ của người lính gác, mà do bởi hành động
tàn ác của y đối với những người không sức tự vệ đặt dưới quyền sinh sát của ỵ Ở
đây cũng như mọi trường hợp, chính cái tinh thần bên trong mỗi hành động mới là
cái nguyên động lực tạo nên nghiệp quả.
Trước đây, chúng ta thấy rằng những khuynh hướng độc tài
chuyên chế nguyên nhân là do những kinh nghiệm chỉ huy ở kiếp trước. Khả năng
lãnh đạo là một đức tính tốt, nhưng nó thường biến chứng thành thói chuyên chế
độc tài. Trong lịch sử, người ta thấy những người có chức vụ cao, nắm quyền thế
trong tay, thường lạm dụng quyền hành để thỏa mãn lòng tham vọng riêng của
mình. Những trường hợp lạm dụng quyền thế một cách trắng trợn và những quả báo
gây ra do những hành động đó, đều được thuật lại rất nhiều trong những tập hồ
sơ Caycẹ Thí dụ, đây là trường hợp của một người có quyền thế trong thời kỳ các
vụ án phù thủy ở Salem. Y là một trong những viên chức có trách nhiệm trừng trị
khủng bố những người đàn bà bị tố giác là hành nghề phù thủy. Tuy nhiên, trong
khi thừa hành chức vụ đàn áp khủng bố những người theo tà đạo để bảo vệ thuần
phong mỹ tục và bảo vệ tín ngưỡng Gia Tô, con người mô phạm và đạo đức giả này
lại lạm dụng quyền hành của mình để thỏa mãn điều sắc dục: Những người phụ nữ bị
giam cầm đều bị cưỡng bách phải thất tiết với y! Những tập hồ sơ cho biết nhà đạo
đức giả ấy đã đầu thai trở lại kiếp này. Hiện nay y là một thiếu niên 11 tuổi,
con của một người đàn bà nghèo khổ, bị chồng bỏ rơi. Y thường bị chứng động
kinh rất dữ dội; trong lúc soi kiếp cho y, y đã liệt bại hết nửa thân mình bên
trái, và câm không nói được nữa. Y không thể tự mình mặc hay cởi áo quần, hoặc
ăn uống hay đi lại, tiểu tiện mà không có người dìu dắt. Hai vai của y đã còng,
và sau một cơn động kinh kéo dài suốt nhiều ngày, trong khi đó ông bị chứng
phong giựt, mỗi ngày cách khoảng độ nửa giờ, y không thể nào giữ vững đầu trên
cổ được nữa, và không thể ngồi dậy được nếu không có người nâng đỡ.
Theo ông Cayce, bịnh động kinh thường là quả báo của sự hoang
dâm vô độ. Dầu sao, sự lạm dụng quyền hành trong trường hợp này là một yếu tố
quan trọng. Sự nghèo khổ và địa vị thấp kém của người mẹ y dường như là một sự
đảo lộn địa vị giàu sang quyền thế của y trong kiếp trước. Chứng động kinh là
cái hậu quả của sự cưỡng hiếp, dâm dục khi y lạm dụng quyền hành để thỏa mãn
thú tính.
Trường hợp sau đây là một thí dụ lạm dụng quyền thế trong thời
kỳ khủng bố đạo Gia Tô ở La Mã. Có một người tên Romus, làm quân nhân trong đạo
binh La Mã. Ngoài ra số tiền lương tháng, với cấp bậc khá cao của y, y đã dùng
thế lực để kiếm những món tiền khổng lồ. Cuộc soi kiếp không nói rõ y dùng
phương pháp nào, không biết là y biển thủ công quỹ hay dọa nạt để làm tiền;
nhưng y đã dùng phương tiện bất chính để mưu lợi, thâu được rất nhiều của cải vật
chất, nhưng lại mất mát nhiều về phương diện tâm linh. Trong kiếp hiện tại,
Romus bị nhiều đau khổ: Sự nghèo đói, lầm than, không nhà cửa, luôn luôn theo
dõi y suốt đời. Nghề thợ may của y không đủ sinh lợi để nuôi một vợ và năm con.
Chỉ nhờ sự giúp đỡ của cha mẹ y mà vợ chồng và gia đình y mới có thể sinh nhai
một cách tạm bợ và bấp bênh ở một khu phố nghèo nàn tại Luân Đôn. Trong trường
hợp này cũng vậy, kẻ lạm dụng quyền hành đã phải chịu những quả báo tương đương
với hành động quả báo của y gây ra. Tình hình tài chánh tuyệt vọng của y phản ảnh
những nỗi lầm than khốn khổ mà y gây ra cho kẻ khác trong kiếp trước.
Dưới đây là một trường hợp khác về sự lạm dụng quyền hành,
cũng đáng được cho chúng ta ghi nhớ: Một người đàn bà nọ thuộc giai cấp trưởng
giả hồi thời Cách Mạng Pháp, đã tham gia cuộc nổi loạn chống giai cấp quý tộc.
Với tấm lòng thành thật tranh đấu cho một lý tưởng, bà đã thực hiện một sự tiến
bộ lớn về đường tâm linh. Nhưng sau cuộc Cách Mạng, khi dịp may đưa đến bà đạt
tới một địa vị quan trọng trong chánh phủ, bèn trở nên độc tài và lạm dụng quyền
thế chẳng thua gì những người mà bà đã tranh đấu chống lại trước kia. Cuộc soi
kiếp nói: "Hậu quả đưa đến, là trong kiếp hiện tại, linh hồn này phải chịu
dưới quyền sai khiến của kẻ khác, để đè nén bớt những khuynh hướng độc tài và
hách dịch của y trước kiạ" Hiện thời, người đàn bà này sống một cuộc đời rất
khó khăn, lúc soi kiếp, bà đã 40 tuổi, góa chồng đã mười năm và có một đứa con
gái nhỏ. Bà phải chiến đấu với nghịch cảnh để tư mưu sinh và nuôi con. Bà đã
tìm được việc làm trong một cơ sở cứu trợ nạn nhân thất nghiệp của chánh phủ
trong một thời gian nhưng tình trạng của bà vẫn bấp bênh. Sự cô đơn và thiếu
nguồn vui sống đã làm cho bà tuyệt vọng và chán nản. Tình trạng này không phải
là do sự ngẫu nhiên tình cờ: đó là cái phản ảnh đúng đắn của những sự đè nén áp
bức mà bà đã gây ra cho kẻ khác, khi lạm dụng quyền hành trong taỵ Xét qua bề
ngoài, thì bà là nạn nhân của một tình trạng kinh tế khủng hoảng và một số mạng
hẩm hiu; nhưng xét về luật quả báo, thì bà chỉ là nạn nhân của chính mình.
Những trường hợp kể trên có thể giúp cho ta một cái tiêu chuẩn
quan trọng để tìm hiểu những nỗi khó khăn trắc trở của người đời cùng những nỗi
khổ đau của họ, và tìm ra những nguyên nhân xa gần, căn cứ vào quả báo trong hiện
tại. Khi nhà hiền triết Eschyle cách đây hai ngàn năm ở Hy Lạp nói rằng:
"Số mạng, tức là hạnh kiểm" ông ta đã thốt ra một câu châm ngôn mà nếu
ta nói ngược lại cũng vẫn đúng. Vì những trường hợp đã xét qua như trên dường
như chỉ rằng số mạng con người ngày nay, tức là phản ảnh cái hạnh kiểm của y
trong quá khứ. Đến đây, một vấn đề quan trọng được nêu ra, một vấn đề mà bất cứ
người nào học hỏi nghiên cứu và suy gẫm chính chắn về thuyết Luân Hồi, cũng
không khỏi nêu ra để tự vấn lấy mình. Nếu như sự nghèo khổ là những quả báo cần
thiết để giáo dục sửa đổi những kẻ hung dữ, độc ác, bất công theo định luật
Nhân Quả, thì tại sao người ta cần phải cố gắng hoạt động trong những công việc
cứu tế xã hội để làm gì. Phải chăng những cố gắng của ta để trợ giúp kẻ khác bần
hàn khốn khó, sẽ làm ngăn trở sự hành động của luật Nhân Quả?
Chúng ta nên hiểu rằng thuyết Luân Hồi không phải chủ trương
một thái độ nhắm mắt buông xuôi đối với những nhu cầu cấp bách của xã hội. Những
linh hồn cần phải học bài học nghèo nàn khốn khó, sẽ sinh ra trong một thời kỳ
lịch sử và trong một hoàn cảnh địa phương mà sự bất công của xã hội có thể tạo
nên cái quả báo nghèo khổ khốn cùng cần thiết cho bài học kinh nghiệm của họ.
Nhưng đồng thời, những người nào không cố gắng làm việc để cải
thiện đời sống của kẻ đồng loại, tức là họ phạm vào tội "Thờ ơ, chểnh mảng"
(omission); còn những kẻ lợi dụng và khai thác kẻ đồng loại vì mục đích ích kỷ,
là những kẻ tích cực phạm tội (commision); hai thứ tội lỗi này, có ngày họ sẽ
phải trả quả.
Thuyết Luân Hồi, nếu hiểu một cách đúng đắn, sẽ không thể
dùng làm một thuyết để bào chữa cho những hành vi của kẻ bất lương. Giáo lý mà
thuyết ấy cho ta trước hết thuộc về địa hạt tâm lý, bởi vì nó nhắm vào mục đích
cải tiến linh hồn người cho tới mức Toàn Thiện. Nhưng giáo lý ấy cũng nằm trong
địa hạt xã hội, bởi vì mục đích tối cao của nó là tình thương; và tình thương
chính là cái mãnh lực mầu nhiệm làm tiêu tan mọi điều nghiệp chướng và quả báo
xấu xa, theo định luật Nhân Quả cai quản sự tiến hóa của con người.
Những Đạo gia quả quyết rằng hành động của con người không thể
nào sửa đổi được định luật của Vũ Trụ. Định luật Nhân Quả Công Bằng cũng ví như
nước, luôn luôn giữ mực bằng phẳng, quân bình. Dầu cho con người gặp hoàn cảnh
nào và dưới thời kỳ nào, điều đó không quan hệ, đó chỉ là cái khung cảnh bên
ngoài làm nền tảng và bối cảnh cho linh hồn đầu thai để học hỏi kinh nghiệm ở
cõi trần. Đối với một linh hồn đã chọn lựa nhũng hoàn cảnh đó, thì luôn luôn có
những phương tiện thích nghi để giúp cho họ sửa chữa những khuyết điểm và lầm lạc
bên trong của họ.
Chương 12 - Nguyên Nhân Của Quái Trạng Tâm Lý
Ngày nay, nhiều người đã quen thuộc với cái tên của bác sĩ
Freud và danh từ tiềm thức. Tuy nhiên, nhiều người không biết rằng bác sĩ Freud
đã khám phá ra tiềm thức trong khi ông theo đuổi những cuộc sưu tầm về giấc ngủ
thôi miên. Vì những người ngủ mê trong giấc thôi miên có thể nhớ lại những sự
viếc xảy ra từ thuở nhỏ mà họ đã hoàn toàn quên hẳn trong lúc bình thường, nên
ông Freud mới đưa ra giả thuyết rằng trạng thái tiềm thức là một kho ký ức giữ
gìn những tài liệu cũ mà người ta không thể nhớ lại bằng cách nào khác. Về sau,
ông Freud bỏ không dùng khoa thôi miên như một kỹ thuật chữa bịnh nữa, vì trong
nhiều trường hợp, nó không được hoàn mỹ, và ông tiếp tục thí nghiệm những
phương pháp khác để thám hiểm những vực sâu thẳm của tiềm thức. Tuy thế, người
ta cũng đã coi khoa thôi miên như là nguồn gốc của khoa phân tâm học
(psychanalyse).
Tron lĩnh vực tâm lý theo thuyết Luân Hồi, khoa thôi miên có
thể có một vai trò tương tự. Thần Nhãn của ông Cayce dường như chỉ rằng một người
trong giấc thôi miên có thể khám phá những kiếp trước của những người khác. Một
sự kiện quan trọng hơn nữa là dường như một người trong giấc thôi miên cũng có
thể nhìn thấy và sống lại những tiền kiếp của chính mình.
Những kinh nghiệm thụt lùi về quá khứ trong giấc thôi miên chỉ
rằng trong tiềm thức của một người, được giữ gìn ký ức của tất cả mọi việc đã xảy
ra từ khi y mới sinh. Một người trong giấc thôi miên, thụt lùi về dĩ vãng đến
năm y lên mười tuổi, khi người ta truyền lệnh cho y viết tên của y, thì y viết
với tuồng chữ của tuổi thơ ấu hồi y lên mười. Khi y thụt lùi về năm lên sáu tuổi
y viết với tuồng chữ còn non nớt hơn nữa; khi y thụt lùi lại năm lên ba, y cầm
viết chì vẽ nguệch ngoạc vài nét không có ý nghĩa gì cá HIện tượng thụt lùi về
quá khứ trong giấc thôi miên kể trên thường được thí nghiệm trong những lớp giảng
về khoa tâm lý ở trường Đại Học, và những sinh viên tâm lý học đã quen thuộc với
hiện tượng ấy. Nhà bác học Pháp De Rochas hồi thế kỷ mười chín tuyên bố rằng với
những kỹ thuật thụt lùi về dĩ vãng như đã kể trên, ông có thể nhớ lại những kỷ
niệm đã qua trong quá khứ. Quyển sách của ông nhan đề "Những Kiếp Sống
Liên Tục" (Les Vies Successives) không được coi như một quyển sách khoa học,
nhưng có lẽ một ngày kia nó sẽ được hoan nghênh như một công trình tiền phong
trên địa hạt tâm lý về thuyết Luân Hồi. Những quái trạng tâm lý được xem xét bằng
hiện tượng Thần Nhãn của ông Cayce, giải thích tánh chất của trí nhớ và tiềm thức,
và có vẻ xác nhận rằng tiềm thức con người thật ra còn thâm sâu hơn là những điều
mà các nhà phân tâm học có thể hiểu. Một trong những quái trạng tâm lý lạ lùng
nhất là sự sợ hãi. Những nhà phân tâm học định nghĩa điều này như là sự sợ hãi
quá độ, mà nguồn gốc là do bởi nhiều tình trạng phức tạp gây nên. Sự sợ hãi dị
thường này làm cho con người sinh lòng thù nghịch, gây hấn, hoặc cảm thấy mình
có tội lỗi rất nặng nề. Những xúc cảm ẩn tàng này về sau biểu lộ dưới hình thức
một sự sợ hãi vô lý và bất thường đối với một vài sự vật ở ngoại cảnh, thí dụ
như sợ giông mưa, sấm sét, sợ dao, sợ nước... Có nhiều trường hợp; những kinh sợ
đó được truy nguyên từ một việc xảy ra trong một kiếp trước, làm cho y bị đau
khổ hay thiệt mạng.
Một thí dụ lý thú là trường hợp của một người đàn bà từ thuở
thiếu thời đã sợ những gian phòng kín. Ngồi trong rạp hát, cô phải chọn một chỗ
ngồi gần chỗ cửa đi ra. Ngồi trên xe buýt, nếu xe chật chỗ và quá đông người,
cô bước xuống đợi chuyến xe khác. Trong những khi đi nghỉ hè, đi chơi ở miền
núi, cô rất sợ chui vào những hang, động, hầm hố hay bất cứ chỗ nào bốn bể kín
mít, không có ngõ ra. Người trong gia đình không ai hiểu lý do của thái độ lạ
lùng này, vì không ai có thể nhớ lại hồi thuở nhỏ đã xảy ra việc gì làm cho cô
có sự sợ sệt như vậy. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp
trước, cô chui vào một cái hang, thình lình hang sụp lở, bị đè bẹp dưới đống
đá, sỏi, cát vụn, và chết ngộp. Ký ức về cái chết rùng rợn này ngày nay vẫn còn
in sâu trong tiềm thức của cô.
Một thí dụ khác là trường hợp của một người đàn bà nọ có hai
điều kinh sợ: Sợ dao bén và sợ những loài thú có lông, nhứt là những loài thú
nhà. Cô nổi cơn hoảng loạn mỗi khi có một vật bén nhọn ở gần bên mình hay khi
thấy ai xử dụng gươm dao... Cuộc soi kiếp cho biết trong một kiếp trước ở Ba
Tư, người đàn bà này bị giết vì một lưỡi gươm trong lúc chạy loạn. Còn việc sợ
thú có lông thì khó hiểu hơn, vì trong gia đình, người nào cũng có nuôi chó hay
nuôi mèo, người anh của cô lại thích nuôi thú. Nhưng mỗi khi cô nhìn thấy con
chó hay con mèo thì giựt mình kinh sợ như người gặp phải rắn độc. Hơn nữa, cô
không khi nào mặc áo choàng bằng da thú, hoặc cổ áo may bằng lông thú. Những
nhà tâm lý học có thể tìm căn nguyên sự sợ sệt của cô trong những sự giao tế với
người trong gia đình, thí dụ như lòng ganh ghét đố kỵ đối với người anh ưa nuôi
thú chẳng hạn, và giải đáp vấn đề ấy như là sự biểu lộ lòng căm thù nghịch của
cộ Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này từ một kiếp trước ở
châu Atlantide, khi đó cô đã trải qua một kinh nghiệm khủng khiếp về những loài
vật có hình thù ghê rợn. Cuộc soi kiếp cũng đã giải thích nhiều quái tượng sợ
hãi khác và truy nguyên ra từ những kiếp trước. Sự sợ hãi bóng tối của một người
nọ được giải thích rằng trong kiếp trước, y là một chánh trị phạm dưới thời
Louis 16 và bị giam cầm trong một đài cao ở Pháp cho đến khi chết bỏ xác trong
ngục tối. Một người nữa sợ dao bén. Một người nữa sợ dao bén; đến lúc truy
nguyên ra thì được biết rằng kiếp trước y đã trải qua một kinh nghiệm rùng rợn
trong một phòng tra tấn ở Pháp, và đã bị tra khảo bằng những thứ hình cụ khủng
khiếp, gồm cả sự tra tấn bằng hình cụ bánh xe (rouet). Một người nọ có những
cơn hoảng sợ bất thần, dường như y cảm thấy rằng ngày tận thế sắp đến! Cuộc soi
kiếp truy nguyên sự sợ sệt này ở một kiếp trước, vào thời kỳ một phần châu
Atlantide bị sụp lở chìm xuống đáy biển. Trong khi đó y đang ngồi một mình trên
một ngọn đồi cao để xem sách, thình lình cơn động đất làm rung chuyển trọn cả
vùng chung quanh như trời long đất lở và y nhìn thấy nước biển dâng lên bốn
phía chung quanh ngọn đồi của y.
Một người đàn bà kia sợ thú dữ một cách lạ thường. Kiếp trước
ở La Mã, người chồng bị tội và bị bắt buộc phải đấu sức với loài thú dữ trong
võ trường.
Hai người kia sợ nước một cách rất vô lý. Truy nguyên ra thì
được biết rằng kiếp trước họ đi tắm sông, bị giòng nước xoáy cuốn đi và bị chết
đuối. Một người nữa cũng sợ nước, được biết rằng quái trạng này là do bởi trong
tiền kiếp hồi thời đế quốc La Mã, y đã bị đắm tàu chết đuối trong một cơn bão nổi
lên ở giữa biển.
Khi chúng ta xét kỹ những trường hợp này theo quan điểm tâm
lý thông thường, chúng ta có thể tự hỏi rằng phải chăng tất cả những thí dụ
trên đây cũng có thể được giải thích một cách thỏa đáng bằng cách tìm ra một
nguyên nhân trong kiếp hiện tại. Thí dụ, người đàn bà sợ ngồi trong phòng kín,
có thể đã bị nhốt trong một phòng tối lúc lên bốn tuổi, nhưng ngày nay cô đã
quên mất việc đó. Do sự khêu gợi trong giấc thôi miên, người ta có thể đào xới
việc ấy trong ký ức đã lãng quên từ lâu và nhà tâm lý học có thể căn cứ trên
tài liệu đó mà hiểu những vấn đề xúc động thường gây nên các chứng bịnh loạn thần
kinh. Nhiều người đã có kinh nghiệm cùng một loại giống như trên, nhưng lại
không có sự sợ hãi một các vô lý. Như vậy tại sao có người lại có sự thụ cảm đặc
biệt đó? Nếu tất cả những người đã trải qua những cơn xúc động tình cảm đều đâm
ra sợ ngồi trong phòng kín, thì trên thế gian, người thuộc về hạng này sẽ nhiều
đến nỗi người ta phải đóng cửa tất cả phòng điện thoại, buồng ngủ, những gian
phòng độc chiếc, và vài loại hộp đêm, như là những nơi hăm dọa sự thăng bằng của
tâm hồ, trí não và sức khỏa công cộng.
Trong tập hồ sơ Cayce, vấn đề này được giải đáp như sau: Sự
kiện rằng một đứa trẻ tỏ ra thụ cảm hơn một đứa trẻ khác trong một tình trạng
xúc động tâm lý nhất định, có thể là do kinh nghiệm ở một kiếp trước. Hoàn cảnh
tạo ra trong kiếp này là cái phương tiện làm thức động trở lại cái ấn tượng
kinh khủng đã bị vùi lấp trong ký ức. Theo thuyết Luân Hồi, chúng ta thấy rằng
tiềm thức cũng ví như một cái hộp có hai đáy, nó vốn thâm sâu hơn là người ta
tưởng trong lúc bình thường. Vài nhà tâm lý học, nhứt là Carl Jung, cảm thấy rằng
những lớp sâu thẳm trong tiềm thức cần được nêu ra để giải thích những quái trạng
về tâm lý mà người ta không thể giải thích được bằng cách nào khác.
Theo quan điểm của ông Cayce, mỗi người đều có những ký ức tiềm
tàng đột khởi từ một quá khứ xa xăm, do những kinh nghiệm của y đã trải qua
trong những tiền kiếp. Tất cả những sự sợ hãi, thù ghét, thương yêu và những
tình cảm vô ý thức của y đều là thành phần của một cái sản nghiệp tinh thần mà
y tự để lại cho mình, chẳng khác nào như người ta tích trữ của cải ngày hôm nay
để dùng lại cho một ngày về sau. Con người văn minh tân tiến ngày hôm nay đã từng
là một người dã man mọi rợ trải qua nhiều kiếp trong dĩ vãng, và bởi đó, thật
là một điều tự nhiên nếu y vẫn còn một vài thú tính mà y chưa tinh luyện và loại
trừ. Trong cái dĩ vãng xa xăm đó, chính y đã từng trải qua những điều sợ hãi khủng
khiếp trong rừng rậm, và những sự tàn nhẫn độc ác của loài người. Vậy thì thật
là một điều tự nhiên nếu ngày nay, thỉnh thoảng y vẫn cảm thấy những cơn sợ hãi
bất thường, vô lý, và những nỗi lo âu phiền muộn vô căn cứ. Chính y đã từng
thương yêu, ghét bỏ hay đố kỵ nhiều người khác mà y tiếp xúc trong dĩ vãng: Vậy
thì là lẽ tự nhiên nếu ngày nay y cũng lại cảm thấy đối với chính những người
đó, đã cùng đầu thai lại trong kiếp này những mối thiện cảm, thương yêu hay thù
hận, ghét bỏ một cách vô lý và không thể giải thích được lý do.
Những ký ức thuộc về kiếp trước có thể biểu lộ trong kiếp này
bằng những phương tiện khác hơn là những sự sợ hãi hay những quái trạng tâm lý.
Ông Cayce đã căn cứ trên thuyết Luân Hồi để giải thích hiện tượng về những giấc
mộng tái diễn trở lại nhiều lần. Một thí dụ lạ lùng về vấn đề này là của một
người đàn bà đưa ra câu hỏi sau đây: "Tại sao hồi thuở nhỏ tôi thường năm
mộng thấy cảnh tận thế, với những luồng mây đen bao phủ và tiêu diệt cõi thế
gian?" Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời rằng trong một kiếp trước ở
châu Atlantide, người đàn bà ấy đã làm nghề giáo sĩ và y sĩ, và đã chứng kiến một
trong những vụ thiên tai kinh khủng làm sụp đổ châu này dưới lòng biển sâu. Cái
ấn tượng rùng rợn đó vẫn còn in sâu trong tâm hồn cô đến nỗi nó thường xuất hiện
trở lại trong giấc ngủ trong kiếp này.
Một trường hợp lý thú khác là của một em gái nhỏ bốn tuổi, thường
làm cho mẹ nó lo âu vì mỗi đêm nó đều giựt mình tỉnh giấc, khóc la bài hãi một
cách vô cùng sợ sệt. Em nhỏ này đầy đủ sức khỏa và không có bịnh tật chị Mẹ nó
bèn viết thơ cho ông Cayce để xin ông giải thích về quái trạng của đứa bé. Cuộc
soi kiếp cho biết kiếp trước em chết bất đắc kỳ tử trong trong trận Thế Chiến
Thứ Hai ở Pháp. Nhưng chỉ trong chín tháng sau, em đã đầu thai trở lại trong một
gia đình ở Bắc Mỹ. Trong khoảng trung gian ngắn ngủi giữa hai kiếp sống, những
kỷ niệm rùng rợn về chiến tranh binh lửa vẫn chưa xóa mờ trong ký ức của em và
thường xuất hiện trong giấc ngủ.
Những trường hợp kể trên không khỏi làm cho chúng ta lại nêu
ra câu hỏi về vấn đề trí nhớ. Nhiều người phản đối thuyết Luân Hồi thường đưa
ra lập luận này, là nếu có Luân Hồi thì tại sao chúng ta không nhớ lại những kiếp
trước? Điều này mới nghe qua thì dường như lạ lùng, nhưng thật ra nó không lạ
gì lắm nhưng thật ra nó không lạ gì lắm nếu chúng ta cũng không nhớ được hết những
việc gì đã xảy ra trong đời chúng ta lúc còn thơ ấu hay trong thuở thiếu thời.
Trí nhớ của con người là một cái gì rất mỏng manh, tế nhị, và những sự việc
trôi qua trong đời chúng ta chẳng khác nào như nước chảy giữa dòng, cho nên khi
nói rằng ta không nhớ một việc gì, không có nghĩa là việc ấy không có xảy ra.
Nếu chúng ta hỏi một người bạn câu này: "Anh đã làm gì
vào đúng 10 giờ 26 phút buổi sớm mai ngày 19 tháng 4 năm 1939?" Chúng ta
có thể đem hết cả gia tài để đánh cuộc rằng y không thể nhớ từng chi tiết rõ
ràng như y đã làm gì vào ngày hôm đó, y mặc y phục như thế nào, nói những chuyện
gì, với ai... Việc y không nhớ rõ các việc đã xảy ra trong một ngày giờ nhất định
trong đời của y, không có nghĩa là y đã không trải qua những giờ phút đó.
Bởi đó, sự phản đối thuyết Luân Hồi bằng những lập luận nói
trên không thể đứng vững. Trước hết sự lãng quên là một hiện tượng rất thông
thường và rất tự nhiên của con người. Sau nữa, trí nhớ có một tính chất rất đặc
biệt là rất chóng quên phần chi tiết, mà chỉ giữ lại cái nguyên tắc đại cương.
Thí dụ: Mỗi người có học thức đều có thể nói rằng 7 lần 7 là 49, và 12 lần 12
là 144. Y không nhớ rằng y đã trải qua những giờ mệt nhọc vất vả trong lớp học
hồi thuở thiếu thời để làm những bài toán đó, nhưng khả năng suy tính và sự
thông hiểu toán pháp hãy còn tồn tại trong trí óc của y.
Những sự hiểu biết khác của con người cũng được giải thích bằng
cách đó, chẳng hạn như sự cẩn thận đề phòng khi ta đứng gần lửa, sự dè dặt và sợ
chó khi bước vào nhà người lạ; khả năng về âm nhạc, khiêu vũ, hay sự thông hiểu,
khéo léo của ta về bất cứ một ngành nào. Việc chúng ta biết đi biết đứng chứng
tỏ rằng có một thời kỳ chúng ta đã tập đứng, tập đi, nhưng trong một vạn người,
không có đến một người nhớ rõ những sự cố gắng vất vả khó khăn mà y đã làm từ
thuở ấu thơ để có thể đi đứng tự nhiên được như bây giờ. Như vậy, sự lãng quên
về phần chi tiết vẫn không làm mất đi trí nhớ về phần nguyên tắc, và tất cả những
khả năng và đức tính của con người trên phương diện luân lý, trí tuệ, đạo đức
tâm linh, đều là sự tổng hợp tất cả những kinh nghiệm mà y đã trải qua trong những
tiền kiếp, mà ngày nay đã quên mất những chi tiết.
Lý luận thứ hai mà người ta dùng để phản đối thuyết Luân Hồi
lại càng tế nhị hơn. Họ cho rằng tật không phải lẽ mà bắt buộc một cá nhân phải
chịu trách nhiệm về những hành động mà một cá nhân khác đã làm. Họ cho rằng quả
báo và sự trừng phạt chỉ có một ý nghĩa là khi nào kẻ phạm tội có ý thức được
và nhìn nhận tội lỗi của ỵ Sự trả lời của Đao. gia về lập luận này căn cứ trên
điều mà họ gọi sự liên quan giữa cá tính và linh hồn.
Linh hồn bất diệt ví như một tài tử ở ngoài vòng sân khấu, có
thể nhớ rõ quá khứ, nhưng khi chuyển kiếp làm người, chẳng khác nào như người
tài tử đóng một vai trò nhất định, thì sự mầu nhiệm của luật Thiên Nhiê khiến
cho y không nhớ điều gì cả ngoài ra phần nguyên tắc đại cương của những kinh
nghiệm mà y đã thâu thập được trong các kiếp trước. Ví như anh tài tử khi ngồi
tại nhà có thể nhớ rõ tất cả những lớp lang của vở kịch Phụng Nghi Đình mà y đã
đóng, nhưng trên sân khấu, khi y đóng một vai trò nhất định, chẳng hạn như vai
Lữ Bố, thì y chỉ biết có một vai trò đó mà thôi chứ y không thể nghĩ đến vai
trò khác. Cũng y như thế, linh hồn người chứa đựng ký ức của tất cả mọi sự đã xảy
đến cho y trong những vai trò của các nhân vật mà y đã từng đóng ở các tiền kiếp.
Lúc bình thường thì cá tính riêng biệt của y không nhớ được những kỷ niệm đó
ngoại trừ khi nào y dùng những phương pháp đặc biệt và bất thường để rút lấy những
kỷ niệm đó trong cái kho ký ức vô tận của linh hồn.
Lập luận chống thuyết Luân Hồi kể trên cho rằng thật là không
phải lẽ và trái với luân lý nếu một người bị trả quả và đau khổ vì những hành động
mà có lẽ y đã làm trong kiếp trước, nhưng ngày nay y đã quên mất, không còn nhớ
gì nữa. Lập luận này không thể đứng vững, cũng chẳng khác nào như lý luận cho rằng
việc một người lớn bị đau khổ vì những sự xung đột vô ý thức của y từ thuở ấu
thơ, cũng không hạp với luân lý.
Sự lãng quên, nó che khuất dĩ vãng và chỉ cho chúng ta thấy
có một phần hiện tại ngắn ngủi, là một điều cần thiết và che chở đối với chúng
tạ Ngoài ra những thí dụ về việc sợ hãi vô lý và những giấc mộng tái diễn nhiều
lần, người ta còn thấy trong những tập hồ sơ Cayce những quái trạng tâm lý khác
nữa. Thí dụ như những ảo ảnh ẩn hiện chập chờn, trong nhiều trường hợp thường
được truy nguyên từ những ký ức bất thường thuộc về kiếp trước. Có một trường hợp,
cuộc soi kiếp cho biết rằng những trung tâm bí yếu trong thân người, tiếng Phạn
gọi là Chakra (Luân Xa), tình cờ khai mở, làm cho luồng Xà hỏa (Kundalini) đi
xuyên qua những Luân Xa và gây nên những ảo ảnh hay ảo giác. (Luồng xà hỏa
Kundalini là một mãnh lực thần bí trong cơ thể con người nằm trong đốt cuối
cùng của bộ xương sống và có liên quan trực tiếp đến bộ phận sinh dục và năng lực
sáng tạo trong châu thân.)
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết trong nhiều trường
hợp, một sự rối loạn thần kinh có nhiều nguyên nhân hoàn toàn thuộc về thể chất,
và đã được chữa khỏi một cách mầu nhiệm bằng các phương tiện sinh lý. Chúng ta
đã thấy trong Chương 2, trường hợp của cô thiếu nữ được chữa khỏi bịnh loạn trí
nhờ nhổ một cái răng cấm mọc ngược. Một thí dụ hiển nhiên khác là trường hợp của
một người thư ký bưu điện bỗng nhiên đổi tánh một cách lạ thường và thình lình
trở nên gây gỗ, buồn bực và hung bạo. Gia đình khuyên y đi khán bịnh và vào nằm
bịnh viện để điều trị. Các bác sĩ tuyên bố rằng y bị chứng khủng hoảng thần
kinh, và người ta bèn để y nằm riêng buồng kín. Vợ y yêu cầu ông Cayce dành cho
y một cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn. Cuộc khán nghiệm cho biết y đã bị té ngã
nặng từ nhiều năm về trước, chạm mạnh vào xương hông làm đau tủy xương sống, và
điều này đã phản ứng toàn bộ Thần Kinh Hệ. Ông Cayce khuyên y hãy điều trị bằng
phương pháp nắn xương và trị bằng điện. Gia đình y nghe theo lời. Trong sáu tuần
lễ, bịnh nhân đã bình phục trở lại như thường, và người ta để cho y tự do trở về
nhà. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp loạn trí, cuộc khán nghiệm cho biết rằng
bịnh nhân bị tà ma nhập xác ám ảnh. Xưa nay người ta vẫn tin rằng một vài chứng
bịnh loạn thần kinh nguyên nhân là vì ma nhập. Những người đọc bộ Thánh Kinh đều
biết rõ chuyện đấng Christ đã đuổi tà ma ra khỏi xác của một người điên, và những
người Gia Tô giáo đều quen thuộc với vấn đề các vị Cố đạo Gia Tô vẫn tiếp tục
thực hành những phép đuổi tà (exorcisme). Vấn đề này tự nhiên là hoàn toàn xa lạ
đối với khoa Tâm lý học hiện đại, và những nhà chữa bịnh thần kinh ngày nay coi
nó như một điều dị đoan đã lỗi thời. Tuy nhiên, nếu người ta chấp nhận rằng
linh hồn người vẫn còn tồn tai. sau khi chết, thì không có lý do gì mà cho rằng
những linh hồn bất hảo, lưu manh hồi còn sống ở thế gian, sau khi chết lại
không ám ảnh, khuấy phá hay nhập vào xác một người khác.
Để chữa bịnh tà, ông Cayce thường dùng phép điều trị bằng điện,
và khuyên bịnh nhân nên cầu nguyện, và tham thiền quán tưởng. Trong một trường
hợp, người bịnh được chữa khỏi trong vài tháng, chấm dứt sự ám ảnh của những giọng
nói thì thầm bên lỗ tai y, làm cho y sợ hãi đến phát bịnh. Trường hợp này là do
quả báo gây nên: Trong kiếp trước bịnh nhân đã dùng tà thuật để ám hại kẻ khác.
Chương 13 - Quả Báo Đối Với Hôn Nhân
Vấn đề hôn nhân là một vấn đề phức tạp và khó khăn nhất trong
đời người. Hôn nhân là một nguồn hạnh phúc vô tận nếu nó được thành tựu một
cách mỹ mãn, nhưng nếu thất bại, thì đó là một nguồn đau khổ rất lớn. Hôn nhân
đem đến cho ta những cái cực đoan về vinh nhục, sướng khổ của đời người, và giữa
hai cái cực đoan đóm có cả một loạt những trạng thái trung gian, vừa khổ vừa sướng,
vừa vinh vừa nhục.
Nói về phương diện pháp lý, hôn nhân là một hợp đồng sống
chung giữa hai người nam, nữ. Về phương diện nhân sinh, đó là một sự phối hợp của
nam và nữ tính, bản năng thúc đẩy của những nhu cầu sinh lý và tình cảm. Hội
Thánh Gia Tô coi hôn nhân như một nghi thức thiêng liêng. Khoa tâm lý coi nó
như một vấn đề xử thế và sinh hoạt. Kẻ ngông coi hôn nhân như một cái bẫy chuột
mà chỉ có những thằng ngốc mới chui vào.
Theo một sự định nghĩa rộng rãi hơn căn cứ trên thuyết Luân Hồi,
thì những quan điểm kể trên đều đúng, nhưng chỉ đúng có một phần. Nhà tâm lý học
Linhk định nghĩa hôn nhân là khiếm khuyết và bất toàn cùng góp sức với nhau để
tranh đấu cho hạnh phúc. Định nghĩa này sẽ gần sát hơn với quan điểm của nền
Minh Triết cổ truyền, nếu tranh đấu cho hạnh phúc cũng là cố gắng để tự cải tiến
lấy bản thân mình. Theo quan điểm rộng rãi này, thì hôn nhân là một cơ hội cho
hai linh hồn bất toàn bổ khuyết và giúp đỡ lẫn nhau để thanh toán những món nợ
nhân quả, rèn luyện những đức tính mới của linh hồn và tiến hóa trên đường tâm
linh.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã nhiều lần xác nhận rằng
không có một sự liên hệ quan trọng nào trong đời người mà lại do sự ngẫu nhiên
tình cờ. Vấn đề hôn nhân càng chứng minh cho điều này một cách triệt để. Không
có một cuộc hôn nhân nào bắt đầu từ con số không: đó là sự nối tiếp của một câu
chuyện đã bắt đầu từ lâu. Các cuộc soi kiếp cho biết rằng bằng cách này hay
cách khác, những người kết hôn thành vợ chồng đã có nhân duyên với nhau trong
kiếp trước. Đó là một điều lý thú. Trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce coi vấn
đề hôn nhân như một điều tự nhiên của con người, và ông thường nói: "Ừ!
Hôn nhân là một việc tốt. Đối với một linh hồn sống trên thế gian, đó là một
cách sinh hoạt tự nhiên."
Có người hỏi: "Tôi có nên kết hôn trong lúc này hay
không?" Ông Cayce đáp: "Lúc nào cũng nên, nếu anh chọn được người bạn
trăm năm thích hợp. Điều đó tùy theo mục đích mà anh theo đuổi khi anh muốn kết
hợp với người ấy."
Một gia đình ấm cúng, đó là hình ảnh của trạng thái điều hòa
hạnh phúc mà tất cả mọi người đều mong muốn. Về điều này, ông Cayce tuyên bố
như sau với một người mà ông soi kiếp cho: "Sự thành công của anh phải là
cái tổ ấm, vì trên đời không có sự thành công nào lớn hơn nữa. Ít người được
thành công về cả hai khía cạnh nghề nghiệp và hạnh phúc gia đình. Nhưng hạnh
phúc gia đình mới là sự thành công lớn nhất, và người nào coi thường điều ấy sẽ
tự tạo nên những trách nhiệm nặng nề về sau. Vì gia đình, tức là cái biểu tượgn
gần nhứt đối với điều nguyện vọng rốt ráo của linh hồn trong tương lai: đó là một
đời sống hạnh phúc trên Thiên Đàng. Bởi vậy, anh hãy làm sao cho gia đình anh
là cái hình bóng của cõi Thiên Đàng hạnh phúc!"
Vì gia đình là nơi người ta cùng theo đuổi một mục đích chung
với một mối tình thân hữu, nó là một cơ cấu thể hiện nhũng mối liên quan giữa
con người với Tạo Hóa. Đó là bởi gia đình có một mục đích sáng tạo, khi mà những
đơn vị gồm trong đó đều hợp nhứt với nhau trong một lẽ sống và một lý tưởng
chung.
Những quan niệm trên đây không phải là mới lạ gì. Tuy nhiên,
những cuộc soi kiếp trình bày một quan điểm vừa tự do vừa tân tiến đối với vai
trò và định mệnh của phụ nữ. Có điều lý thú là vấn đề nam nữ bình quyền, và quyền
tự do của phụ nữ trong việc sắp xếp cuộc đời của mình, được coi như vấn đề
đương nhiên. Ý niệm về sự đương nhiên này biểu hiện rõ hơn trong những cuộc soi
kiếp về những trường hợp mà đương sự phải chọn lựa một trong hai điều: Nghề
nghiệp và hôn nhân. Thần nhãn của ông Cayce không chấp nhận quan niệm Phát xít
và độc tài đặt để vai trò của phụ nữ là ở trong gia đình, thờ chồng và nuôi
con.
Cũng như trong những cuộc khán bịnh, mà phương pháp điều trị
không tùy nơi một đường lối duy nhứt, thì ở đây cũng thế. Không hề có một phép
xử thế nhứt định cho tất cả mọi trường hợp về vấn đề hôn nhân. Những nguyên tắc
tâm lý và đạo đức bao giờ cũng vẫn giống như thế nhưng sự diễn đạt bằng hành động
cử chỉ có thể khác biệt nhau tùy trường hợp. Đối với vài phụ nữ, ông Cayce
khuyên nên lập gia đình; nhưng đối với những người phụ nữ khác, ông lại khuyên
họ nên theo đuổi một nghề nghiệp. Có vài người, ông khuyên họ nên hành nghề trước
đã, rồi sau sẽ lo lập gia đình. Có người thì ông khuyên họ vừa lấy chồng vừa
theo đuổi một nghề nghiệp. Đối với những người khác nữa, ông khuyên hãy chọn một
trong hai điều; vì họ không thể phụng sự hai chủ cùng một lúc.
Một thiếu nữ 18 tuổi, có tánh e lệ rụt rè và bất mãn về cuộc
đời, muốn biết xem cô có thể làm gì trong tương lai. Cuộc soi kiếp nhấn mạnh rằng
trước khi nghĩ đến hôn nhân, cô nên làm một công việc có tánh cách săn sóc giúp
đỡ các trẻ em. Cuộc soi kiếp cho biết: "Nếu linh hồn này tìm cách tiến hóa
cho con đường hôn nhân, thì cô sẽ bị thất vọng đau đớn, trừ phi trước khi lấy
chồng, cô đã có làm những công tác trợ giúp xã hội và săn sóc trẻ em." Cuộc
soi kiếp nói thêm rằng cô có thể giúp các em gái nhỏ trong trại mẫu giáo hay một
tổ chức tương tự.
Một nhà tâm lý học sẽ nhìn nhận rằng lời khuyên đó rất lành mạnh,
theo quan điểm thuần tâm lý. Dạy dỗ các thiếu niên nhi đồng là những linh hồn
kém kinh nghiệm hơn mình và làm việc chung với họ, là một phương tiện rất tốt để
cởi mở và phát triển tâm tính. Sự chỉ huy và lãnh đạo kẻ khác giúp cho y mở đức
tự tin, nếu không thì đức tính ấy không bao giờ có cơ hội phát triển. Hôn nhân
có thể hoàn toàn thất bại nếu cô ấy chọn một người bạn trăm năm không xứng đôi
vừa lứa, trong cơn tuyệt vọng của một tâm hồn khép chặt và cô đơn. Dầu cho cô
được một người chồng xứng đôi, sự thất bại cũng vẫn có thể xảy đến nếu một
trong hai người không có đủ sự hòa hợp cần thiết để đương đầu với những vấn đề
thích ứng với hoàn cảnh và những sự căng thẳng mà hôn nhân tạo nên. Bởi vậy
trong trường hợp này, phương pháp tốt nhất là hãy làm một công tác xã hội và
theo đuổi một nghề nghiệp trước khi lập gia đình.
Trong một trường hợp khác, một thiếu nữ có khả năng được
khuyên nên lập gia đình và đồng thời nên theo đuổi một nghề nghiệp; nhưng cô chỉ
nên kết hôn với một người nào mà hoàn toàn thích hợp với cô mà thôi. Trong những
kiếp trước, cô đã làm nhiều công việc khác nhau, và có khả năng về các ngành
điêu khắc, làm đồ gốm, ngành dệât vải, cùng với khả năng âm nhạc và khiêu
vũ,... Với cái di sản tài năng dồi dào đó, cô có đủ điều kiện trở nên một nhà
lãnh đạo, và sau khi đã nêu rõ các điều kể trên, cuộc soi kiếp cho biết thêm:
"Chúng tôi thấy rằng linh hồn này nên lập gia đình và đồng thời nên theo
đuổi một nghề nghiệp, với điều kiện là nghề nghiệp đó phải giải thích ứng với
người chồng mà y chọn lựa. Bởi vì nếu người chồng đó không phải là một người
hoàn toàn thích hợp với y và góp phần xây dựng vào công việc mà y sẽ làm, thìsẽ
có những sự bất đồng ý kiến và những sự thất vọng chua cay đến nỗi nó sẽ in sâu
vào tâm hồn y những vết thương nguy hiểm."
Trái lại, dưới đây là trường hợp lý thú của một nữ tài tử trẻ
đẹp vài tài hoa, cô ấy yêu một người, và muốn biết xem cô có thể vừa thành hôn
vừa tiếp tục hành nghề tài tử của cô được không? Cuộc soi kiếp trả lời không úp
mở rằng: "Không được! Linh hồn này có đủ những đức tính cần thiết để thành
công hoặc trên sâu khấu hoặc trong gia đình; nhưng cô không thể thành công
trong hai việc cùng một lúc. Vậy cô hãy tự chọn lựa lấy!" Xem xét tỉ mỉ những
cuộc soi kiếp bề trên, thì người ta thấy rằng những lời khuyên luôn luôn nhắm mục
đích dìu dắt đương sự hướng về việc phát triển tâm linh. Nếu một phụ nữ muốn
theo đuổi một nghề nghiệp với những lý do ích kỷ như là muốn có nhiều tiền, quần
áo đẹp, địa vị cao sang, quyền hành chỉ huy, danh vọng cá nhân... Thì nguồn tài
liệu biết rõ cái tâm địa ấy và khuyên y nên hướng về việc lập gia đình. Lời
khuyên này được đưa ra không phải vì lý do tình cảm hay theo tục lệ truyền thống
về tánh cách thiêng liêng của gia đình và vai trò của phụ nữ. Nó được căn cứ
trên quan niệm rằng cái nguyên động lực và mục đích là những tiêu chuẩn để xét
đoán mọi hành động của con người; rằng một hành vi ích kỷ bao giờ cũng không bằng
một hành động vị tha, và những trách nhiệm mà người ta phải gánh vác trong sự kết
hôn và lập gia đình, dễ đưa con người ta tìm kiếm để thụ hưởng riêng một mình
trong một vài loại nghề nghiệp.
Bởi vậy, ông Cayce thường khuyên nhiều phụ nữ, dầu rằng có
tài năng, hãy nên tạo lập gia đình và nuôi con; vì đó là cái kỷ luật tốt nhất để
giúp đỡ ch họ khai mở những đức tánh tâm linh mà họ còn thiếu sót, để thắng bớt
lòng ích kỷ có ý thức hay vô ý thức trong kh họ theo đuổi một sự nghiệp. Một mặc
khác, một vài phụ nữ tài năng có thể thành thật muốn đem khả năng của mình để
phụng sự nhân loại. Đối với một phụ nữ thuộc về loại này thì một tổ ấm, một người
chồng, một gia đình có thể là những chướng ngại cho sự phát triển đầy đủ những
khả năng của họ. Bởi vậy ông Cayce thường khuyên họ hãy trì hưỡn việc lập gia
đình một thời gian hoặc nên phối hợp việc hôn nhân với việc hành nghề cùng một
lúc. Mục đích tối hậu, đối với những người độc thân cũng như đối với những có
gia đình, là sự phát triển tâm linh; và dầu là đàn ông hay đàn bà họ đều là những
linh hồn bất tử và có quyền chọn lựa một tình trạng gia đình thích hợp nhứt, có
thể giúp họ theo đuổi sự phát triển tâm linh.
Ông Cayce coi cái quyền tự do sắp đặt cuộc đời của mình không
những là một quyền hạn trên địa hạt xã hội mà còn là một cái quyền trên địa hạt
vũ trụ. Nói theo danh từ triết học, thì cái quyền đó gọi là quyền tự do ý chí
(libre arbitre), nó đã từng là một đầu đề tranh luận gay go sôi nổi trải qua
nhiều thế kỷ. Một trong những điểm quan trọng nhất của thuyết Luân Hồi là nó nhấn
mạnh về sự hiện hữu của quyền tự do ý chí. Một điều lầm lạc rất thông thường của
những người tin tưởng ở thuyết Luân Hồi và Nhân Quả, là họ cho rằng số mạng con
người đã được định saün từ trước.
Một sự tin tưởng sai lầm như thế có những hậu quả rất tai hại
về mặt tâm lý và đạo đức tâm linh, vì nó làm xuống tinh thần và làm tê liệt ý
chí tiến thủ của con người. Thái độ buông xuôi, thụ động của người Ấn Độ, là một
dân tộc phần đông tin tưởng ở thuyết Tiền Định, đã chứng minh cho điều tai hại
của sự lầm lạc kể trên. Chúng ta nên biết rằng mỗi cái hắt hơi, mỗi vết muỗi cắn,
hoặc mỗi lần dự tiệc, không phải là đã tiền định hằng bao nhiêu thế về trước.
Phần nhiều những chi tiết về cuộc đời chúng ta đều hoàn toàn do chúng ta định
đoạt bằng tư tưởng và ý chí ngay trong lúc hiện tại. Thật ra, tất cả những sự
việc xảy ra trong đời chúng ta, từ việc quan trọng như việc hôn nhân đến việc
nhỏ mọn như việc ăn một cái kem chẳng hạn, đều do chúng ta định đoạt. Những sự
khó khăn trắc trở nó đè nặng lên vai chúng ta bây giờ đều là kết quả của những
lỗi lầm mà chúng ta đã gây nên trong quá khứ do sự định đoạt của chính mình. Những
sự khó khăn đó dường như đến với chúng ta từ bên ngoài, bởi vì chúng ta đã quên
những hành động của ta trong dĩ vãng và tầm nhỡn quang của chúng ta quá ngắn ngủi
nên chúng ta không thể nhìn thấy sự liên quan giữa những hành động đã qua với
cuộc đời chúng ta trong lúc hiện tại. Như thế nếu chúng ta hiểu rõ định luật
Luân Hồi, thì sự tranh luận giữa hai vấn đề tự do ý chí và định mệnh đã được giải
quyết. Chúng ta sở hữu quyền tự do ý chí chẳng khác nào như một con chó bị buộc
dây nơi cổ; nói một cách khác, con chó được hoàn toàn tự do đi đứng, chạy nhảy
tùy theo ý muốn trong cái tầm của sợi dây dài hay ngắn. Cũng y như thế, luật
Nhân Quả định đoạt cái tầm sợi dây dài hay ngắn của mỗi người trong chúng ta;
chúng ta được hoàn toàn tự do trong cái tầm giới hạn đó. Vấn đề tự do ý chí này
kêu gọi sự chú ý của những người khảo cứu các tập hồ sơ soi kiếp của ông Cayce
về vấn đề hôn nhân và nhất là những cuộc soi kiếp cho những người đưa ra những
câu hỏi về bạn trăm năm của mình sau này. Các cuộc soi kiếp luôn luôn cho biết
rằng việc hôn phối giữa hai vợ chồng là do những sợi dây duyên nghiệp tạo nên;
tức là những cặp uyên ương sắp sửa đi đến hôn nhân đều là những người quen nhau
từ kiếp trước, nhưng họ đã quên và ngày nay họ gặp nhau trở lại để cùng thanh
toán những món duyên nghiệp nợ nần chung giữa hai người.
Tuy nhiên, trong vấn đề hôn nhân cũng như trong tất cả mọi vấn
đề khác, luôn luôn vẫn có quyền tự do ý chí và tự do chọn lựa. Dầu cho giữa hai
người có một sợi dây duyên nghiệp nó biểu lộ bằng một sự hấp dẫn mãnh liệt, sự
phối hợp của họ trong lúc hiện tại không phải luôn luôn là cần thiết hoặc nên
khuyến khích. Dưới đây là hai cuộc vấn đáp ngắn để diễn tả sự việc kể trên:
1. - Hỏi: Tôi có nên kết hôn với anh chàng trai trẻ đang tỏ
tình với tôi lúc này chăng?
Đáp: Hai người vốn có duyên nghiệp với nhau từ trước. Nhưng tốt
hơn cô đừng nên làm hôn phối với y.
2.- Hỏi: Cuộc hôn nhân của tôi với F.S. Có thể giúp cho sự
phát triển chung của chúng tôi chăng?
Đáp: Có thể được, nhưng chúng tôi thấy rằng có nhiều người
khác mà cô có thể phối hợp để cùng nhau phát triển một cách điều hòa và phát
triển hơn nữa. Đó là những người mà kiếp trước cô đã có tạo nghiệp duyên từ hồi
thời kỳ văn minh cổ Ai Cập. Dầu sao, sự chọn lựa phải là ở tự nơi cộ Thật ra,
cô có một món nợ nghiệp duyên với F.S. Mà cô cần phải trả cho dứt, nhưng phương
tiện dở nhứt là kết hôn với y!
Khi mà ông Cayce ngăn cản một cuộc hôn nhân, dầu cho trong những
trường hợp hai người có dây duyên nghiệp với nhau, người ta có thể giải thích bằng
nhiều cách. Trước hết, có thể rằng trong kiếp này những người ấy cần phải học
những bài học kinh nghiệm khác, quan trọng hơn là sự liên hệ giữa vợ chồng.
Cũng có thể rằng một người, hoặc cả hai, đều chưa đủ chuẩn bị saün sàng để đối
phó với vấn đề hôn nhân. Hoặc cũng có thể rằng cuộc hôn nhân trù liệu là một
hành phạt quá nặng nề đối với sự lỗi lầm trước kia của đương sự. Và sau cùng,
cũng có thể rằng hai người trong cảnh xa nhau, sẽ học bài tâm linh đó một cách
hữu hiệu hơn là trong sự sum họp vợ chồng.
Những cuộc soi kiếp thường không nói rõ lý do vì sao trong mỗi
trường hợp, đương sự nên đi đến hôn nhân hay là không nên. Dẫu cho trong những
trường hợp mà hôn nhân được coi như một giải pháp tốt đẹp, ông Cayce cũng để
cho đương sự hãy tự quyết định lấy. Ông ít khi nào đưa ra một quyết định thế
cho người trong cuộc. Thái độ căn bản đó đã hiện rõ ràng trong trường hợp dưới
đây của một cặp uyên ương đến hỏi ý kiến ông về việc họ có nên kết hôn với nhau
chăng? Cuộc soi kiếp cho biết rằng họ đã cùng nhau trải qua hai lần kinh nghiệm
về việc vợ chồng, một lần ở Ba Tư và một lần ở Ai Cập. Đó là cái lý do của sự hấp
dẫn mãnh liệt nó thu hút hai người lại với nhau trong kiếp này. Về cuộc hôn
nhân của họ, cuộc soi kiếâp không nói dứt khoát, mà cho biết rằng: "Nếu giữa
hai người có một sự hòa hợp về lý tưởng và mục đích, thì hôn nhân có thể là một
kinh nghiệm tốt đẹp."
Người thiếu nữ hỏi ông câu này: "Mỗi người trong chúng
tôi có thể kết hôn với một người nào khác mà lại có hạnh phúc nhiều hơn là nếu
hai chúng tôi kết hôn với nhau chăng?" Ông Cayce đáp: "Nếu cô hỏi như
thế, tôi có thể trả lời bằng cách đưa ra cho cô danh sách của hai mươi lăm hay
ba mươi người khác. Còn đi đến hôn nhân hay không, thì đó là vấn đề mà cô hãy tự
giải quyết lấy."
Trong vài trường hợp, lời khuyên được đưa ra một cách dứt
khoát như sau:
Hỏi: Tôi có nên lập gia đình với người đàn ông đã làm lễ đính
hôn với tôi chăng?
Đáp: Không nên!
Tuy nhiên, trong phần nhiều trường hợp, cuộc soi kiếp vẫn để
cho đương sự được hoàn toàn tự do lựa chọn. Nhưng đồng thời, ông Cayce cũng đưa
ra những tiêu chuẩn để dìu dắt đương sự trong việc chọn lựa đó. Một người đàn
ông hỏi: "Cô M.L. Có thể là người vợ hiền và xứng đôi với tôi chăng?"
Ông Cayce đáp: "Điều đó phải tự Ông quyết định, chớ không phải tôi! Ngoài
ra sự thích hợp với nhau về phần trí não và thể chất, giữa hai người có sự hòa
hợp về khía cạnh tâm linh hay không? Hai người có cùng chung một lý tưởng một mục
đích hay không? Nếu không, thì này ông bạn hỡi... Hãy coi chừng?"
Trong thí dụ sau đây, một người đàn bà hỏi rằng trong bốn người
đàn ông muốn thành hôn với cô, cô nên chọn lựa người nào? Cuộc soi kiếp cho biết:
"Điều đó tùy ở nơi lý tưởng mà cô theo đuổi. Mỗi người trong số bốn người
đã có liên hệ với cô trong quá khứ, có người thì giúp đỡ nhưng có người lại làm
chướng ngại cho bà. Nếu tôi khuyên cô nên tránh người nọ, hoặc nên chọn người
kia, thì tức là đặt cô ở vào một vị trí sai lầm, và cũng đặt luôn cả những người
kia ở cái vị trí đó nữa. Chính cô phải lựa chọn lấy, và cái tiêu chuẩn phải là
hướng về một cuộc đời phụng sự. Cô hãy nhớ rằng tất cả mọi người đều tự dọ"
Căn cứ vào những tài liệu kể trên, người ta có thể suy diễn
ra cái nguyên tắc chọn lựa người bạn trăm năm của mình. Người ta có thể nói rằng
phần nhiều những cuộc hôn nhân đều căn cứ trên sắc đẹp và sự hấp dẫn của thể
xác. Theo quan điểm những cuộc soi của ông Cayce, thì sự hấp dẫn về phần trí tuệ
và sự hòa hợp tinh thần. Một cuộc hôn nhân có hạnh phúc phải căn cứ trên cái nền
tảng tam giác đó, cũng như trên ba cái chân vạc vững chắc. Nếu một trong ba
khía cạnh đó bị thiếu sót, thì cuộc hôn nhân ấy bị què hết một chân! Lý tưởng của
một người phải tương xứng, hoặc ít nhất là xấp xỉ bằng nhau với cái lý tưởng của
người bạn trăm năm, trên mỗi phần của ba phương diện nói trên; nếu không thì
ngy cơ sụp đổ và thất bại chua cay đang rình rập hầu kề một bên. Kết hôn một
cách vội vàng cẩu thả, không suy nghĩ chín chắn về những điều quan trọng kể
trên, tức là tự chuốc lấy điều tai họa, khó khăn trắc trở vậy.
Khi chúng ta cảm thấy một sự hấp dẫn mãnh liệt đối với một
người khác phái, chúng ta hãy cẩn thận đề phòng. Cẩn thận tức là phải nhìn thấy
xa để khỏi tưởng lầm rằng một sự hấp dẫn thể chất và dục tình sẽ trở nên một cuộc
hôn nhân hạnh phúc, và coi chừng kẻo lại vô tình mà châm lửa vào cái ngòi thuốc
súng của một tình trạng quả báo sắp sửa nổ bùng!
Chương 14 - Những Thiếu Phụ Cô Đơn
Khi người ta xét vấn đề hôn nhân theo quan điểm Luân Hồi với
những nhân quả, nghiệp duyên từ những kiếp quá khứ xa xôi, người ta không khỏi
tự hỏi rằng tại sao có những người lại sống cô đơn mà không lập gia đình? Có
nhiều phụ nữ, mặc dầu họ có một dung nhan khá đẹp và những tính nết bình thường,
nhưng cơ hội kết hôn không bao giờ đến với họ. Những cuộc soi kiếp của ông
Cayce đã giải thích vấn đề này như thế nào?
Có một câu tục ngữ Pháp nói về vấn đề hôn nhân như sau:
"Hôn nhân cũng ví như một thành trì bị bao vây: Những người ở ngoài thì muốn
sấn vào, còn những người ở trong thì muốn chạy ra!" Câu này tuy có vẻ trắng
trợn, nhưng lại rất đúng. Hôn nhân đã làm cho nhiều người đau khổ, đến nỗi người
ta phải ngạc nhiên mà thấy rằng vẫn còn có rất nhiều những kẻ muốn lọt vào
lòng, không màng nghĩ đến những điều hăm dọa của nó đối với sự yên tĩnh của tâm
hồn, và chỉ nhìn thấy những điều vui sướng mà nó hứa hẹn! Mặc dầu người ta đã
biết rằng hôn nhân có những sự khó khăn đau khổ như thế, nhưng những người độc
thân nói chung thường cảm thấy rằng họ thiếu mất một cái gì quý báu, và cảm thấy
đời sống khô khan, vô vị: Họ đã bỏ lỡ một cuộc đời!
Tự nhiên là trong tình trạng đó, yếu tố tình dục đóng một vai
trò quan trọng. Sống độc thân, ít nhất ở những xứ gọi là "Văn minh"
có nghĩa là hoàn toàn tiết dục, hay tiết dục một cách tương đối với người đàn
ông. Ở xã hội Tây Phương ngày nay, sống độc thân, nhất là đối với người đàn bà,
là một sự "Lỗi thời" và là một điều "Bất hạnh". Những trường
hợp kể ra dưới đây đều là những trường hợp của phụ nữ, vì trong các tập hồ sơ
Cayce, phụ nữ tỏ ra băn khoăn thắc mắc về vấn đề này nhiều hơn đàn ông, và những
trường hợp đau khổ của họ cũng rõ rệt hơn.
Cô đơn! Có một cái gì tẻ lạnh ở trong danh từ này, một cái gì
buồn thảm không thể nói ra cho xiết. Cũng như câu "Hội ngộ lần cuối
cùng" có lẽ là câu nói buồn nhất trong ngôn ngữ của những kẻ yêu đương,
thì câu "Tôi sống độc thân" có lẽ là câu nói buồn nhất mà một người
thốt ra về cái hoàn cảnh của mình. Nếu không có một sự soi sáng tâm linh để giải
pháp cho vấn đề này, thì sự độc thân có lẽ là một trong những vấn đề khó khăn,
tẻ lạnh nhất của đời người.
Dưới đây là trường hợp của một người đàn bà luôn luôn cảm thấy
khổ sở vì phải sống một cuộc đời quạnh hiu, đơn chiếc. Cô là một người đàn bà
Na Uy rất đẹp và duyên dáng, và làm thơ ký ở New York. Cô đã trải qua hai đời
chồng, người chồng trước qua đời sau khi thành hôn qua một thời gian rất ngắn;
sau đó tái giá một người khác lớn tuổi hơn nhiều, những cuộc hôn nhân này lại
không có hạnh phúc, và cuộc ly dị đã đến rất mau. Cô không có con, tất cả những
người thân trong gia đình đã qua đời, và chỉ còn trơ trọi có một mình. Nghề làm
thư ký giúp cho cô có cơ tiếp xúc với nhiều người, nhưng đó chỉ là những sự xã
giao bề ngoài. Cô ước mong tái giá lần nữa, nhưng dịp may không thấy đến và nay
chỉ sống cô đơn. Khi yêu cầu ông Cayce soi kiếp, những câu hỏi của cô biểu lộ một
tâm sự buồn thảm và đau thương: "Tại sao tôi lại bị cô đơn tẻ lạnh như vầy?
Có một lý do đặc biệt nào khiến cho tôi không thể tìm thấy một tấm lòng bầu bạn
tri kỷ trong hôn nhân? Tại sao tôi lại bị thất bại như vầy?" Cuộc soi kiếp
cho biết rằng tình trạng cô độc này có một nguyên nhân sâu xạ Hai kiếp về trước
ở Na Uy, cô đã làm một việc lầm lạc tai hại nó gây nên cái tình trạng bi đát hiện
nay: Cô đã tự tử trong một cơn thất chí! Trong kiếp trước đó, cô là mẹ của hai
đứa trẻ nhỏ và chồng cô vì một lý do nào đó, bị trục xuất ra khỏi làng. Sau khi
sinh con thứ hai, cô quá thất vọng và nhảy xuống vực sâu tự tử. Cuộc soi kiếp
nói: "Bởi đó trong kiếp này, cô thường có những lúc hiu quạnh, sầu thảm, hầu
như không thể chịu nổi!"
Quả báo trong trường hợp này thật là rõ rệt. Trong một lúc thất
vọng, người đàn bà này đã tự tử, làm cho chồng con bị thiếu mất đi cái tình
trìu mến săn sóc mà họ cần nơi người vợ và người mẹ. Cô đã không đếm xỉa đến bổn
phận gia đình, tinh thần danh dự và trách nhiệm đối với chồng con, và bởi đó cô
tạo nên cái hoàn cảnh bơ vơ lạc loài trong kiếp này. Chỉ khi nào người ta bị
thiếu thốn tình cảm, thì người ta mới biết cái giá trị của nó. Đó là một trường
hợp đáng cho ta suy gẫm. Nó không những xác nhận sự minh triết của Hội Thánh
Gia Tô về việc cấm đoán tự tử như một tội nặng, mà còn biểu dương sự thật này
là chúng ta phải trả lời về mọi hành vi của mình, mọi cử chỉ lãnh đạm, thản nhiên,
bơ thờ, khinh bạc, mọi sự lạm dụng và hành vi trái đạo của mình trong đời sống
hằng ngày.
Trường hợp cô đơn dưới đây cũng gần giống như trường hợp
trên, tuy rằng với những chi tiết khác hẳn. Đó là một người đàn bà Anh, dạy học
ở một trường mẫu giáo và rất mong muốn lập gia đình. Cha mẹ đã qua đời từ khi
cô còn nhỏ; cô được các bà dì nuôi nấng, nhưng trong một bầu không khí lãnh đạm
khô khan và nghiêm khắc, mà kết quả là làm cho cô không thể hài hòa với những
người cùng đồng một lứa tuổi. Suốt đời cô cảm thấy cô độc đơn chiếc, cách biệt
với mọi người, và những khuynh hướng của một tâm hồn khép chặt đã biểu lộ nơi cộ
Cô đã trải qua một cuộc tình duyên, nhưng đó chỉ là một sự hấp dẫn về thể chất,
và mối tình này đã chấm dứt khi sự khác biệt nhau về tâm tính với người yêu
càng ngày càng biểu lộ rõ rệt.
Từ đó trở đi, cô cảm thấy cuộc đời dường như trống rỗng và vô
vị. Cô làm việc sốt sắng và thành công về phương diện nghề nghiệp; thông minh
lanh lợi và biết giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có những lúc cô đắm
chìm trong một cơn thất vọng sầu thảm, kéo dài nhiều tuần và khó nguôi. Trong
những cơn khủng hoảng đó, cô thường nghĩ đến sự tự vẫn. Người ta không thể tưởng
tượng rằng một người đàn bà vừa có nhan sắc vừa khôn ngoan lại có thể bị những
cơn thất chí buồn bực sâu xa như thế.
Cuộc soi kiếp cho biết rằng bốn kiếp trước, cô sống ở Ba Tư
và đã tự tử kh những bộ lạc Ả Rập tấn công xứ này. Trong kiếp đó, cô là con gái
của một người tù trưởng trong xứ, và bị bắt làm tù binh của vị vương quốc Ả Rập,
cùng một lượt với những người khác. Sau đó, cô bị đem gả làm hầu thiếp cho một
viên phó tướng Ả Rập, sinh hạ một đứa con gái, và sau đó ít lâu bị mất trí nên
tự vẫn. Đứa con gái nhỏ sống vất vưởng không người nuôi dưỡng giữa bọn tướng giặc,
cho đến một khi có một vị giáo sĩ đi hành hương thấy vậy bèn động lòng trắc ẩn
đem em bé ấy về nuôi cho đến khi lành mạnh. Cuộc soi kiếp cho biết rằng người mẹ
đã tự tử chỉ vì không thể chịu khuất phục theo ý muốn của người khác; và
"Linh hồn này đã thất bại trong sự thử thách đó, cô tự tử chỉ vì muốn thỏa
mãn lòng tự kiêu của mình, chứ không phải vì lý do tự vệ để bảo tồn trinh tiết,
hay giữ gìn lý tưởng." Cuộc soi kiếp không cho biết rằng người đàn bà có
tâm địa kiếu căng, ngã mạn, tự tôn và thà rằng cô tự hủy mình chớ không chịu bị
đè nén khuất phục, mặc dầu y còn có một trách nhiệm với đứa con gái nhỏ mới
sinh ra.
Xét về tâm tính của cô trong kiếp này, nó biểu lộ dưới những
cử chỉ tự do và hiên ngang như đàn ông, người ta sẽ hiểu rằng có lẽ cái thói tự
kiêu của cô trong kiếp sống ở Ba Tư, chính là điều chướng ngại ngăn cách cô với
phái đàn ông trong kiếp hiện tại. Chính sự thiếu mềm dẻo, tế nhị, sự cứng cỏi
ương ngạnh của cô làm cho bọn đàn ông tránh xa và không muốn làm thân.
Điều lạ lùng là trong kiếp này, cô luôn luôn mong muốn có
con. Nếu các bà dì của cô không ngăn cản, thì có lẽ cô đã nuôi một đứa con nuôi
từ lâu. Có một điều cô mang theo từ kiếp trước, là cô thường nghĩ đến sự tự vẫn.
Từ khi có cuộc soi kiếp đưa đến sự giải thích hợp lý về tình trạng của cô, cô
không còn coi sự tự vẫn như một lối thoát nữa, vì hiểu rằng những gì mà cô muốn
trốn tránh trong lúc hiện tại, sẽ trở lại với cô trong một tương lai về sau.
Tuy thế, trong một cuộc soi kiếp nữa, cô được biết rằng cô
còn có thể hy vọng một cuộc hôn nhân trong kiếp này, nhưng vào lúc quá tuổi
xuân; và trong khi chờ đợi, cô nên giúp đỡ bằng mọi cách những người mà cô tiếp
xúc trong đời sống hằng ngày. Khi hỏi rằng còn bao lâu nữa cô mới có được cái hạnh
phúc đó, thì được trả lời rằng: "Khi nào cô tỏ ra xứng đáng thì điều đó sẽ
đến." Có những lúc khác, cô được biết rằng hiện nay cô đang ở trong một thời
kỳ thử thách. Khi cô hỏi: "Tại sao trong khoảng năm năm vừa qua, cô không
hề gặp được một người đàn ông nào?" thì câu trả lời đó là: "Đó là để
thử thách cái mục đích chính của cô trong kiếp hiện tại."
Trên đây là hai trường hợp mà sự tự tử và bỏ con cái bơ vơ
trong kiếp trước đã gây nên cái quả báo cô đơn tẻ lạnh, và thất vọng trong sự
mơ ước thành lập gia đình trong kiếp này. Trong những tập hồ sơ Cayce, còn có một
trường hợp thứ ba; đó là của một nữ giáo sư âm nhạc ở tiểu bang Texas, Hoa Kỳ;
bà này cũng ở trong một tình trạng tương tự với những lý do giống nhau: Cô đã tự
tử trong kiếp trước dưới thời kỳ quân chủ ở nước Pháp.
Tuy nhiên người ta không thể căn cứ vào ba trường hợp để đi đến
một kết luận chung về quả báo của những người bị sống trong cảnh cô đơn, độc
chiếc, mà sự tự tử có lẽ là nguyên nhân gây ra trong kiếp trước. Ông Manly
Hall, tác giả quyển "Luân Hồi: Một lẽ Tuần Hoàn Cần Thiết Của Đời Người,"
nói rằng quả báo của sự tự vẫn là trong kiếp sau, đương sự sẽ bị chết vào lúc
mà y ham muốn sống và yêu đời nhất. Trong các hồ sơ Cayce, không thấy có trường
hợp nào xác nhận điều đó, nhưng xét ra thì nó rất hợp lý.
Tuy nhiên, sự cô đơn và không chồng trong kiếp hiện tại có thể
có nhiều nguyên nhân khác. Thí dụ như trường hợp dưới đây cho ta thấy có một lý
do khác hẳn. Xét về trường hợp này, người ta nghĩ đến câu nói của ông Oscar
Wilde: "Trong đời chỉ có hai điều khổ: điều thứ nhất là muốn mà không được;
điều thứ hai là: được như ý muốn!"
Câu nói mâu thuẫn lạ kỳ này căn cứ trên sự kiện rằng con người
vì bởi vô minh nên thường xét đoán sai lầm giá trị của cuộc đời. Những chuyện đời
xưa kể chuyện một bà tiên cho một người kia được đưa ra ba điều ước nguyện rồi
y sẽ được như ý muốn. Câu chuyện ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng con người thường
có những ước vọng dại dột điên rồ, và phải gánh chịu lấy hậu quả tai hại của sự
dại dột ấy. Câu chuyện ấy có một ý nghĩa tượng trưng rất thâm trầm về hai sự kiện
này: Một là phần đông người đời không biết rõ họ muốn gì; và hai là sự đau khổ
của con người là phần nhiều do bởi những sự ước vọng sai lầm, vì thiển kiến, vô
minh, và thiếu óc sáng suốt.
Trường hợp sau đây đã xảy ra hồi thời kỳ ở châu Atlantide, và
đương sự hãy còn chịu sự quả báo ở kiếp này. Đó là một người đàn bà độ 40 tuổi,
có một thân hình nặng nề và thô kệch, nhưng điều này một phần lớn là do bởi sự
thiếu thể dục và sinh hoạt cẩu thả. Bà không bao giờ dùng đồ trang sức; quần áo
mặc cũng rất xuề xòa, không theo thời trang. Bà chọn y phục theo tiêu chuẩn tiết
kiệm và ích lợi hơn là để chưng diện và làm đẹp. Bà có những nét mặt đều dặn và
nếu được săn sóc ở mỹ viện thì bà có thể trở thành một phụ nữ rất đẹp. Ngoài ra
bà cũng có những cử chỉ duyên dáng, mặn mà, dễ thương. Trình độ văn hóa chỉ đến
mức tiểu học; bà làm việc trong các nhà máy và làm việc thủ công để nuôi thân.
Trong một cuộc trắc nghiệm tâm lý, bà có điểm cao nhất về mặt giao tế xã hội và
tôn giáo, vì những thích thú lớn nhất của đời bà là đọc các sách Thánh Kinh tôn
giáo, và làm việc cứu tế xã hội dưới một hình thức nào đó. Tuy vậy, bà vẫn sống
một cuộc đời cô độc, đơn chiếc. Những người trong gia đình không ai cùng chia sẻ
những quan niệm của bà về tôn giáo; trong đời bà, bà không hề biết có gì gọi là
hương vị ái tình, hay tình yêu lãng mạn.
Nói về quan điểm tâm lý, người đàn bà này thuộc về một trường
hợp rõ rệt của sự "Phản ứng nam tính" (Protestation masculine), nghĩa
là từ chối hay phủ nhận vai trò nữ tính của mình. Sự phản ứng này biểu lộ rõ rệt
trong cái thái độ hiếu chiến và chống đối những gì thuộc về nữ tính của bà; thí
dụ như việc không chịu trang điểm hay làm đẹp để hấp dẫn bọn đàn ông. Khoa tâm
lý học có thể đưa ra một giải thích về thái độ đó, nhưng sự giải thích này vẫn
còn hãy rất thiếu sót. Cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce đã đưa ra sự
giải đáp cho vấn đề này.
Trong kiếp cuối cùng của bà vừa rồi, bà là một thân nhân của
Thánh Jean Bastiste, và nhờ đó bà sinh trưởng trong một bầu không khí đạo đức
thâm nghiêm. Điều đó cũng là cái nguyên nhân làm cho bà có khuynh hướng tín ngưỡng
tôn giáo trong kiếp này. Trong tiền kiếp kế đó, bà sinh làm đàn ông ở xứ
Palestine thời cổ, tại đây y làm nghề thợ mộc và thợ đồng; điều này dường như
đã để lại cho bà những quan niệm thực tế và những khả năng về máy móc trong kiếp
hiện tại. Trong kiếp trước nữa, bà là một người đàn bà có địa vị cao ở châu
Atlantide, tại đây, một mối tình dang dở trong đời đã đem đến cho bà một sự xáo
trộn tinh thần và nhiều đau khổ. Kết quả là "Inh hồn này quyết định từ nay
về sau sẽ không bao giờ yêu một người nào có thể làm cho bà bị thất vọng và gây
cho bà những vết thương lòng." Và đó là cái nguyên nhân làm cho bà quyết định
sống tự do ngoài vòng trói buộc và đau khổ của tình trường. Bởi đó, tình trạng
độc thân và đơn chiếc của bà trong kiếp này không phải là do quả báo gây ra.
Trong trường hợp này không có sự liên hệ về nhân quả như trong những trường hợp
tự tử đã kể trên, mà chỉ có sự hành động của nguyên tắc liên tục, nó tùy nơi sức
mãnh liệt của sự ham muốn. Ngày xưa, bà đã quyết định thái độ là sẽ không bao
giờ yêu ai, nhất là không để cho tình cảm lôi cuốn bà đến bọn đàn ông. Bà có
quyết định này, không phải do một điều ước nguyện tâm linh hay do lòng bác ái;
mà là do ý muốn của bản ngã, quyết không bao giờ để cho bị hạ thấp nhân cách của
mình vì ban rải tình yêu cho kẻ khác. Trong giai đoạn trung gian, bà không bao
giờ tìm thấy có lý do nào để thay đổi thái độ. Và ngày nay, bà phải chịu những
hậu quả hợp lý cua cái quyết định đó, cho đến khi nào bà có thể thay đổi ý định
và thái độ xử thế về vấn đề này.
Cuộc soi kiếp không cho biết rõ rằng bà có hy vọng thành hôn
hay không trong kiếp này. Nhưng ít nhất, bà đã cố gắng để có thể đem sự săn sóc
và tình thương cho kẻ khác. Vì thiếu tình yêu, bà mới nhận thấy cái giá trị của
nó. Trong sự cô đơn, bà đã thấy sự chai lòng, sắt đá của mình xưa kia là một điều
tội lỗi cần phải được sửa đổi.
Nhà tâm lý học Carl Jung nói rằng mỗi người đều có đủ hai phần
nam tính và nữ tính trong bản chất của mình, nhưng cái nọ có phần trội hơn cái
kia, tùy theo trường hợp riêng của mỗi người. Linh hồn người hàm xúc những khả
năng tiềm tàng chưa khai mở thuộc về phái đối tượng. Sự kiện tâm lý này, mà ông
Carl Jung đã khám phá sau nhiều năm khảo cứu tìm tòi, hoàn toàn phù hợp với
quan niệm trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce về nguồn gốc và sự tiến hóa của
con người. Nam và Nữ đều có những đặc tính riêng; đại khái như uy lực, cương cường,
tranh đấu, hung bạo, thuộc về nam tính; sự hiền từ, dịu dàng, mềm mỏng, thụ động,
thuộc về nữ tính. Người thuần Nam tính là một người rất thiếu sót và bất toàn.
Bởi đó y cần được bổ khuyết bằng những đức tính thuộc về phái Nữ. Trong hôn
nhân, hai tính nam và nữ đều bổ trợ cho nhau đến một mực độ nào đó, do sự hội
hiệp của những đức tính tương phản nhau. Trong một cặp vợ chồng, mỗi người đều
dung hòa, bổ khuyết, sửa đổi lẫn cho nhau. Nhưng sự sửa đổi này vẫn hãy còn bất
toàn. Trong một kiếp sống ở thế gian, một người trội hơn về phần Nam tính không
đủ dung hòa bằng những đặc điểm nữ tính của người vợ y, và trái ngược lại.
Nhưng nhiều kiếp sống liên tục làm đàn ông và đàn bà giúp cho con người có những
kinh nghiệ bổ trợ dung hòa lẫn nhau. Một lần nữa, thuyết Luân Hồi đưa đến cho
ta một giải đáp về các vấn đề khó khăn: Chính do nhiều kiếp luân hồi sinh tử mà
con người mới có thể phát triển tâm linh một cách hoàn toàn.
Bất luận rằng những nguyên nhân của sự cô đơn hiu quạnh là
như thế nào, dầu cho đó là sự tự vẫn, sự quyết định không yêu ai, hay một lý do
nào khác, người ta phải nhìn nhận rằng tình trạng độc thân là một cơ hội để tu
tiến về phần nội tâm và về phương diện tiến hóa tâm linh. Muốn có bạn, ta phải
tỏ ra sự thiện chí và tình thân hữu; muốn được yêu, ta phải ban rải tình
thương. Bằng cách trau dồi tình thương và lòng bác ái để cho xứng đáng với nguyện
vọng mình, những kẻ cô đơn hiu quạnh có ngày cũng sẽ đạt được hạnh phúc của
tình yêu.
Chương 15 - Thắc Mắc Về Vấn Đề Hôn Nhân
Khi hai người quyết định làm bạn trăm năm với nhau, họ tạo
nên một sự phối hợp về nhân quả, và ùng chịu một sự tác động về tâu lý. Những
cuộc soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn nhân đưa ta những ý niệm tổng quan về
việc chọn lựa bạn trăm năm, cùng những sự liên hệ của hôn nhân trong dĩ vãng và
tương lai. Chúng ta có thể nói rằng trong vấn đề hôn nhân, cũng như mọi vấn đề
khác, mỗi người đều dùng ý chí tự do của mình trong việc lựa chọn bạn trăm năm.
Sự lựa chọn này chẳng khác nào như người ta lên xe ô tô buýt, một khi đã lên
xe, người ta phải noi theo một lộ trình nhứt định, một chiều hướng đã định
saün, khác hẳn với lộ trình và chiều hướng của một chiếc xe khác. Ngoài ra, những
hoàn cảnh và tiện nghi trên xe có thể không hoàn toàn đúng với sở thích của
chúng tạ Người tài xế có thể là một người cộc cằn thô tục, không khí trong xe
nóng nực bực bội, những cánh cửa sổ rất khó mở, hoặc người ngồi bên cạnh nói
nhiều quá! Nhiều sự việc bất ngờ có thể xảy ra trên chiếc xe số 92 mà không xảy
ra trên chiếc xe số 41. Nhưng thái độ và cách cư xử của chúng ta trong chuyến
đi đều tùy ở nơi mình, và dầu cho hoàn cảnh xung quanh diễn ra như thế nào, rốt
cuộc chúng ta đều chịu trách nhiệm về cái thái độ và cách xử thế của mình. Có
nhiều trường hợp về hôn nhân mà những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng
do nghiệp quả gây nên.
Trong trường hợp lạ lùng sau đây, thật không có một bi kịch
nào đau thương cho bằng, và bàn tay sắp đặt của định mệnh thật rất công bình và
vô cùng mầu nhiệm. Đó là trường hợp của một thiếu phụ rất đẹp, thành hôn vào
năm 23 tuổi. Nàng có đôi mắt xanh đẹp, một mái tóc vàng dợn sóng xõa xuống tận
vai, một vóc người tầm thước, và một dung nhan mỹ lệ của một nữ tài tử điện ảnh.
Dầu cho vào năm 40 tuổi là lúc nàng được ông Cayce soi kiếp, nàng vẫn có một vẻ
đẹp tuyệt trần làm cho mọi người phải quay đầu nhìn và trầm trồ khen ngợi mỗi
khi nàng bước vào chỗ đông người. Những người bạn trai giàu có sang trọng có lẽ
phải lấy làm ngạc nhiên nếu họ biết được cuộc đời tư của nàng. Trong 18 năm kết
tình chồng vợ với một nhà kinh doanh thương mãi rất có danh thế và tiếng tăm,
nàng đã trải qua một kinh nghiệm rất khó khăn và thất vọng về phương diện tình
ái. Chồng của nàng bị chứng bịnh bất lực. Người ta thấy ở đời thường có những
người đàn bà không hề cảm thấy dục tình, và không bao giờ ham muốn những sự luyến
ái trong khuê phòng; đối với những người ấy thì tình trạng bất lực của người chồng
không phải là một điều chướng ngại quan trọng lắm. Nhưng đối với người thiếu phụ
kể trên, đẹp đẽ, duyên dáng, lãng mạn đa tình và tràn đầy nhựa sống, thì đó là
một cái thảm trạng thật sự! Thảm trạng này có thể giải quyết bằng một cuộc ly dị
và sẽ chấm dứt dễ dàng, nhưng người thiếu phụ này lại không thể dùng cái biện
pháp dứt khoát đó. Nàng vẫn yêu chồng và không muốn làm cho chồng đau khổ.
Trong những năm đầu tiên, có một thời kỳ nàng đâm ra dang díu
với những người đàn ông khác, không phải vì muốn phản bội chồng, nhưng chỉ là để
thỏa mãn sự nhu cầu về sinh lý và tình cảm. Nhưng lần lần, nàng chế ngự được dục
tình, môt phần lớn là nhờ sự học hỏi đạo lý và tập quan thiền quán tưởng. Và cuộc
đời nàng cứ trôi qua một cách bình thản như thế từ 18 năm nay, trước khi cơn khủng
hoảng xảy đến. Một trong những người yêu cũ của nàng trước kia lại xuất hiện
trên bước đường đời của nàng. Trong bức thơ gởi ông Cayce, nàng kể chuyện như
sau:
"Khi chúng tôi gặp nhau, ngọn lửa tình lại nhen nhúm
mãnh liệt trong lòng y, và tôi cũng đáp lại mối tình đó. Nhưng sức khỏe của tôi
lại giảm sút trở lại như hồi trước khi tôi bắt đầu học hỏi đạo lý. Có lẽ tôi sẽ
không ngần ngại mà tư tình với y nếu y không có gia đình. Tôi không muốn bỏ chồng
vì những lý do mà ông có thể hiểu, và cũng vì chồng tôi đã tiến bộ rất nhiều về
sự cải tao tánh tình... Có thể rằng những cảm tình của tôi đối với người đàn
ông kia không phải là ái tình, mà là do tình trạng đặc biệt của gia đình tôi
gây nên. Dầu sao y cũng là người có tính nết khá. Y yêu tôi từ hồi tôi còn nhỏ,
nhưng tôi không hay biết gì cả và chỉ nghe mẹ tôi nói lại. Y không tỏ tình với
tôi vì y tự thấy còn chưa đủ sức lập gia đình.Nhưng về sau thì đã quá trễ, vì
tôi đã đính hôn với chồng tôi. Tất cả những hoàn cảnh cho tôi thấy sự hành động
của luật Nhân Quả, dường như có thể truy nguyên từ ba kiếp về trước của chúng
tôi. Thỉnh thoảng tôi đã cùng chung chăn gối với y, một lẽ là vì y quá yêu
đương và có thể thất vọng đến hủy mình. Sau nữa, tôi hy vọng rằng làm như vậy,
y sẽ được thỏa mãn dục tình, để cho y thoát khỏi sự cuồng vọng của yêu đương...
Sau cùng tôi đã đoạn tuyệt với y vì tôi không muốn đóng trò giả dối với vợ y và
gieo sự rối rắm trong gia đình ỵ Tôi quen biết và cũng có cảm tình với vợ ỵ Xã
hội sẽ lên án những mối tình vụng trộm như thế. Tôi không muốn làm khổ một người
nào. Y cũng không có sự ác cảm với vợ y, mặc dầu vợ y thường dày vò đay nghiến
y suốt nhiều tuần không dứt. Vợ y có thể làm sôi nổi thành to chuyện nếu vợ y
biết được câu chuyện ngoại tình này. Chồng tôi biết rằng tôi thỉnh cầu sự giúp
đỡ của ông, nhưng y không biết chi cả về chuyện này."
Đó là bức thơ của người thiếu phụ để giải bày tâm sự thắc mắc
trong cuộc đời của cộ Câu chuyện cũng khá bi ai; nhưng cuộc soi kiếp còn tiết lộ
nhiều điều bí ẩn trong cuộc đời quá khứ của người thiếu phụ, nó tạo nên tình trạng
hiện nay, và chỉ cho ta thấy hành động của Luật Quả Báo thật là vô cùng đúng đắn
và mầu nhiệm. Trong hai kiếp về trước ở Pháp, hồi thời kỳ xảy ra cuộc Thánh Chiến
(Croisades), người thiếu phụ này tên là Suzanne Merceilieu, cũng là vợ của người
chồng cô bây giờ. Ông Merceilieu, chồng cô trong kiếp đó, là một trong những
người có óc phiêu lưu, và cuộc Thánh Chiến ở vùng Cận Đông xa xôi càng nung nấu
chí giang hồ của ông. Và cũng như nhiều người khác có lòng tín ngưỡng nhiệt
thành, cuộc đời tư của ông lại hoàn toàn tách biệt với những nguyên tắc đạo đức
mà ông tin tưởng và đề cao! Theo quan niệm của ông, thì Thánh Địa Jérusalem,
nơi an nghỉ cuối cùng của Đấng Cứu Thế, phải được giải phóng khỏi sự xâm lăng của
những người "Ngoại đạo." Nhưng còn vấn đề áp dụng tình bác ái mà đấng
Cứu Thế đã dạy đối với vợ Ông, thì dường như ông không bao giờ nghĩ đến!
Bởi đó, khi ông sửa soạn lên đường tham gia cuộc Thánh Chiến
để bảo vệ tôn giáo Gia Tô chống những kẻ "Ngoại đạo," thì đồng thời
ông cũng muốn bảo vệ một chuyện khác: đó là sự mất trinh tiết của vợ Ơng. E rằng
lòng tín ngưỡng tôn giáo của vợ Ông không đủ nhiệt thành để giúp cho bà ấy có một
lòng hy sinh tuyệt đối, cũng như lòng hy sinh của chính ông, và thay vì sự an ủi
bằng cách nương mình trong hai cánh tay khỏe mạnh của một gã đàn ông khác, ông
ta bèn dùng những biện pháp cần thiết để làm cho một sự "An ủi" như
thể không thể thực hiện được. Hồi thế kỷ thứ 12 ở Âu Châu, có một thứ khí cụ rất
xảo diệu gọi là cái đai trinh tiết mà về sau người ta cũng được biết ở Pháp vào
năm 1935 và ở New York năm 1931, ở tại đây đã xảy ra hai vụ án về việc có những
người đàn bà bị chồng bắt buộc đeo cái đai trinh tiết này. Cái đai này gồm có
những mảnh sắt và da kết lại, bao bọc phần dưới thân mình của người đàn bà, và
được khóa lại bằng một ống khóa với một chìa khóa riêng, để cho người đàn bà
không thể giao hợp với người đàn ông nào khác. Chính bằng cách đó mà ông
Merceilieu muốn bảo đảm cho vợ Ông khỏi ngoại tình trong khi ông đi vắng. Cuộc
soi kiếp của ông Cayce nói về vấn đề này như sau: "Linh hồn này thuộc về hạng
người chồng nghi kỵ và bị bắt buộc phải đeo một khí cụ chướng ngại làm cho
đương sự rất khổ sở bực bội."
Danh từ "Bắt buộc" chỉ rằng bà Merceilieu không thỏa
thuận về việc này từ lúc đầu. Câu sau đó chỉ rằng về sau bà ấy còn đau khổ hơn
nhiều và "Quyết định sẽ trả thù khi có dịp thuận tiện. Sự cưỡng ép phải giữ
gìn trinh tiết làm cho bà ta có những quyết định tai hại; và chính những quyết
định này đã gây ra cho bà ta cái tình trạng hiện nay theo sự hành động của luật
Nhân Quả."
Bây giờ chúng ta hãy phân tách để tìm hiểu sự thưởng phạt
công bình của luật nhân quả trong trường hợp này. Người đàn ông trong kiếp trước
đã dùng loại khí cụ máy móc để gây sự chướng ngại khó khăn về tình dục cho vợ
y, bị trả quả bằng cách chính y bị bịnh bất lực trong kiếp này.
Thật không có quả báo nào đích đáng hơn nữa. Mới xem qua thì
hình như có sự bất công mà thấy rằng một người đàn bà bị áp chế một cách tàn nhẫn
như thế, lại phải chịu thiệt thòi về phương diện sinh lý đến hai lần. Nhưng sự
bất công đó chỉ là ở bề ngoài, vì tội lỗi con người gây ra không phải chỉ là do
những hành động bên ngoài mà thôi, nó còn do những ý tưởng, âm mưu, ác ý, và trạng
thái trong tâm hồn. Người đàn bà này đã bị chồng cưỡng ép một cách bất công. Phản
ứng của nàng đối với sự nghi kị và cách đối xử tàn nhẫn đó, là một lòng căm hờn
và ý nghĩ trả thù. Theo chỗ chúng ta thấy, thì lòng căm thù đó không biểu lộ ra
ngoài bằng cử chỉ, nhưng quyết định trả thù vẫn có. Trong một trường hợp trước
đây, chúng ta đã thấy rằng một quyết định có thể tồn tại suốt nhiều thế kỷ. Quyết
định trả thù của một người sẽ tạo ra một cơ hội thuận tiện cho nàng thi hành ý
định ấy. Trong kiếp này, người thiếu phụ ấy có một sắc đẹp lộng lẫy, yêu kiều,
và vô cùng hấp dẫn. Nàng kết hôn với một người đã làm khổ mình trong một kiếp
trước, và lần này có đủ mọi yếu tố cần thiết để làm cho chồng phải phát điên
lên vì ghen tuông, để hạ nhục chồng trước những bạn bè thân thuộc, hoặc gây sự
đau khổ cho chồng bằng một cuộc ly dị. Nàng còn muốn gì hơn nữa? Còn cơ hội nào
thuận tiện hơn nữa để trả thù một cách hoàn toàn, đích đáng, và vẻ vang?
Nhưng, trong thời kỳ trung gian, nàng đã tiến triển về phương
diện tâm linh. Từ nay nàng không thể nào có ác cảm đối với bất cứ một người
nào. Những bức thư của nàng từ đầu đến cuối đều tiết lộ sự đa cảm. Nàng có thể
ngoại tình dang díu với người tình nhân cũ, một sự ngoại tình mà nàng có thể dấu
chồng một cách dễ dàng. Nhưng nàng không thể chịu nổi cái ý tưởng làm khổ người
vợ kia, khi người này biết được câu chuyện tình vụng trộm ấy. Bởi đó, nàng cố
giữ mình. Sức khỏe về thể chất và tình cảm của nàng cần có sự thỏa mãn sinh lý
nhưng vẫn yêu chồng và không đòi ly dị. Nàng hy sinh sự đòi hỏi của dục tình, sắc
đẹp và nhựa sống của thời son trẻ để giữ một lòng son sắc và trung thành. Theo
lời lẽ bí hiểm nhưng tất có ý nghĩa trong cuộc soi kiếp, "Nàng đã gặp lại
chính mình." Trong cái tình trạng hiện tại, nàng đã gặp lại sự quyết định
cũ hồi thuở xưa, và đã chuộc lấy lỗi cũ. Nàng đã thành công trong sự thử thách
tự đặt cho mình từ sáu thế kỷ về trước. Thánh kinh có nhắc câu Chúa nói như
sau: "Sự báo thù là ở trong tay Ta: Ta sẽ trả đủ. Vì mọi sự vay trả đều phải
được thanh toán sòng phẳng, và tai họa sẽ đến với kẻ nào chưa thanh toán xong
những món nợ cũ!" Hai câu Thánh Kinh trên đây ám chỉ rằng người ta có thể
tin cậy vào luật nhân quả để trừng phạt kẻ tội lỗi; rằng người ta không cần phải
băng khoăn về sự kẻ đồng loại bằng chính bàn tay của mình. (Tuy nhiên, điều này
không có nghĩa là xã hội không có quyền tự bảo vệ chống lại kẻ sát nhân. Sự lên
án kẻ vi phạm luật pháp là một hành động hợp lý của xã hội để duy trì nền an
ninh công cộng và hạnh phúc của số đông người. Đó chỉ là sự áp dụng một cách vô
tư; hành động lên án không phải là một cử chỉ báo thù.)
Trong tập hồ sơ Cayce còn có một trường hợp khác về thảm kịch
gia đình cho việc dùng đai trinh tiết trong một kiếp của đôi vợ chồng nọ hồi thời
kỳ Thánh Chiến. Trong trường hợp này, luật quả báo hành động có hơi khác một
chút. Theo lời tường thuật của người vợ, thì chồng nàng là một người rất kiên
nhẫn, dịu hiền và thông cảm. Tuy nhiên, sau tám năm chung sống gia đình, người
đàn bà ấy vừa được 32 tuổi, vẫn luôn luôn sợ hãi sự chung chăn gối với chồng.
Người ta có thể hiểu rằng chỉ một sự kiện ấy cũng đủ làm cho tình trạng trở nên
khó khăn; nhưng nó còn phức tạp hơn vì người vợ lại thầm yêu trộm nhớ và say mê
một anh chàng ca sĩ sân khấu người Ý, bạn của gia đình nàng.
Cuộc soi kiếp giải thích lý do sự sợ hãi chung chạ với chồng
là do bởi kiếp trước người đàn bà này bị chồng cưỡng ép dùng đai trinh tiết
trong hồi thời kỳ người chồng phải đi tùng chinh trong trận Thánh Chiến. Luật
quả báo hành động thật đúng đắn vì người đàn ông này phải chịu hậu quả của hành
động kể trên bằng cách có một người vợ kém cỏi về đường tình dục và rất sợ
không muốn ngủ chung với y! Sự kiện rằng người vợ chịu khổ sở vì những rối rắm
trong gia đình gây nên bởi sự khủng hoảng tình dục kể trên cũng là một quả báo
của ỵ Đối với việc bị cưỡng ép mang đai trinh tiết hồi kiếp trước, thì phản ứng
của nàng là lòng căm thù. Và lòng căm thù tạo nên dây oan nghiệt. Cuộc soi kiếp
cho biết: "Những sự nghi nan và sợ sệt trong kiếp này là do bởi lòng thù hận
nung nấu tiềm tàng ở kiếp trước. Cái nhân xấu đó phải được tiêu trừ bằng sự
thông cảm và lòng ưu ái ở kiếp này. Vì bà phải biết tha thứ, nếu bà muốn được
tha thứ. "Sự say mê anh chàng ca sĩ nguyên nhân là do bởi một kinh nghiệm
khác: Người ca sĩ này là tình nhân của nàng trong một kiếp trước ở Đông Phương.
Đáp lại câu hỏi "Bây giờ tôi phải làm gì?" Cuộc soi kiếp nói:
"Bà hãy làm công việc gì phù hạp với cái lý tưởng mà bà đã lựa chọn."
Một lần khác, người ta lại thấy có yếu tố sợ hãi trong một
trường hợp với một nguyên nhân khác hẳn. Xét về sự đau khổ do quả báo đưa đến
thì câu chuyện này thật là bi đát; nhưng theo quan điểm phân tách tâm lý, thì
trường hợp sau đây trình bày những tài liệu rất hay để giúp cho ta nghiên cứu sự
tương quan của luật Nhân Quả, sự di truyền và ảnh hưởng của hoàn cảnh.
Hồi đó vào năm 1926, người đàn bà viết như sau:
"Tôi quá đau khổ đến nỗi tôi sắp sửa phát điên và tự tử.
Tôi là người đàn bà vô phước nhất đời, và để làm dịu bớt đau khổ, tôi phải dùng
chất ma túy. Mẹ tôi là người đã chịu đau đớn vô ngần vì đẻ khó hết sáu lần. Suốt
đời tôi đã từng nghe mẹ tôi nói về sự đau đớn khi sinh đẻ. Vì vậy khi tôi có chồng
cách 18 năm nay đến giờ, tôi sợ mang thai đến nỗi tôi phải xa chồng yêu quý của
tôi vì tôi không thể chung chạ được với ỵ Tôi đã cầu nguyện; tôi đã áp dụng thử
khoa tâm lý, khoa chữa bịnh thần kinh, thậm chí đến khoa học Công giáo... Nhưng
không kết quả. Ông hãy xem tôi còn hy vọng nào chăng? Tôi muốn có con và tôi vẫn
yêu chồng, nhưng sự chung chăn gối làm cho tôi sợ hãi, và bây giờ thì tệ hơn
bao giờ hết, vì như tôi đã nói, tôi saün sàng tự tử. Tôi vừa muốn tự vẫn trong
tuần này, thì nghe nói về công việc của ông làm... "
Cuộc soi kiếp truy nguyên tấn thảm kịch của người đàn bà này ở
hai kiếp trước. Trong kiếp đó nàng sống một cách ích kỷ, xa hoa và say mê thú
vui vật chất dưới thời hoàng triều nước Pháp. Đó là một cuộc đời nhộn nhịp vui
tươi, nhưng nàng đã gieo hột giống cho tấn thảm kịch nối liền theo sau: Cùng với
những nhà khai thác thuộc địa đầu tiên đến Bắc Mỹ Châu, nàng sinh hạ được sáu đứa
con và về sau nhìn thấy tất cả sáu đứa con bị thiêu sống. Cuộc soi kiếp:
"Linh hồn này không dứt sợ sệt suốt đời nàng kể từ khi đó. Nàng đã mất tin
tưởng nơi đấng Thiêng Liêng và nuôi lòng oán hận Chúa Trời vì không che chở cho
nàng và cho các đứa con. Bởi đó trong kiếp này nàng sợ có con, và chịu mọi hậu
quả của sự sợ sệt đó." Tấn thảm kịch xảy ra hồi thời kỳ khai thác thuộc địa
ở Bắc Mỹ có thể hiểu được. Vì chúng ta biết rằng chỉ có sự thất bại về vật chất,
người ta mới quay trở về những vấn đề tâm linh. Nhưng trong khi nàng đang phải
trả quả báo cũ, thì vô tình lại gây thêm nghiệp quả mới. Dầu cho đối với một
người đàn bà ích kỷ, việc phải nhìn thấy sáu đứa con chết thiêu là một sự đau
khổ rất lớn. Nhưng nàng không vượt qua nổi cơn thử thách đau khổ này. Y phải chọn
một trong hai điều phản ứng: Một sự đành cam số phận với một lòng thương nảy nở
dồi dào; hoặc một sự sợ hãi với một tấm lòng đầu oán hận; nàng đã chọn lựa cái
phản ứng sau này.
Trong số những ý nghĩ mà người ta có thể có đối với tai họa xảy
đến, chẳng hạn như: "Tai học này đến với ta là do ý muốn của Thượng Đế. Ý
muốn đó tuy khó lường, nhưng chắc hẳn là rất công bình."
hoặc là: "Tai họa này đến với ta là do sự bất công của một
đấng Thượng Đế tàn nhẫn và độc ác."
hoặc là: "Do sự tình cờ may rủi của một cái vũ trụ khô
khan không mục đích và không có Thượng Đế." thì người đàn bà ấy đã lựa chọn
cái ý nghĩ thứ ba và cuối cùng.
Và như thế, nàng còn có một bài học cần thiết phải học thuộc
là: "Một tình thương bác ái bao la sẽ đánh đuổi sự sợ sệt." Nàng phải
dứt bỏ cái quan niệm ích kỷ và duy vật đối với cuộc đời; phải tập mở lòng
thương rộng lớn bao la để thương yêu người chồng; để thương yêu những linh hồn
sẽ đầu thai thai và chọn nàng làm mẹ; để kính yêu cái quyền năng sáng tạo,
thiêng liêng mà trời phú cho người đàn bà làm vợ và làm mẹ. Nói tóm lại, để
thương yêu tất cả với tấm lòng bác ái vô biên đến nỗi những sự sợ hãi về sự đau
đớn của thể xác không thể nào biểu lộ được nữa.
Phần 4:
Chương 16 - Ngoại Tình Và Ly Dị
Trong tất cả những xứ theo chế độ một vợ một chồng, thì sự
ngoại tình là một việc vẫn thường xảy ra. Sự giải thích căn bản của hiện tượng
này có lẽ là vì lý do sinh lý, theo như câu ngạn ngữ dưới đây của một tác gia
vô danh đã biểu lộ tình trạng ấy:
Higamus, pigamus (Nam đa thê)
Hogamus, pogamus (Nữ nhất phu)
Trong những nguyên nhân của vấn đề ngoại tình, ngoài ra yếu tố
sinh lý lẽ tất nhiên còn có những yếu tố xã hội và tâm lý khác nữa. Những nếu
muốn người ta áp dụng thuyết Luân Hồi, thì thật là một điều lý thú mà tìm hiểu
xem sự ngoại tình có thể là do vấn đề nhân quả hay không? Những tập hồ sơ của
Cayce có ghi chép ba trường hợp đáng kể mà sự ngoại tình dường như do nhân quả
gây nên.
Trường hợp thứ nhất là của một thiếu phụ có hai con, mà người
chồng đi ngoại tình với một người đàn bà khác trong tám năm. Người vợ chỉ biết
được việc ấy trong hai năm sau cùng. Trong cuộc soi kiếp, nàn hỏi tại sao phải
chịu một sự phụ bạc đau đớn như thế? Câu trả lời là: "Đó là trong kiếp trước
bà đã ngoại tình với một người đàn ông khác."
Trường hợp thứ hai là của một phụ nữ phản bội chồng một cách
trắng trợn trong kiếp trước, dưới thời Hoàng Triều trong nước Pháp. Hiện nay nàng
đã sống lại những hành vi tương tự với người chồng nàng bây giờ, người này
chính là tình nhân của nàng trong kiếp trước.
Trường hợp thứ ba là của một người đàn bà mà người chồng
trong năm đầu tiên sau khi thành hôn, bắt đầu chè chén say sưa và chơi bời đàn
điếm. Có nhiều lần, y lại đem người đàn bà khác về nhà. Người vợ vẫn trung
thành và sống chung với chồng, khi chồng nàng không đem tình nhân về nhà; rốt
cuộc nàng lại mắc phải bịnh phong tình do người chồng sang quạ Cuộc soi kiếp
truy nguyêncái thảm trạng của người đàn bà này ở kiếp trước. Trong kiếp trước,
nàng là đứa con hoang của một người thủy thủ Mỹ và một người đàn bà Nhật. Có lẽ
sự kiện này gây cho nàng cái ý niệm rằng nàng là một kẻ ngoài vòng pháp luật.
Khi lớn lên, nàng tự thả trôi theo một cuộc đời chơi bời trụy lạc. Không bao
lâu, nàng đã gieo rắc bịnh phong tình cho nhiều người đàn ông khác. Cuộc soi kiếp
nói: "Bởi những nghiệp xấu gây ra đã đem lại quả báo cho đương sự trong kiếp
này."
Nói tóm lại, những trường hợp kể trên dường như chỉ rằng sự
phản bội của một người chồng hay vợ là do nhân quả gây nên. Những thí dụ đó
không phải để chứng minh rằng tất cả mọi trường hợp ngoại tình đều là do quả
báo. Việc Dũng phản bội Tuyết có thể do nơi quả báo mà Tuyết phải chịu vì Tuyết
đã phản bội Sơn trong một kiếp trước; nhưng dầu sao sự ngoại tình của Dũng cũng
có thể do những khuyết điểm trong tâm tính của Tuyết bây giờ. Sự ngoại tình rất
có thể chỉ là một phản ứng nhất thời đối với một tình trạng hiện tại. Muốn biết
xem một trường hợp ngoại tình có phải là do nhân quả hay không, nếu chúng ta
không có Thần Nhãn để xem quá khứ, thì ta cần phải xét cả những yếu tố lỗi lầm
hay khuyết điểm của người vợ hay người chồng lúc hiện tại, nó làm cho đương sự
đi tìm nguồn an ủi ở một người tình nhân khác.
Theo luật nhân quả, nếu một người đã ngoại tình trong quá khứ,
thì phải chịu quả báo tương đương trong hiện tại. Chỉ bằng cách đó mà người ta
có thể phát triển những đức tánh trung thành và tình thương đối với kẻ khác.
Chính vì bởi cái lý do cần thiết đó trong sự giáo dục và đào luyện tâm tính, mà
những cuộc soi kiếp của ông Cayce nhiều khi khuyên không nên ly dị. Nếu một người
phải học một bài học tâm linh trong một cuộc hôn nhân đau khổ, thì nàng không
có lợi gì mà đoạn tuyệt và trốn tránh, vì sớm hay muộn gì, người ấy cũng phải tự
tạo lấy một sức mạnh tinh thần cần thiết để đối phó với nghịch cảnh đó.
Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp không hề ngăn cấm sự ly dị một
cách tuyệt đối, mà có nhiều trường hợp lại tán thành sự ly dị. Những tiêu chuẩn
để xét đoán xem một trường hợp ly dị là nên hay không nên, dường như có hai loại:
Bổn phận đối với những đứa con và bổn phận giữa hai vợ chồng lẫn nhau. Những
trường hợp mà ông Cayce khuyên nên ly dị một cách rõ rệt thường là những trường
hợp mà hai vợ chồng không có con. Hoặc nếu có con, thì đó là những trường hợp
mà sự ly dị sẽ có lợi cho những đứa con; những trường hợp mà bài học nhân quả
đã được thấm nhuần; hay là những trường hợp mà một trong hai vợ chồng không đối
phó nổi với hoàn cảnh và lôi cuốn cả hai người kia xuống vực sâu.
Một trường hợp điển hình là của một người đàn bà ở tiểu bang
New Jersey, 49 tuổi, không có con, và trong hôn nhân không có hạnh phúc. Cuộc
soi kiếp khuyên nàng nên bỏ chồng và nên dùng khả năng của mìnhd để đi dạy học.
Cuộc soi kiếp nói: "Hôn nhân là một việc tốt, đó là một đời sống tự nhiên
cho một linh hồn ở trên thế gian. Nhưng khi nào đời sống giữa vợ chồng thiếu sự
điều hòa đến nỗi làm ngăn trở sự thực hiện những mục đích căn bản của cuộc đời,
nó là cái lẽ sống của một linh hồn ở cõi trần, và nếu sự mất điều hòa ấy quá rõ
rệt, không thể sửa đổi được nữa, thì tốt hơn là hai người nên phân ly nhau. Hãy
nên biết tự trong thâm tâm rằng bà nên thực hiện công việc mà bà có bổn phận phải
làm ở cõi trần. Tuy rằng bà bắt đầu hơi trễ, nhưng bà còn có thời giờ làm được
nhiều việc bằng cách dạy dỗ những em gái trẻ thơ... "
Một thí dụ trái ngược hẳn với thí dụ trên, là trường hợp của
một người đàn bà lớn hơn chồng đến hai mươi tuổi. Giữa hai người có một sự bất
hòa rất lớn; người chồng say sưa chè chén quá độ, đánh đập vợ con và có một
cách cư xử rất thô bỉ. Cuộc soi kiếp không có nói đến vấn đề quả báo trong trường
hợp này, nhưng không khuyên hai người ly dị. Cuộc soi kiếp nói: "Giữa hai
người đã xảy ra những xung đột và bất đồng ý kiến. Hai người đừng tìm cách
tránh xa nhau, mà hãy có một thái độ thản nhiên, hòa hưõn với nhau. Đừng để ý
quá nhiều đến những sự khinh rẻ hay trách móc, giận hờn; mà hãy biết rằng thật
ra bà chỉ gặt hái những gì bà đã gieo. Vậy bà hãy cố gắng săn sóc giúp đỡ chồng
trong mọi trường hợp và làm cho người chồng tất cả những gì mà bà muốn chồng bà
sẽ làm cho bà... "
Người ta có thể nghĩ rằng trong trường hợp này, đương sự có một
bài học nhân quả cần phải học, hay là một món nợ quả báo cần phải trả. Vì không
có đủ bằng chứng soi xét bằng Thần Nhãn về những sự việc xảy ra trong các kiếp
trước, người ta nhìn nhận rằng thật không dễ gì mà biết được lúc nào là lúc nên
đoạn tuyệt và ly dị. Có một định luật quân bình trong vũ trụ nó hành động một
cách thường xuyên, va dầu cho ta có những hành động ích kỷ như thế nào, không
có cái lò lửa nào để đốt tan sự ích kỷ đó một cách hữu hiệu hơn là cái lò hôn
nhân. Bởi đó, chúng ta hãy chấp nhận những khó khăn, trắc trở trong đời sống vợ
chồng với một tinh thần hy sinh và nên biết rằng cái phàm ngã của ta phải chịu
những đắng cay, thử thách, để cho cái Chơn Ngã của ta có thể biểu lộ và phát
triển.
Xét vì người bạn trăm năm đến với ta do bởi dây nhân duyên đã
có từ trước; xét vì không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ, mà do ý muốn của Chơn
Ngã nó dìu dắt ta đến gặp gỡ và sống trong một hoàn cảnh nhất định nào đó, dầu
cho đó là một hoàn cảnh khó khăn trắc trở; xét vì giữa sự bất hòa có một cơ hội
cho ta tiến hóa bằng sự quên mình và hành động vị tha, nên chúng ta coi sự ly dị
hầu như một điều thiếu sót. Trái lại nếu chúng ta nhìn nhận rằng không có một
chế độ nào có quyền cưỡng ép bất cứ một người nào sống trong sự giam hãm trói
buộc, nó là nguồn gốc của mọi sự xung đột, bất hòa và trái hẳn với tâm tình
tánh chất của y; rằng những viên ngọc quý của một mối tình vị tha không nên đem
quăng cho những con lợn ích kỷ, thì chúng ta sẽ hoan nghinh sự ly dị như một biện
pháp hợp lý và lành mạnh, cũng như chúng ta hủy bỏ một bản hợp đồng hay khế ước
không hợp pháp chẳng hạn. Như thế chúng ta đã trở về với sự quân bình, sự Ôn
hòa, và theo cái luật lệ vàng của con người trung đạo.
Chương 17 - Nghiệp Quả Giữa Cha Mẹ Và Con Cái
Trong nhiều thế kỷ, gia đình là một tổ chức riêng biệt mà người
gia trưởng là người cha, hay người mẹ, theo phong tục ở một vài xứ. Những tổ chức
gia đình ấy vẫn luôn luôn tồn tại ở khắp nơi. Theo một quan niệm duy vật, người
ta coi những trẻ con như là một sở hữu của cha mẹ của chúng: Chúng sinh ra do bởi
sự mang nặng đẻ đau và hy sinh của người mẹ; chúng được nuôi dưỡng do bởi sự làm
lụng khó khăn vất vả của cha mẹ. Nói về phương diện vật chất, những người làm
cha mẹ có một thể chất khỏe mạnh hơn, già dặn hơn thông minh hơn những đứa con;
vì lẽ đó, họ có quyền ngự trị trong gia đình.
Nhưng nói về phương diện tâm linh, thì không hề có vấn đề cha
mẹ là tuyệt đối cao cả hơn con cái. Tất cả sinh linh trong Trời Đất đều là những
đơn vị bình đẳng của toàn thể một cơ cấu rộng lớn. Trên bình diện tâm linh, cha
mẹ không có sở hữu con cái, thậm chí cũng không phải là những người sáng tạo ra
con cái. Họ chỉ là những phương tiện cho những linh hồn của những đứa con mượn
chỗ đầu thai ở cõi thế gian. Một sự vận hành mầu nhiệm trong cơ thể họ khiến
cho họ giao hợp với nhau trong một lúc và làm vận chuyển một cơ cấu cũng không
kém mầu nhiệm, mà kết quả là sự cấu tạo và sinh sản ra một thể xác hài nhị Cái
thể xác đó trở nên chỗ nương ngụ của một linh hồn khác cũng tiến hóa như chúng
tạ Linh hồn ấy nhất thời bị yếu kém và không biết nói, trách niệm và bổn phận của
chúng ta trong sự nuôi dưỡng cho nó lớn lên, đều là những kinh nghiệm rất quý
báu cho tạ Đó là những kinh nghiệm giúp ta khai mở đức hy sinh và bác ái, với một
tấm lòng thương cảm và trìu mến sâu xa thâm trầm.
Những sự việc tốt lành kể trên chỉ xảy ra khi người làm cha mẹ
không có lòng chiếm hữu và áp chế con cái dưới một hình thức nào đó. Trong quyển
"The Prophet", ông Khalil Gibran viết như sau:
"Con cái của anh sinh ra, không phải là của anh.
Chúng nó chỉ là con cái của "Sự sống bất diệt trường tồn"
Chúng nó do bởi anh sinh ra, chớ không phải là của anh.
Và tuy chúng sống chung với anh trong một nhà,
nhưng chúng không thuộc quyền sở hữu của anh.
Anh chỉ là những cái cung nhờ đó những đứa con anh lấy đà
vùng vẫy,
chẳng khác nào như mũi tên bắn ra tận bốn phương trời.
Người Cung Thủ kéo sợi dây cung là nhằm mục đích hòa vui, và
trong khi Người yêu cái mũi tên bay, Người cũng yêu cái cung còn ở lại."
Đối với con cái, những bậc phụ huynh không nên có một thái độ
áp chế của kẻ bề trên, hoặc một thái độ ganh ghét ruồng bỏ. Một thái độ bình thản
ôn hòa là thái độ thích nghi nhất của người cha mẹ đối với con cái mà họ có bổn
phận nuôi dưỡng chăm nom. Họ chỉ có được thái độ ấykhi nào họ hiểu biết điều
chân lý căn bản này, là tất cả chúng sinh, tất cả mọi sinh linh đều bình đẳng với
nhau. Nói theo danh từ thường dùng trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những
người làm cha mẹ là những con "Kinh vận hà" để cho nguồn sinh hoạt đi
xuyên qua, và nhờ đó những linh hồn có phương tiện để đầu thai ở cõi trần. Bởi
vậy những cặp nam nữ sắp sửa thành hôn được khuyên nhủ và dặn dò về tánh cách
thiêng liêng của sự giao hợp giữa vợ chồng. Quan điểm này đúng với quan điểm
triết học Ấn Độ cho rằng vấn đề tình dục và sinh lý giữa nam nữ có một ý nghĩa
thiêng liêng và cao quý. Nhưng bất hạnh thay, khoa Thần học cổ truyền của đạo
Gia Tô lại coi mọi vấn đề liên quan đến sự sinh dục như là dấu vết của tội lỗi.
Do một sự hiểu lầm đáng tiếc về biểu tượng diễn tả trong Chương La Genèse của bộ
Thánh Kinh, toàn thể nhân loại bị coi như là kết quả của "Tội lỗi nguyên
thủy" gây ra bởi ông Adam và bà Evẹ Tuy rằng lễ hôn phối hợp pháp hóa sự
giao hợp giữa vợ chồng, người ta vẫn nghĩa rằng con cái được sinh sản ra trong
vòng tội lỗi. Đó là những quan niệm sai lầm về vấn đề sinh lý tự nhiên của cơ
thể con người theo như ý muốn của Thượng Đế. Quan niệm sai lầm ấy có những hậu
quả tâm lý rất tai hại, gây nên những sự dồn ép sinh lý, ý niệm tội lỗi và những
xung đột tâm lý thuộc về loại trầm trọng và tê liệt nhứt.
Tuy nhiên, giải pháp đối tượng của vấn đề này không phải là tự
do luyến ái, hay tự do thỏa mãn dục tình. Giải pháp thích nghi là sự thông hiểu
một cách tường tận rằng cơ năng sinh sản sáng tạo của con người là một quyền
năng thiêng liêng. Một cuộc soi kiếp nói: "Ái tình và sự giao hợp với một
thể xác tinh khiết là cái kinh nghiệm thiêng liêng cao quý nhất một linh hồn có
thể thâu thập trong một kiếp sống ở cõi trần." Quan điểm này được nhấn mạnh
trong nhiều cuộc soi kiếp, và người ta nhận thấy nó trong những trường hợp mà một
người phụ nữ muốn biết xem nàng có thể nào có con được không? Trong những trường
hợp đó đương sự thường yêu cầu một cuộc khán bịnh rằng Thần Nhãn để xem nàng có
thể tự chuẩn bị bằng cách nào để thụ thai và sinh sản. Trong những cuộc khán bịnh
đó, những phép điều trị về cơ thể nêu ra rất nhiều, nhưng không có gì khác thường.
Có khác chăng là sự soi xét bằng Thần Nhãn giúp cho ông Cayce biết rõ nhu cầu của
mỗi cơ thể riêng biệt của mỗi người tùy theo trường hợp. Tuy nhiên, những cuộc
soi kiếp cũng nhấn mạnh về tánh cách quan trọng của sự chuẩn bị tư tưởng và tâm
linh, vì thái độ tinh thần của người mẹ sẽ hấp dẫn những linh hồn cùng có một
tâm trạng tương tự, theo luật "Đồng thinh tương ứng; đồng khí tương cầu."
Cuộc soi kiếp nói: Linh hồn này hãy nên biết rằng sự chuẩn bị
tư tưởng và tâm linh là một việc có tính cách sáng tạo, cũng cần thiết như sự
chuẩn bị về thể chất, có lẽ còn cần thiết hơn.
Đối với một người đàn bà ba mươi sáu tuổi hỏi ông rằng bà ấy
còn hy vọng có con hay không, cuộc soi kiếp nói: "Bà hãy tự luyện mình
thành một khí cụ tốt lành hơn về mọi mặt thể chất, trí não, và tâm linh. Người
đời thường có thói quen chỉ xem sự thụ thai như một việc làm thuộc về thể chất
mà thôi."
Một cuộc soi kiếp khác nói: "Do sự giao hợp, con người
có dịp tạo nên một đường vận hà để cho đấng Tạo Hóa có thể hành động xuyên qua
nàng bằng quyền năng Sáng Tạo của Ngài. Vậy đương sự hãy cẩn thận coi chừgn
thái độ của mình và của người bạn trăm năm của mình khi các người tạo nên các
cơ hội đó, vì linh hồn đầu thai vào làm con các người sẽ có một tánh tình tùy
thuộc một phần nào ở thái độ của cha mẹ."
Những cuộc soi kiếp cho biết rằng những mối liên hệ giữa cha
mẹ và con cái không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ. Những sợi dây liên lạc thường
đã có saün từ những kiếp trước giữa người con với người mẹ hay người chạ Trong
những trường hợp rất hiếm mà sợi dây liên lạc đó không có, thì tình trạng gia
đình tạo nên cái hoàn cảnh thích ứng với nhu cầu tâm lý của đứa trẻ. Những hồ
sơ Cayce cho biết rằng vài đứa trẻ có một sợi dây duyên nghiệp với người cha mà
không có với người mẹ, hoặc đảo ngược lại, có duyên nghiệp với người mẹ mà
không có người chạ Trong những trường hợp đó, thườgn có một trạng thái dửng
dưng giữa đứa con với người cha hay người mẹ mà nó mới quen biết lần đầu tiên
trong kiếp này. Những trường hợp dưới đây chỉ cho ta thấy một cách đặc biệt nhiều
mối liên hệ khác nhau giữa cha mẹ và con cái.
Hai mẹ con người kia có một tình mẫu tử rất khắn khít: Họ đã
là hai mẹ con trong kiếp trước. Hai cha con người kia cũng có một tình phụ tử nồng
nàn: Trong một kiếp trước họ đã là hai anh em trong một gia đình. Một người mẹ
không hạp với con gái của bà: Họ chưa từng có sự liên hệ gì với nhau ở trong kiếp
trước. Giữa một người con gái kia với người mẹ của cô ấy, chỉ có một sự dửng
dưng lạnh nhạt; cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước hai người là hai chị em ruột
nhưng lại có một mối bất hòa trầm trọng: Hai người thường xung đột cãi vả lẫn
nhau, và vẫn chưa hòa thuận trở lại. Hai cha con người kia kiếp trước là hai vợ
chồng. Một người mẹ và con gái thường xugn đột lẫn nhau: Trong kiếp trước, họ
là hai bạn gái tranh dành nhau một người đàn ông vàtranh dành địa vị. Trong hai
mẹ con người, người con trai hay lấn át người mẹ: Trong kiếp trước, họ là hai
cha con, với sự liên hệ gia đình trái ngược lại.
Những trường hợp đó chỉ rằng sự hấp dẫn của con cái đến với
cha mẹ là do bởi sự hành động của nhiều nguyên tắc. Những nguyên tắc đó nhiều đều
ẩn dấu đối với cặp mắt phàm của chúng tạ Những hồ sơ Cayce giúp cho ta có những
tài liệu suy gẫm, nhưng không có đầy đủ chi tiết để cho ta có thể dịch ra thành
một định luật nhất định.
Theo luật hấp dẫn, những người đồng thanh khí và giống nhau về
tâm tình tánh chất thường rút lại gần nhau. Nhưng đồng thời, vì những lý do
nhân quả, những kẻ thù nghịch cạnh tranh nhau và tâm tính tánh chất đối chọi
nhau thường cũng hay rút lại gần nhau. Một thí dụ điển hình là trường hợp một đứa
trẻ được ông Cayce soi kiếp khi mới lên năm tuổi. Cuộc soi kiếp cho biết những
đặc tính của đứa trẻ là thói ích kỷ, sự thờ ơ lãnh đạm và ngoan cố không chịu
phục thiện khi y có lỗi. Y có những khả năng tiềm tàng của một nhà khảo cứu
khoa học. Trong một kiếp trước, y là một nhà sưu tầm về tiềm lực của hơi nước
như là một khí cụ sản xuất tinh lực. Ở một kiếâp trước, y là một chuyên viên
hóa học chế tạo cac loại chất nổ; trong kiếp trước nữa y là một chuyên viên
ngành cơ khí; và đi lùi về dĩ vãng một kiếp nữa; người ta thấy y là một kỹ sư
điện khí ở châu Atlantidẹ Bốn kiếp dành cho sự hoạt động tích cực về ngành khoa
học thực dụng đã làm ch đương sự hoạt động tích cực về ngành khoa học thực dụng
đã làm cho đương sự phát triển những khả năng đặc biệt, nhưng y lại quá thiên về
giá trị của khoa học vật chất mà khinh rẻ giá trị của tình thương, đức tính mỹ
lệ, và sự hợp nhất tâm linh của mọi loài vạn vật.
Bởi đó, y có một thái độ thản nhiên lạnh lùng đối với người
chung quanh. Cuộc soi kiếp còn cho biết rằng đứa trẻ ấy sẽ thành công vẻ vang
trong kiếp này nếu nó theo đuổi ngành kỹ thuật điện khí, hay cơ khí dùng sức mạnh
của hơi nước, và gồm một công việc có dùng đến sự tính toán bằng phép đại số. Lời
tiên tri đã tỏ ra hoàn toàn đúng. Đứa trẻ ấy bây giời đã trở nên một viên kỹ sư
điện khí và những điểm chính trong tánh tình của y đều giống y như cuộc soi kiếp
đã tiết lộ, tuy rằng y đã có một sự thay đổi tánh tình nhờ ảnh hưỡng của hoàn cảnh
gia đình trong kiếp hiện tại.
Nếu nói rằng theo luật đồng khí tương cầu, những người giống
nhau sẽ rút lại gần nhau, thì trng trường hợp này có lẽ đứa trẻ đã sinh ra
trong một gia đình khoa học trí thức, mà người cha có lẽ là một kỹ sư và người mẹ
là một giáo sư toán pháp ở một trườgn Đại Học chẳng hạn. Nhưng trái lại, y lại
sinh ra trong một gia đình gồm những người nuôi lý tưởng vị tha, không có óc hoạt
động thực tế. Người cha có óc tín ngưỡng tôn giáo và thích hoạt động xã hội;
người mẹ tuy rằng bề xã giao hơi kém, nhưng có khuynh hướng hoạt động xã hội do
ảnh hưởng của người chạ Người anh cả của đứa trẻ cũng là một người có lý tưởng
vị tha, và sự hoạt động chính của y trong đời là giúp đỡ kẻ khác.
Xét về bề ngoài, thì sự đầu thai của một đứa trẻ như thế
trong gia đình kể trên không thể nói là do nhân quả gây nên. Tuy nhiên, dường
như có một nguyên tắc sửa đổi, chấn chỉnh những điều thiên lệch để đem lại sự
thăng bằng trong tâm tính của một con người. Có thể rằng linh hồn đứa trẻ đã nhận
thấy sự khuyết điểm của mình và đã chọn lựa đầu thai vào một gia đình có lý tưởng
vị tha giúp đời, để cho y có cơ hội phát triển khía cạnh vị tha bác ái trong
tâm tính của y.
Trong kiếp hiện tại, đứa trẻ luôn luôn có dịp tiếp xúc với những
người mà mục đích chính trong đời là phụng sự kẻ khác. Óc thực tế của y thường ảnh
hưởng đến những người khác trong gia đình một cách lành mạnh, trái lại, lý tưởng
vị tha của họ hằng ngày đều nhắc nhở cho y biết rằng ngoài ra những giá trị thực
tế và vật chất của cuộc đời, còn có những giá trị đạo đức tâm linh. Tuy rằng
kinh nghiệm đó không có đem đến một sự thay đổi hoàn toàn trong cái giá trị căn
bản của cuộc đời y là khoa học thực dụng, nhưng nó đã ảnh hưởng đến con người của
y bằng cách làm cho y trở nên bớt ích kỷ khô khan và trở nên cởi mở hồn nhiên
hơn về mặt giao tế ngoài xã hội.
Như thế, việc chọn lựa hoàn cảnh để đầu thai dường như đã đạt
được mục đích sửa đổi tâm tính và cuộc đới của y ít nhất là một phần nào. Những
tài liệu hồ sơ Cayce chứng minh một cách đầy đủ rằng những linh hồn sắp sửa tái
sinh trở lại cõi trần có ít nhiều tự do trong việc chọn lựa hoàn cảnh và gia
đình nào họ muốn đầu thai. Có vài bằng chứng chỉ rằng đối với những linh hồn
kém tiến hóa, thì sự tự do chọn lựa ấy có giới hạn, nhưng nói chung thì sự lựa
chọn cha mẹ để đầu thai dường như là một cái đặc quyền của mỗi linh hồn. Người
ta không dễ hiểu lý do tại sao một linh hồn lại cố tình chịu đầu thai vào một
nhà ổ chuột tôi tăm trong ngõ hẻm, với những cha mẹ bần cùng khốn khó, một thể
xác yếu đuối bệnh tật, và những hoàn cảnh bất lợi khác. Xét qua bề ngoài thì dường
như một sự chọn lựa như thế có vẻ vô lý; nhưng nếu xét kỹ người ta thấy rằng điều
ấy cũng có một lý do sâu xa: Có khi một linh hồn cố ý chọn lựa một hoàn cảnh xấu
xa bất lợi để làm phương tiện lấy đà, hầu có nỗ lực cố gắng vượt qua mọi chướng
ngại và chiến thắng nghịch cảnh.
Có một điều lạ là sự tự do chọn lựa ấy dường như là có một ảnh
hưởng đến tỷ lệ chết yểu của trẻ con. Nói chung thì khi sinh ra, một linh hồn
có thể thoáng thấy một phần nào cái viễn ảnh cuộc đời tương lai của mình ở thế
gian, khi y chọn lựa cha mẹ của y và hoàn cảnh để đầu thai. Nhưng vì con người
còn có quyền xử dụng ý chí, tự do nên luật Tự Nhiên khiến cho y không thể nào
biết trước tất cả mọi việc xảy ra trong tương lai. Sau khi đã chọn lựa cha mẹ
và sinh ra ở thế gian, một linh hồn có thể nhận thấy rằng những người làm cha mẹ
của y không ứng đáp lại đúng y như nguyện vọng của y sở cầu. Bởi đó, cái mục
đích của y nhắm khi đầu thai vào làm con trong gia đình ấy đã hỏng, vì y đã gặp
phải những hoàn cảnh khác hẳn, nên linh hồn bèn không muốn sống nữa và tự ý rút
lui.
Dưới đây là một trường hợp một thiếu phụ mà cuộc soi kiếp cho
biết rằng trong một kiếp trước, nàng đã bị chết yểu. Kiếp này nàng đầu thai trở
lại một gia đình nọ do bởi sự hấp dẫn của người mẹ, nhưng sau khi sinh ra nàng
được ít lâu thì người cha bắt đầu say sưa chè chén, trở nên thô lỗ cộc cằn và
đánh đập vợ con. Thất vọng vì cảnh gia đình ấy, linh hồn đứa trẻ bèn quyết định
không sống nữa và sau một cơn đau ốm vặt thuộc về bịnh trẻ con, nàng bèn từ giả
cõi trần để trở về chốn cũ! Cuộc soi kiếp cho biết rằng những sự "Rút
lui" như thế là những hiện tượng rất thông thường. Nếu như vậy, thì sự chết
yểu của trẻ con, ít nhất trong vài trường hợp, có thể ví dụ như sư rút lui âm
thầm của một khán giả đi xem hát, bị thất vọng khi xem một màn đầu không được hấp
dẫn, bèn lẳng lặng đứng dậy bỏ ra về. Trong vài trường hợp như trường hợp kể
trên, một sự rút lui như thế có thể là do sự lỗi lầm của những người làm cha mẹ;
nhưng trong những trường hợp khác, nó chỉ là do sự xét đoán sai lầm của linh hồn
đầu thai.
Đôi khi, sự chết yểu của một đứa con vừa sinh ra có thể được
coi như một kinh nghiệm đau khổ cần thiết cho những người làm cha mẹ. Đứa con
chỉ sinh ra có một lúc ngắn ngủi với một tinh thần hy sinh, để đem lại cho một
bài học đau khổ mà họ cần dùng, và nhờ đó họ sẽ có cơ hội tiến hóa về tinh thần.
Một điểm lý thú khác đã được xác nhận rõ ràng và nhiều lần
trong những tập hồ sơ của Cayce, là lúc thụ thai không phải là lúc linh hồn của
đứa trẻ nhập vào trong bụng người mẹ. Những cuộc soi kiếp thường khuyên các bà
mẹ có mang hãy giữ gìn tư tưởng trong thời kỳ thai nghén, vì những tư tưởng của
người mẹ có thể ảnh hưởng đến cái bào thai, và quyết định một phần nào về loại
linh hồn nào sẽ đầu thai vào làm cho con họ.
Dưới đây là một đoạn vấn đáp trong tập hồ sơ Cayce về vấn đề
này:
Hỏi: "Tôi phải có một thái độ tinh thần như thế nào
trong những tháng sắp tới?"
Đáp: "Điều ấy tùy nơi loại linh hồn mà bà mong muốn sẽ đầu
thai làm con bà. Nếu bà muốn con là nghệ sĩ, nhạc sĩ, bà hãy nghĩ đến âm nhạc,
nghệ thuật và mỹ lệ. Bà muốn có con giỏi về máy móc chăng? Như vậy, bà hãy nghĩ
đến cơ khí, hoặc làm lụng, hoạt động với các loại máy móc. Bà chớ tưởng rằng điều
ấy không có ảnh hưởng gì! Đây là một điều mà các bà mẹ nên biết: Tâm trạng của
một người mẹ trong khi thai nghén có ảnh hưởng rất nhiều đến tánh tình của đứa
trẻ sẽ đầu thai vào làm con các bà."
Theo những tài liệu của ông Cayce thì linh hồn có thể nhập
vào bào thai khi còn nằm trong bụng mẹ trước khi sinh ra, hoặc ít lâu sau khi
sinh ra, hoặc ngay vừa lúc mới sinh ra. Có thể sau khi sinh ra đến hai mươi bốn
giờ đồng hồ, linh hồn mới nhập vào thể xác đứa trẻ; và trong vài trường hợp,
cũng có sự thay đổi vào giờ chót về linh hồn nào sẽ nhập ào. Điều này mới nghe
qua thì dường như không đúng với thuyết Luân Hồi nếu người ta tin rằng một thể
xác có thể sống mà không có linh hồn ngự trị Ở bên trong; nhưng sự thật, điều ấy
không phải là hoàn toàn vô lý. Những người Thông Thiên Học gọi thể xác là cái
khí cụ của linh hồn.
Chúng ta hãy thử lấy thí dụ sau đây để giải thích vấn đề kể
trên: Một chiếc xe hơi đã được chế tạo xong, giàn xe đã lắp xong xuôi, bộ đồ
đèn lửa đã bắt cháy; chiếc xe đã bắt đầu quay máy và động cơ đã chạy, nhưng người
lái xe vẫn chưa xuất hiện và chưa vào ngồi trong xe. Dùng thí dụ đó để so sánh
thì ta có thể quan niệm rằng khi hài nhi vừa sinh ra, thể xác của nó đã được cấu
tạo đầy đủ, những bộ phận trong cơ thể đã hoạt động, mặc dầu linh hồn của đứa
trẻ vẫn chưa nhập vào thể xác.
Lẽ tự nhiên, sự lý luận bằng cách so sánh không phải là luôn
luôn vững chắc và xác đáng, nêu chúng ta phải dùng cách lý luận đó là vì trong
những cuộc soi kiếp của ông Cayce, chúng ta luôn luôn gặp phải những điều lạ
lùng như đã kể trên; và bởi vì sự hiểu biết của chúng ta về sự bí ẩn của đời
người hãy còn thô thiển và thiếu sót để có thể giải thích một cách xác đáng
theo phương pháp khoa học. Có người đưa ra cho ông Cayce câu hỏi này: "Cái
gì làm cho thể xác đứa trẻ sống lại được, trước khi linh hồn nhập vào?"
Câu trả lời có vẻ bí hiểm, nếu không nói là mơ màng và khó hiểu: "Đó là
cái tinh thần. Vì tinh thần là nguồn gốc của vật chất, và đó chính là Thượng Đế
vậy."
Về điểm này và nhiều điểm khác nữa, người ta cần có những cuộc
sưu tầm bằng khả năng khiếu Thần Nhãn. Sự sinh sản không phải là một sự tình cờ,
và việc một đứa trẻ lọt lòng mẹ để chào đời không phải là một điều giản dị như
người ta có thể tưởng. Về vấn đề này cũng như bao nhiêu vấn đề khác trên địa hạt
nhân sinh, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tỏ ra vô cùng lý thú và hữu ích
vì nó hé mở những chân trời mới lạ để dìu dắt những cuộc sưu tầm khảo cứu của
người đời nay.
Chương 18 - Vài Nghiệp Quả Gia Đình
Một trong những điều buồn thảm nhất của con người là sinh ra
một đứa con tàn tật. Về phương diện vật chất, điều này là một gánh nặng về sự
phí tổn tiền bạc và công lao săn sóc cho đứa trẻ. Về phương diện kinh tế, đó là
một cái gánh nặng của xã hội phải nuôi dưỡng một phế nân có thụ hưởng mà không
sản xuất. Về phương diện tâm linh, điều ấy gây cho con người một sự hoài nghi về
lòng nhân từ của Thượng Đế, và một sự băn khoăn lo ngại cho hạnh phúc của đứa
trẻ.
Đối với những cha mẹ đau khổ đó, định luật Luân Hồi có thể
đem đến cho họ lòng can đảm và đức tin. Trước hết, theo định luật ấy thì tất cả
mọi sự tai ương, tật ách, đau khổ của con người đều là do quả báo gây nên.
Trong những tập hồ sơ của Cayce có vài trường hợp những đứa trẻ bị tật nguyền từ
khi mới sinh ra, nhưng lại được coi như không phải vì lý do quả báo. Nhưng nói
chung thì những phế tật đều là dấu hiệu rõ ràng của sự vi phạm hoặc lỗi lầm
trong quá khứ. Kế đó, sự liên hệ giữa cha mẹ và đứa con bị phế tật cũng là do
quả báo sinh ra. Những cuộc soi kiếp cho những đứa trẻ bị chứng sưng đầu, câm
điếc, chương óc và những tật ách khác, đều luôn luôn nói rằng: "Đó là quả
báo, vừa là của cha mẹ, vừa là của đứa trẻ."
Một trong những thí dụ xác đáng về loại quả báo này là trường
hợp của một cô gái nhỏ người Do Thái mới mười hai tuổi, bị chứng động kinh từ thuở
sơ sinh. Chứng bịnh này không những là phiền phức khi cô bị lên cơn, mà còn là
một trở ngại rất lớn cho sự phát triển cá tính của cộ Theo cuộc soi kiếp thì
người cha, người mẹ và cô gái, ba người đã từng xum họp với nhau trong kiếp trước
trong một gia đình ở Bắc Mỹ hồi thời kỳ khởi nghĩa giành độc lập. Trong kiếp
đó, cha mẹ cô gái nhận thấy rằng theo chế độ cũ của người Anh có lợi về tiền bạc
vật chất hơn là theo phe khởi nghĩa giành độc lập. Trong kiếp đó, nên họ hoạt động
để cung cấp tài liệu tin tức cho chế độ Hoàng Gia. Cô gái là một thiếu nữ đẹp
và thông minh, nhưng điều này lại là những yếu tố cần thiết có thể giúp ích cho
những mưu toan của cha mẹ cộ Thay vì giữ cô trong nhà, cha mẹ cô lại khuyến
khích cô dùng những lợi khí sắc bén và quyến rũ kia vào những mục đích chính trị
có lợi cho gia đình. Mặc dầu cuộc soi kiếp không nói cho biết kết quả tấn tuồng
ám muội kia, nhưng nó đã vạch rõ những hậu quả của hành động ấy trong kiếp hiện
tại. Xem xét những hậu quả này, chúng ta mới thấy rằng luật Nhân Quả hành động
một cách mầu nhiệm và đúng đắn vô cùng, không hề suy chuyển. Cuộc soi kiếp cho
cô gái bắt đầu như sau: "Những người cha mẹ của linh hồn này nên so sánh
những kinh nghiệm đã qua của họ bằng một cuộc soi kiếp cho chính họ, để nhìn thấy
những bổn phận và triển vọng của họ đối với linh hồn này. Bất cứ người nào nhìn
thấy sự đau khổ hiện tại của linh hồn này đều phải nhận thức sự kiện "Nhân
nào quả nấy, " và không ai có thể kiêu ngạo Chúa Trời, vì ai gieo giống
nào sẽ gặp giống nấy. Sự bành trướng bản ngã và phóng đãng trụy lạc của linh hồn
này trong kiếp trước đã in dấu vết trong cơ thể của cô trong lúc hiện tại, vì
ai gieo gió ắt sẽ gặp bão. Những người làm cha mẹ phải chịu trách nhiệm một phần
lớn về cuộc đời ô trược đó, nhằm mục đích thực hiện những lợi lộc vật chất. Bởi
đó, chính họ phải chịu gánh lấy hậu quả trong kiếp này."
Nói tóm lại, người con gái ấy bị chứng động kinh trầm trọng
trong lúc hiện tại là để trả quả báo về sự chơi bời dâm đãng trong kiếp trước.
Thât là một điều công bình mà thấy cha mẹ cô có trách nhiệm phải nuôi dưỡng săn
sóc một người con mà sự sa đọa phần lớn là do sự lỗi lầm của họ gây ra.
Một trường hợp lý thú khác là của một thiếu nữ ở New York, bị
mù mắt từ khi lọt lòng mẹ. Nhìn qua các tấm ảnh của cô ta thì cũng khá đẹp. Người
mẹ yêu cầu ông Cayce khán bịnh cho cô ấy, nhưng vì không có một cuộc soi kiếp
nên không rõ tật ách mù lòa này nguyên nhân từ đâu. Dầu sao, người mẹ cô yêu cầu
một cuộc soi kiếp cho chính bà ấy, và nhờ đó người ta mới thấy rõ mối liên hệ về
nhân quả giữa hai mẹ con bà ấy. Trong một kiếp trước, người mẹ đã từng làm một
giáo sự dạy học. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này đã lợi dụng một cơ hội để
làm tiền và gieo sự rối rắm vào cuộc đời của một người đàn bà khác. Kiếp này
hai vợ chồng y phải trả quả báo, vì thuở xưa hai người hành động theo những mục
đích ích kỷ mà không kể đến luật Trời."
Người ta chỉ có thể phỏng đoán về tánh chất thật sự của tấn
bi kịch này, trong đó hình như người cha cũng đóng một vai trò. Tất cả những gì
xảy ra, ấy là một vị giáo chức đã khai thác một người đàn bà nọ vì lợi riêng,
làm cho người kia buồn rầu và đau khổ. Chính người đàn bà bị khai thác đó,
trong một kiếp trước cũng có một nghiệp ác cần phải trả, mà quả báo là tật mù mắt.
Trong kiếp này cô bèn đầu thai vào làm con gái của vị giáo chức kia, nhờ đó mẹ
cô đã có cơ hội để trả quả báo cũ.
Trường hợp thứ ba là một trường hợp rất lý thú về tật khật
khùng của người con vì tội lỗi của một người mẹ. Trong một kiếp trước ở
Palestine, người đàn bà kia đã chế nhạo những kẻ tàn tật, bởi đó cô gây ra những
nghiệp ác làm cho cô sinh ra một đứa con thiếu trí khôn và khật khùng trong kiếp
này.
Trong một trường hợp khác, đương sự là một thiếu nữ bị chứng
to đầu vì trong óc có nước, một chứng bịnh rất kỳ lạ và ít có. Người mẹ đã chết
vài ngày sau khi sinh sản, và người cha đã gởi đứa con trong một nhà từ thiện
Công giáo. Khi đứa con lên bốn tuổi, người cha đến xin ông Cayce soi kiếp cho
nó. Cuộc soi kiếp nói: "Em này rất thông minh, hiểu biết mọi chuyện, biết
gọi tên từng người và có thể theo dõi cuộc nói chuyện lý thú. Em ấy không thể
đi đứng gì được, vì đầu em quá nặng và lớn quá, và em phải chú ý giữ gìn luôn
luôn cho đầu khỏi nghiêng."
Vì không có một cuộc soi kiếp nào cho em gái này nên người ta
không biết rõ lý do của căn bịnh ấy. Tuy thế ông Cayce đã soi kiếp cho người
cha, vì người này muốn biết sự liên hệ giữa ông với đứa con gái trong kiếp trước
là như thế nào. Câu trả lời rất vắn tắt và khô khan: "Trong kiếp trước ông
có phương tiện giúp đỡ kẻ khác, nhưng ông làm ngơ không chịu giúp ai cả! Vậy
ông nên tập lấy tánh biết thương người trong kiếp này." Cuộc soi kiếp
không có nói đầy đủ chi tiết để cho ta biết rõ tánh ích kỷ của ông là như thế
nào. Chỉ nghe nói rằng kiếp trước, ông là một người lái buôn ở Fort Dearborn,
và "Thâu thập được rất nhiều của cải vật chất, nhưng lại rất kém cỏi về
phương diện tâm linh." Xét về trường hợp kể trên, người ta thấy rằng nếu
chúng ta thản nhiên và làm ngơ trước sự đau khổ của kẻ khác, chính chúng ta sẽ
bị định mệnh đem đến cho ta những đau khổ đó. Một người kia có thể không quá độc
ác để tích cực gây thương tổn cho kẻ khác, nhưng ông có thể không chịu làm lành
cũng như ông không làm ác. Một thái độ thản nhiên bất động như thế trước sự đau
khổ của nhân loại có lẽ không phải là một tội ác lớn để gây nên một nghiệp quả
tàn tật vào xác thân. Nhưng dầu sao người ta cũng phải học bài học thiện chí và
thông cảm. Bằng cách này hay cách khác, người ta phải chú trọng đến những sự lầm
than khốn khổ của người đời; nói tóm lại, người ta phải có lòng nhân từ và biết
thương xót kẻ khác. Và vì lẽ người ta không bị quả báo tật nguyền vào chính bản
thân mình, thì còn có phương tiện nào tốt lành hơn là lãnh lấy cái kinh nghiệm
đau thương của người cha sinh ra một đứa con tàn phế? Do sự đau khổ nhìn thấy đứa
con bị phế tật, mà người ta mới có dịp thông cảm sự đau khổ của những người làm
cha mẹ Ở vào một trường hợp tương tự, và mới hiểu rõ ý nghĩa thế nào là sự đau
khổ của người thế gian.
Những trường hợp vừa kể trên chỉ cho chúng ta thấy rằng giữa
cha mẹ và con cái có những nhân duyên và nghiệp quả ràng buộc lẫn nhau. Ngoài
ra cũng có những sợi dây duyên nghiệp giữa những anh em trong một gia đình.
Trong những hồ sơ Cayce, có một trường hợp lạ lùng về sự thù nghịch giữa hai chị
em nhà kia đã dẫn chứng cho điều nầy. Kể từ khi họ còn thơ ấu, giữa hai chị em
nói trên đã có sự ganh ghét, đố kỵ và thù hằn lẫn nhau. Giữa hai chị em, luôn
luôn xảy ra những xung đột cãi vã, thường khi chỉ vì những duyên cớ nhỏ nhặt
không đâu. Sự thù nghịch đó không có xảy ra giữa những người anh em khác trong
gia đình.
Xét theo quan điểm tâm lý của Freud, thì sự thù nghịch giữa
hai chị em nhà này có thể truy nguyên ra bởi sự tranh giành tình thương của người
chạ Nhưng theo sự quan sát bằng Thần Nhãn của ông Cayce thì giữa hai người có một
sự ghen tuông sâu xa về tình: Trong một kiếp trước, người chị có chồng và giữa
hai chị em đã xảy ra một sự hiểu lầm về sự giao thiệp giữa người em vợ với người
anh rể.
Để cho những nhân vật của tấn bi kịch này hiển hiện rõ ràng,
chúng ta hãy gọi tên cô em là Loan, gọi tên cô chị là Thúy, và Bình là chồng của
Loan. Trong cuộc soi kiếp cho cô em (Loan), cô này hỏi về những mối liên hệ
trong kiếp trước giữa cô với người chồng và người chị của cô ta thế nào, thì cô
nghe thuật lại câu chuyện dưới đây: Ba người đã từng gặp nhau trong kiếp trước,
trong kiếp đó, Bình là chồng của Thúy tức là chị của Loan bây giờ. Một khi kia
Bình đau nặng, và vì một lý do nào đó không rõ, lúc ấy Bình lại ở cách xa với vợ
ỵ Loan làm nghề nữ y tá, và nhờ sự săn sóc của cô nên Bình chóng khỏi bịnh và
phục hồi lại sức khỏe. Sự săn sóc của Loan đối với Bình chẳng qua chỉ là bổn phận
của một cô điều dưỡng, nhưng sự chăm nom tận tụy của cô đã tạo nên giữa hai người
một sự thông cảm, nó làm cho người chị là Thúy phải lấy làm cay đắng khi cô
khám phá ra câu chuyện. Sự ghen tuông vô căn cứ ấy không bao lâu đã trở nên
lòng thù hận, và sự căm hờn uất hận đã ảnh hưởng sâu xa trong tâm hồn của người
đàn bà khó tính ấy đến nỗi sau nhiều thế kỷ, nó vẫn còn biểu lộ nơi tánh của cô
trong kiếp này.
Dưới đây là một trường hợp thứ hai về nghiệp quả ràng buộc giữa
một người anh trai và một người em gái, hai anh em cùng sinh tại Anh quốc.
Trong cuộc Thế Chiến Thứ Hai, họ được giao cho một người đàn bà Mỹ săn sóc, người
này hồi đó làm giám đốc của một trường học ở tiểu bang New England. Người anh
lên mười tuổn, còn cô em mới năm tuổi. Bà mẹ nuôi của hai em biết rõ tâm lý trẻ
con bởi sự học về phần lý thuyết và cũng do sự thực nghiệm của một đời làm nghề
dạy học. Bà ấy bắt đầu nhận thấy sự thù nghịch rõ rệt giữa hai anh em. Trong
hai người thì người anh có vẻ "Ăn hiếp" và dữ nhất. Bà ấy yêu cầu ông
Cayce soi kiếp cho cả hai đứa. Cuộc soi kiếp tiết lộ cho biết một sự kiện rất
lý thú: Hai đứa trẻ trong kiếp trước là những người thuộc hai bộ lạc đối lập ở
xứ Ecosse, hai bộ lạc này đã từng chia rẽ và thù nghịch nhau vì một sự tranh chấp
từ lâu đời và đã từng đánh với nhau những trận giao phong ác liệt. Sự thù nghịch
ấy tồn tại qua nhiều thế kỷ, và biểu lộ trong kiếp này qua sự thù hằn giữ hai đứa
trẻ nhỏ!
Hai thí dụ trên đây cũng đủ chứng minh cho thuyết Luân Hồi quả
báo và đem lại sự giải đáp cho bài toán bí hiểm về sự thù nghịch vô căn cứ giữa
những anh em trong một nhà, làm cho họ bị dày vò khổ sở mà không hiểu lý do vì
đâu. Mọi gia đình đều có lý do xung đột căn cứ trên những đụng chạm nhất thời.
Tuy nhiên những sự đụng chạm nhất thời đó có thể truy nguyên từ nhiều thế kỷ
trước.
Việc tìm ra nguyên nhân ở một kiếp trước về sự thù nghịch giữa
hai người, không đủ để làm tiêu tan sự thù nghịch ấy. Nếu hai người ấy không muốn
kéo dài sự thù nghịch kia từ kiếp này sang kiếp khác, thì trong kiếp này họ phải
cố gắng nhẫn nại thay thế sự căm thù ấy bằng tình thương, và thay đổi sự đố kỵ
chia rẽ kia trở thành một lòng ưu ái và thiện cảm. Lời khuyên trên đây không những
áp dụng cho những anh em trong một nhà mà thôi, nó còn áp dụng cho mọi giao tế
ngoài xã hội, cùng mọi sợi dây liên hệ ràng buộc chúng ta với tất cả mọi người
trần gian.
Xét cho cùng, những sự thay đổi ngôi thường xuyên của chúng
ta trong gia đình trải qua nhiều kiếp luân hồi sinh tử, chỉ rằng thật ra chúng
ta không phải là những người của một gia đình riêng biệt nào cả. Chúng ta là những
phần tử của đại gia đình nhân loại, và trong sự sinh hoạt hằng ngày chúng ta phải
luôn luôn sống một cách có ý thức với điều Chân Lý tối trọng đó.
Chương 19 - Nhân Quả Đối Với Chức Nghiệp
Tất cả mọi người trong chúng ta đều có mang trên vai một gánh
nặng gồm đủ thứ sở trường và sở đoản, cùng những đức tính tốt và thói hư tật xấu,
những cái hay và cái dở, ưu điểm và khuyết điểm dồn dập tích tụ từ lâu đời.
Điều này hiển hiện rõ ràng trong những cuộc soi kiếp đặc biệt
của ông Cayce, nhằm mục đích giúp đỡ trong vấn đề hướng nghiệp cho một số người.
Trước đây, ta đã thấy sự hành động của "Nguyên tắc liên tục" trong việc
đào tạo khả năng, và vì thế, nguyên tắc ấy đã trở nên một yếu tố quan trọng
trong đời người. Một thí dụ điển hình là trường hợp của một thiếu phụ làm nghề
sửa sắc đẹp ở New York. Nhà cô là một mỹ viện hạng sanh, chuyên sửa sắc đẹp phụ
nữ, uốn tóc, chải đầu, cùng sửa cách ăn nói, điệu bộ. Chính chủ nhân cũng là một
người có sắc đẹp và cốt cách yểu điệu. Cuộc soi kiếp cho cô tiết lộ ba kiếp trở
về trước, mà dường như là chỉ có hai kiếp là có ảnh hưởng trực tiếp đến khuynh
hướng nghề nghiệp của cô bây giờ. Một kiếp đó diễn ra dưới triều đại Pháp hoàng
Louis 15, hồi đó cô có một ảnh hưởng lớn đối với nhà vua và hoàng triều. Trong
kiếp đó, cô tập sự về nghành giao tế, lễ nghi cùng phép xã giao lịch sự, nghệ
thuật trang sức và những bí quyết chưng diện sắc đẹp. Trong kiếp trước nữa, cô
sống dưới thời Đế quốc La Mã, và là một trong những người đầu tiên trong hàng
quý tộc đã theo đạo Gia Tộ Thụt lùi về dĩ vãng, cô đã sống ở xứ cổ Ai Cập vào
khoảng 13.000 năm trước Tây Lịch kỷ nguyên, và đã từng làm việc công quả trong
một ngôi đền. Trong một kiếp dưới thời hoàng triều nước Pháp, cô đã thâu thập
được những kinh nghiệm về đời sống lộng lẫy xa hoa; cô đã phát triển những khả
năng đặc biệt về phép giao tế và phép lịch sự trong đời sống xã hội. Những kinh
nghiệm mà cô đã thâu thập được trong một ngôi đền thời cổ Ai Cập cần được giải
thích rõ ràng hơn. Dường như thời kỳ đó ở Ai Cập có hai ngôi đền lớn, gọi là Đền
Mỹ Lệ và Đền Hy Sinh. Người ta thấy rải rác trong vài chục cuộc soi kiếp những
sự mô tả hai ngôi đền này, và do sự góp nhặt những tài liệu đó, người ta có một
ý niệm khá đúng về những gì đã xảy ra ở đó.
Ngôi đền Mỹ Lệ là một loại học đường hay trường Đại học,
nhưng nó không phải lo về mặt trí dục mà thôi, mà còn nhằm đào tạo nhân cách
trên một phương diện đồng đều, toàn diện. Tất cả những nghệ thuật và khoa học đều
được xử dụng để đào tạo nên một linh hồn cao thượng và một thể xác kiện toàn
cho các học viên để chuẩn bị cho họ trở nên những người công dân có khả năng, hầu
có tích cực hoạt động cho xứ sở. Ngôi đền này còn là trường huấn luyện về mặt
tôn giáo và đạo đức tâm linh. Ngôi đền này có bảy trung tâm đào tạo có kỷ luật,
theo quy mô của bảy Luân Xa hay bí huyệt trong trong cơ thể con người. Điều này
cho ta thấy rằng chương trình học tập và kiến trúc của ngôi Đền được quan niệm
trên sự hiểu biết sâu xa về khoa Huyền Môn.
Một trong những ngành hoạt động của ngôi đền Mỹ Lệ là vấn đề
hướng nghiệp căn cứ trên nền tảng tâm linh. Nhiều người trong kiếp này chú trọng
đến vấn đề hướng thiện, phát triển nhân cách, hoặc đào tạo nhân phẩm bằng nghệ
thuật và tôn giáo, khi truy nguyên ra thì được biết rằng trong kiếp trước, họ
là những giáo sư hay sinh viên đã từng theo học ở ngôi đền Mỹ Lệ hồi thời cổ Ai
Cập.
Còn Đền Hy Sinh thì có vẻ giống như một bệnh viện, trong đó
người ta áp dụng những kỹ thuật điện khí nhằm mục đích giải phẫu và chữa bịnh
(có lẽ do người Atlante truyền lại). Phép chữa bịnh này theo một nguyên tắc
chính là kiện toà thể xác và cải tiến giống nòi, vì người ta gọi trung tâm này
là Đền, có ngụ ý một sự hướng dẫn tâm linh.
Dưới đây là trường hợp của một y sĩ chuyên môn chữa bịnh đau
khớp xương. Cuộc soi kiếp cho biết rõ bốn tiền kiếp của ông, mà ba kiếp có ảnh
hưởng đến phương diện nghề nghiệp của ông trong kiếp này. Ông đã từng làm y sĩ ở
Mỹ Châu lúc ban sơ và có giao thiệp với người thổ dân xứ ấy, nhờ đó mà y học được
phép chữa bịnh theo lối tự nhiên và bằng chất thảo mộc. Trong các cuộc soi kiếp,
nếu người nào trước kia đã từng có tiếp xúc chặt chẽ với người thổ dân châu Mỹ,
hoặc chính họ là những người thổ dân da đỏ trong kiếp trước, đều tỏ ra có
khuynh hướng sống một đời sống tự nhiên nơi chốn rừng bụi, ưa thích cảnh thiên
nhiên, thích làm những công việc bằng tay chân, và dùng cách chữa bịnh theo
phương pháp tự nhiên.
Trong kiếp thứ hai, vị y sĩ trông coi các nhà tắm công cộng
và chuyên về phép thoa bóp ở La Mã dưới thời kỳ bắt đầu kỷ nguyên Gia Tộ Trong
kiếp thứ ba, y sống ở Ba Tư và trong kiếp thứ tư, đi thụt lùi về dĩ vãng, ông
làm nghề ướp xác bằng dầu thơm ở xứ cổ Ai Cập, độ 13.000 năm trước Tây lịch kỷ
nguyên. Có lẽ kinh nghiệm của ông trong kiếp đó đã giúp cho ông có sự hiểu biết
về những bộ phận bên trong cơ thể con người cùng ảnh hưởng của chất liệu và cỏ
thơm đối với da thịt con người.
Trường hợp sau đây là của một nhà mỹ nghệ Ở Hollywood, làm
giám đốc chuyên môn về màu sắc trong một hãng phim điện ảnh. Cuộc soi kiếp cho
biết ông đã từng sống về ngành mỹ thuật trong ba kiếp trước. Tất cả có bốn tiền
kiếp đã được soi thấu: Trong một kiếp, ông làm nhà trang hoàng nhà cửa vào cuối
thời kỳ khai mở thuộc địa, ở Bắc Mỹ; trong kiếp kế đó, ông làm sĩ quan trong
quân đội kỵ binh ở Nga; kế đó nữa ông làm nhà trang trí mỹ thuật cho một bà
Hoàng ở xứ Đông Dương; và trong kiếp xa xưa nhất, ông làm người trang hoàng bên
trong của Ngôi Đền Lớn ở xứ cổ Ai Cập. Người ta có cảm tưởng rằng nhờ kinh nghiệm
trong kiếp làm sĩ quan kỵ binh mà kiếp này ông phát triển những đức tánh linh
hoạt, tỉ mỉ, cẩn thận và ham hoạt động, cùng với tánh thích chưng diện và lòng
háo thắng. Như vậy, nhiều điểm trong tánh tình nó giúp cho công việc làm của
ông ở kiếp này có thêm phần sinh khí và linh động, dường như được truy nguyên từ
những kinh nghiệm ở kiếp làm sĩ quan kỵ binh, mà nghề quân nhân lại là một
ngành không có liên quan gì đến mỹ thuật. Còn những kỹ thuật sắc xảo về phương
diện nghề nghiệp của y thì có thể truy nguyên từ ba kiếp dành cho sự hoạt động
về nghệ thuật.
Một nhà soạn nhạc tiếng tăm ở New York cũng đã có trong quá
khứ những kinh nghiệm về ngành này trong nhiều tiền kiếp. Trong một kiếp trước,
hồi thời kỳ khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ, ông đảm nhiệm những lớp dạy âm nhạc
và dạy hát trong các trường. Một kiếp khác, ông là người Đức, làm nghề đẽo cây
và chế tạo các loại đờn dây. Một kiếp thứ ba, ông làm hề tại triều vua
Nabuchodonosor ở xứ Chaldeẹ Kiếp cuối cùng lui về quá khứ, ông là một người dân
Atlante đến xứ Ai Cập và lãnh vai trò coi sóc phần âm nhạc trong những cuộc tế
lễ ở các đền thờ. Sự thích thú của ông về âm nhạc trong kiếp này dường như là
do bỏi kinh nghiệm của ông trong kiếp làm nghề chế tạo đờn. Tánh hài hước và
trí óc linh hoạt của ông được truy nguyên ra từ kiếp trước làm hề; và những khả
năng về âm nhạc của ông được truyền lại từ hai kiếp làm nhạc sĩ.
Đôi khi những thú vui tiêu khiển ngoài vòng hoạt động nghề
nghiệp của một người cũng được truy nguyên ra từ những tiền kiếp. Thí dụ như
trường hợp của một viên giám đốc ngân hàng, từ thuở nhỏ đã tỏ ra ham thích chơi
các môn thể thao, nhứt là chơi môn quần vợt. Khi vị mục sư nhà thờ Baptiste, mà
ông là một tín đồ, tỏ ý chống lại việc chơi môn đánh banh vào ngày chúa nhật,
thì vị giám đốc ngân hàng liền tức khắc rời khỏi giáo hội! Ngân hàng đã trở nên
ngành hoạt động nghề nghiệp của ông và nhờ đó ông đã thâu hoạch được một sản
nghiệp lớn. Nhưng ông thường dùng thời giờ rảnh để tham gia một câu lạc bộ đánh
quần vợt. Chúng ta hãy thử xét những nghề nghiệp của ông trong các tiền kiếp:
Trước hết, ông là một trong những người khai thác thuộc địa đầu tiên, làm nghề
xuất nhập cảng ở Bắc Mỹ. Trong kiếp kế đó, ông là người La Mã, đảm nhiệm việc tổ
chức các trò du hí công cộng tại các vũ trường. Một kiếp nữa, ông là người tù
trưởng của một bộ lạc lưu động ở Ba Tư, chuyên môn tổ chức những trung tâm trao
đổi hàng hóa. Trong kiếp thứ tư, ông là quan Thủ Kho ở triều đình xứ Ai Cập thời
cổ. Người ta nhận thấy rằng ba kiếp trong số đó đã trực tiếp ảnh hưởng đến nghề
nghiệp và ngành ngân hàng của ông bây giờ. Kiếp thứ hai làm nhà tổ chức các cuộc
du hí ở La Mã, đã giúp cho ông có khả năng lãnh đạo, nhờ đó có thể tiến lên địa
vị Giám đốc ngân hàng. Đồng thời, kinh nghiệm ở kiếp đó cũng là nguyên nhân sự
thích thú của y về các môn điền kinh, thể dục ở kiếp này.
Trong các cuộc soi kiếp cề vấn đề hướng nghiệp, ông Cayce thường
xuyên một số người nên theo đuổi môn học chữa bịnh bằng điện lực, hóa học hay
thủy lực học và âm nhạc. Môn chữa bịnh bằng điện ngày nay đã thịnh hành rất nhiều,
những lời khuyên của ông Cayce đối với số người nói trên vốn căn cứ trên những
kinh nghiệm trong những tiền kiếp của họ Ở Ai Cập hay ở châu Atlantide.
Dường như vào khoảng 10.000 năm trước Tây lịch, hồi thời kỳ
tai biến cuối cùng trong ba cơn thiên tai lớn đã tiêu diệt châu Atlantide tị nạn
đã di cư sang Ai Cập họ đã đem theo những kiến thức và tiến bộ của họ về nghệ
thuật và khoa học. Tuy rằng họ không thể xây dựng trở lại nền văn minh hùng cường
và cao của họ nữa, những gì còn sót lại về khoa học và kiến thức của họ đã hỗn
hợp với nền văn minh Ai Cập. Trong tất cả những trường hợp mà ông Cayce khuyên
đương sự nên theo đuổi ngành chữa bịnh bằng điện lực, đều có một điểm lý thú
chung: Tuy rằng ngành này là một ngành hoạt động khá mới mẻ đối với thế giới hiện
nay, nhưng nó là một ngành học thuật rất cổ mà ngày xưa cổ nhân đã từng biết
rõ.
Trong nhiều trường hợp mà các đương sự tỏ ra thích thú say mê
ngành hàng không, điện tử, vô tuyến điện ảnh, khoa thôi miên, nguyên tử lực...
Sự thích thú này đều được truy nguyên từ những kinh nghiệm của đương sự trong một
kiếp trước ở châu Atlantidẹ Bởi đó người ta có thể kết luận rằng khi nào một
người có khuynh hướng hoặc tài năng rõ rệt về một môn khoa học hay một ngành hoạt
động nào, thì chắc chắn rằng trong một hay nhiều kiếp trước, người ấy đã từng
theo đuổi và thực hành môn ấy, hoặc là một ngành hoạt động tương tự.
Nhiều trường hợp khác đưa đến một kết luận rằng sự thay đổi
nghề nghiệp cũng không phải là một sự thất bại, nếu sự thích thú về nghề mới chọn
có căn cứ chắc chắn trong dĩ vãng, và khả năng về nghề nghiệp này đã được phát
triển trong kiếp trước. Thí dụ, dưới đây là trường hợp của một người 31 tuổi, mặc
dầu đã có gia đình nhưng ông lại quyết định theo đuổi việc học Y khoa. Vì những
lý do nào đó, ông không thể theo ngành Y học từ thuở còn niên thiếu, mặc dầu
cha ông là một bác sĩ, và ông có hoàn cảnh thuận tiện để học về ngành này. Ông
yêu cầu ông Cayce dành cho một cuộc soi kiếp. Ông muốn biết xem quyết định của
y có thể thực hiện được không, và sau cùng ông sẽ thành công hay không về nghề
y khoa. Cuộc soi kiếp hoàn toàn xác nhận là được, và cho biết rằng sự thích thú
của ông về ngành này truy nguyên ra từ hồi thời kỳ khởi nghĩa ở Mỹ quốc. Kiếp
đó, y là một người línhh hầu, làm tùy phái đưa thư tín trong quân đội. Dường
như nhờ lòng từ thiện chí và khả năng thông cảm nên ông được cấp trên giao cho
công tác đi phủ dụ và nân đỡ tinh thần binh sĩ. Chín trong lúc đó, ông nảy sinh
ra ý muốn trở nên một y sĩ. Cảnh tượng đau khổ của những thương binh ngoài mặt
trận làm cho ông muốn có sự hiểu biết về phương tiện nghề nghiệp của một y sĩ để
làm xoa dịu những đau khổ đó.
Điều lý thú mà ta nên nhận xét là đương sự đã chọn người cha
làm y sĩ để đầu thai vào làm con trong gia đình trong kiếp này. Điều này hẳn là
mộ hoàn cảnh thuận tiện để cho ông bước vào nghề y khoa. Tuy rằng người ta
không biết rõ lý do vì sao ông quyết định hơi trễ để theo học về ngành này,
nhưng có lẽ đó là vì y lập gia đình sớm. Có thể rằng giữa hai vợ chồng y, có một
sự hấp dẫn mãnh liệt do duyên nghiệp tạo nên từ kiếp trước, và cuộc hôn nhân đó
đã làm cho ông tạm gác lại các mục đích khác, nhưng điều quan trọng là cuộc soi
kiếp tiên đoán trước sự thành công của ông trong một ngành mà ông mới theo đuổi
lần đầu tiên.
Nói tóm lại, việc truy nguyên các khả năng nghề nghiệp của một
người chỉ rằng các khả năng đó dường như đã được khai mở từ một hay nhiều tiền
kiếp, trong khi đó đương sự đã từng làm nghề nghiệp đó rồi, hay là một nghề tương
tự.
Một sự thích thú say mê về một ngành hoạt động phụ thuộc chỉ
rằng trong kiếp trước, ngành hoạt động đó là nghề nghiệp chính của đương sự.
Nhiều nghề nghiệp mới xuất hiện trên thế giới hiện nay thật
ra là sự biến thiên của những nghệ thuật và khoa học của người Atlante và Ai Cập
thời cổ. Có vài người dường như mới bước vào một ngành hoạt động mới lần đầu
tiên trong lịch trình tiến hóa của họ. Nếu trong dĩ vãng, họ đã từng thích thú
và phát triển những khả năng về một nghề nghiệp nào, thì sự thành công trong
nghề nghiệp đó ở kiếp này sẽ là một điều chắc chắn.
Chương 20 - Phương Châm Trong Việc Chọn Nghề
Những câu chuyện thuật lại về khuynh hướng nghề nghiệ trong
các tập hồ sơ của Cayce có thể làm cho người sưu tầm khảo cứu phải nêu ra nhiều
câu hỏi. Trước hết, có vấn đề bắt đầu làm một nghề nghiệp, một vấn đề nó làm
cho các Triết gia phải lấy làm thắc mắc khi họ cố gắng truy nguyên đến tận gốc,
khi linh hồn con người mới xuất hiện lần đầu tiên trên cõi trần gian. Việc gì
thúc đẩy một ngành hoạt động này, và một linh hồn khác bước vào một ngành hoạt
động khác? Nếu tất cả mọi linh hồn đều do Thượng Đế phát sinh từ lúc nguyên thủy,
nghĩa là bình đẳng và không cách biệt, thì tại sao có người lại hướng về nông
nghiệp, có người chọn thương mại, người thứ ba chọn nghề dệt cửi, người thứ tư
hướng về âm nhạc, và người thứ năm chọn ngành toán học? Phải chăng trong mỗi
người đều có một cái động lực tế nhị thuộc về cá tính riêng từng người, nó thúc
đẩy họ vươn lên chọn lựa những ngành hoạt động khác nhau? Nếu như thế, thì cái
cá tính đó đã biểu lộ bằng cách nào?
Trong những hồ sơ của Cayce, không có sự giải đáp rõ ràng những
câu hổi nêu trên, nhưng lại có những tài liệu khá mỹ mãn về một điểu khác: Việc
gì làm cho một linh hồn thay đổi một nghề nghiệp này qua một nghề nghiệp khác?
Người ta thấy trong các hồ sơ của Cayce có nhiều trường hợp thay đổi nghiệp như
vậy, và sự phân tách các tài liệu chỉ rằng sự thay đổi đó căn cứ trên hai yếu tố
căn bản: Hoặc do lòng ham muốn, hoặc do luật nhân quả.
Trong nhiều trường hợp đã kể trên, chúng ta thấy rằng lòng
ham muốn cũng có mãnh lực tương đương với việc gây nhân tạo quả. Một linh hồn
có thể bắt đầu nảy sinh ra ý muốn có một khả năng hay một đức tính mới, khi họ
chung đụng tiếp xúc vởi một người có cái khả năng hay đức tính đó. Theo ông
Cayce, nhiều người mục kích tận mắt những công việc cứu độ thế gian của đức
Jesus khi Ngài đi thuyết pháp giảng đạo và cứu chữa người đau ốn, tật nguyền, bỗng
nhiên họ có sự cảm hứng, chẳng khác như một sự truyền nhiễm, và muốn làm y như
Ngài! Cái mãnh lực của ý muốn đó thúc đẩy họ cố gắng trải qua nhiều kiếp để
phát triển khả năng giáo dục và chữa bịnh. Đôi khi, lòng ham muốn không phải do
nơi ảnh hưởng của một người nào, mà do bởi đương sự cảm thấy bất lực trước một
tình trạng nguy cấp mà thiếu khả năng cần thiết, nên y không thể giải cứu hay
làm gì được. Dầu rằng lý do như thế nào, lòng ham muốn là một yếu tố quan trọng
của vận mạng con người. Lòng ham muốn đó tăng trưởng lên lần lần và nhắm những
mục đích càng ngày càng rõ rệt cho đến khi về sau, bởi sự chọn lựa cha mẹ và một
hoàn cảnh thích nghi, một linh hồn bắt đầu phát triển một khía cạnh mới trong
tánh tình của y cho đến mực hoàn toàn.
Có lẽ phải cần đến nhiều kiếp luân hồi sanh tử, cũng như
trong các trường hợp tâm tính "Khép chặt" và "Cởi mở", con
người mới có thể hoàn toàn thực hiện sự thay đổi một nghề này qua nghề khác dưới
mãnh lực của ý muốn. Nếu điều này là đúng, thì đó là một sự khuyến khích quý
báu cho những người nào tự thấy kém cỏi trong sự hoạt động nghề nghiệp của
mình. Có thể rằng lý do sự kém cỏi của họ, so với tài năng của người khác, là bởi
vì họ chỉ mới bắt đầu ngành hoạt động ấy không bao lâu, và chưa đủ thời giờ để
phát triển hết mọi tài năng của mình.
Ngoài lòng ham muốn, nghiệp quả cũng là một yếu tố quan trọng
trong việc quyết định thay đổi nghề nghiệp.
Thí dụ: Một quả báo tàn tật về thể xác, khi đến lúc chính mùi
và phải trả, có thể làm gián đoạn cuộc đời nghệ sĩ tài bà đang lên của một nhà
khiêu vũ, một sự nghiệp mà ông đã dày công luyện tập và cải tiến đến mức tuyệt
luân trải qua nhiều tiền kiếp. Một quả báo làm gián đoạn nữa chừng một sự nghiệp
như thế, tự nhiên là đưa đến sự thay đổi qua một nghề nghiệp khác, và có thể
làm thức động một khả năng tiềm tàng đã bị chôn vùi và quên lãng từ lâu.
Đó là trường hợp của một thiếu nữ bị bịnh lao xương háng, như
đã kể trong Chương năm. Sau khi mắc phải chứng bịnh này một thời gian rất lâu,
thiếu nữ ấy yêu cầu ông Cayce soi kiếp và cho biết xem cô có thể làm nghề gì trở
nên hữu ích cho xã hội. Ông Cayce khuyên cô nên học đàn, và cho biết thêm rằng
cô có thiêu tư về âm nhạc, vì trong một kiếp trước ở xứ cổ Ai Cập, cô đã từng
chuyên môn về loại đờn dây. Người thiếu nữ nghe theo và nhận thấy rằng quả có một
khả năng vững chắc về đờn dây, mặc dầu trước kia cô chưa hề học đàn bao giờ.
Sau một thời gian, cô đã có thể biểu diễn môn đờn dây trước công chúng, và mặc
dầu tài nghệ của cô chưa đủ để làm cho cô được nổi tiếng, nhưng ít nhất cô đã
làm một nghề hữu ích để tìm thấy lẽ sống cùng hạnh phúc trong cuộc đời của một
phế nhân. Trong những kiếp trước gần đây, cô đã làm những nghề nghiệp khác. Như
vậy, trong trường hợp này, một quả báo xác thân đã xuất hiện thình lình để làm
gián đoạn một sự nghiệp, và làm sống lại một tài năng đã quên lãng và bỏ phế từ
lâu.
Một vấn đề khác được nêu ra: Một linh hồn phải có kinh nghiệm
về bao nhiêu nghề nghiệp khác nhau trước khi sự tiến hóa của y được coi như là
tròn vẹn? Để đi đến mức tuyệt đỉnh của cuộc tiến hóa, mỗi linh hồn phải trải
qua rất nhiều kinh nghiệm khác nhau. Trong Thái Dương hệ, không có một linh hồn
nào được coi như đã phát triển hoàn toàn về nghệ thuật chẳng hạn, nếu đồng thời
y lại hoàn toàn dốt về ngành cơ khí, y học, hay xã hội học. Người ta có thể
quan niệm rằng mỗi linh hồn phải trải qua ít nhiều hiểu biết và kinh nghiệm về
tất cả mọi ngành học thuật và hoạt động trong hoàn vũ.
Trong rất nhiều trường hợp, có một sự liên hệ chặt cheẽ giữa
vấn đề nghề nghiệp và vấn đề tâm linh. Nói một cách khác, trong nhiều trường hợp,
một sự khó khăn về nghề nghiệp dường như là có nguyên nhân ở một sự khuyết điểm
về tánh tình, cần phải được sửa chữa. Đó là trường hợp của một người đàn ông độc
thân, bốn mươi tám tuổi, là nhân viên địa ốc, vì tánh tình khó khăn, nên càng
ngày ông càng bị lúng túng trong việc hành nghề của ông. Ông yêu cầu ông Cayce
soi kiếp để biết xem y có nên đổi nghề khác hay chăng, và nghề nào sẽ thích hợp
với ỷ Ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp trước ông đã làm nghề dạy học,
nhưng ông có một tánh chất hung bạo, cộc cằn, và độc đoán. Ông đã mang theo cái
mầm mống của tánh cah61t cứng rằng và bạo tàng đó qua kiếp này, nó làm cho ông
khó hòa mình trong sự giao tiế ngoài xã hội. Ông Cayce khuyên không nên đổi nghề
mặc dầu ông đang bị nhiều nỗi khó khăn trong nghề nghiệp. Cuộc soi kiếp nói:
"Mặc dầu điều đó không phải dễ làm, nhưng anh đang học một bài học cần thiết."
Có nhiều trường hợp tương tự như thế trong tập hồ sơ Cayce,
làm cho người ta nhớ lại một tư tưởng của Tolstol. Nhà văn hào này nói rằng những
hoàn cảnh trong đời người giống như những giàn tre dùng để cất nhà. Những giàn
tre này được dựng lên để làm cái sườn chung quanh, nhờ đó một ngôi nhà lầu được
xây dựng lên ở phía trong. Nhưng cái sườn tre bên ngoài vốn không có một giá trị
tuyệt đối và trường cửu. Khi ngôi nhà lầu đã dựng lên xong, thì người ta dẹp bỏ
cái giàn tre ở phía ngoài. Có lẽ những nghề nghiệp làm ăn của con người cũng có
thể được quan niệm bằng cách đó, giống như những cái sườn hay cái khuôn để nung
đúc nên những điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh.
Một mặt khác, những khuynh hướng nghề nghiệp không phải luôn
luôn đều có mục đích phát triển đức tính. Nó có thể là cần thiết cũng như bao
nhiêu những ngành khác thuộc về cõi giới vật chất, mà con người phải chinh phục
bằng tinh thần. Có lẽ nhờ đó mà con người phải chinh phục bằng tinh thần. Có lẽ
nờn đó mà con người sẽ tập chế ngự vật chất, hiểu những nguyên tắc và định luật
của đời sống và hợp tác với Thiên Cơ.
Những tập hồ sơ Cayce chứa đựng nhiều tài liệu về cuộc đời một
số người, mà những khả năng đã bị quên lãng từ lâu và chôn vùi trong những chỗ
thâm sâu kín đáo của tiềm thức. Cuộc soi kiếp nhắc nhở cho đương sự chú ý đến
những khả năng tiềm tàng đó, và trong rất nhiều trường hợp, những khả năng một
khi đã thức tỉnh, liền có thể nảy nở mau chóng để trở thành một thiên tư đặc biệt
về nghề nghiệp. Người ta có thể truy nguyên khả năng đặc biệt này ở những kinh
nghiệm mà đương sự đã thâu nhập được trong những tiền kiếp. Biết được điều này,
tức là biết rằng mọi người trong chúng ta có dự trữ trong tiềm thức một số vốn
kiến thức hay khả năng chưa được dùng đến, cũng ví dụ thình lình chúng ta được
biết rằng trong một thành phố mà chúng ta ở từ thuở nhỏ, chúng ta có một số tiền
dự trữ trong ngân hàng, nhưng đã quên hẳng từ lâu.
Những sự say mê thích thú của chúng ta về một ngành nào đều
có thể truy nguyên từ những hoạt động của ta trong những kiếp trước về ngành ấy.
Có người chỉ thích thú đặc biệt về những sự vật của xứ Tây Ban Nha; hoặc có người
chỉ ưa thích những sự vật của xứ Trung Hoa, hay Nhật Bổn chẳng hạ; đó chắc là họ
đã từng sống kiếp trước ở những xứ ấy. Nếu những người ấy biết trau dồi, khuynh
hướng của họ bằng cách học sinh ngữ Tây Ban Nha, hoặc khảo cứu về lịch sử và
văn hóa Trung Hoa hay Nhật Bản, hoặc khảo cứu về lịch sử và văn hóa Trung Hoa
hay Nhật Bản, họ có thể làm thức động những ký ức sâuxa trong tiềm thức và những
khả năng đã thâu nhập được trong kiếp trước ở xứ ấy. Nhờ đó, họ cũng có thể tiếp
xúc với những người trong những kiếp trước đó. Sự gặp gỡ với những người mà ta
đã công nhận duyên cũ từ kiếp trước có thể hoàn toàn làm thay đổi cuộc đời của
chúng ta bằng cách mở cửa chúng ta bước vào những địa hạt hoạt động mà chúng ta
không hề nghĩ đến. Việc làm đầu tiên trong vấn đề hướng nghiệp là kiểm điểm lại
những khả năng của mình chọn lấy khả năng trội nất của đương sự.
Nhưng trong những trường hợp khả nghi không quyết đoán, hoặc
cần đưa ra cho đương sự những cảnh cáo đặc biệt nào đó, thì ông Cayce thường
đưa ra những nguyên tắc đại cương) của họ. Những nguyên tắc đó thường được lặp
lại, nhiều lần, đến nỗi ngưòi ta có thể coi đó như những giáo điều căn bản cho
việc chọn nghề nghiệp.
Nguyên tắc thứ nhất là: Hãy nêu cao một lý tưởng, định rõ mục
đích sâu xa của cuộc đời mình, và tìm cách thực hiện lý tưởng đó. Sự nêu cao lý
tưởng và một điều quan trọng trong vấn đề hướng nghiệp. Những cuộc soi kiếp đều
nhấn mạnh rằng ta nên biết minh bạch rõ ràng về cái lý tưởng của một người thường
là phức tạp nhưng chúng ta chỉ có thể đi đúng con đường của mình muốn đi tới. Sự
lựa chọn nghề nghiệp phải căn cứ trên vấn đề cao lý tưởng trước nhất.
Nguyên tắc hai là: Hãy cố gắng giúp đỡ và phụng sự kẻ khác. Bằng
cách nào ta có thể phụng sự nhân loại cho được hiệu quả nhất? Đó là phương châm
tối hậu để làm tiêu chuẩn cho việc chọn lựa nghề nghiệp của mỗi người. Ta nên
coi mình như những phần tử của nhân loại. "Phụng sự kẻ khác, tức là phụng
sự Thượng Đế một cách cao cả nhất." đó là một câu thường được lập đi lập lại
trong các cuộc soi kiếp. Một câu khác nữa cũng thường được nhắc lại nhiều lần:
"Kẻ nào muốn trở nên cao cả nhứt trong các ngươi, là kẻ chịu làm tôi tớ phụng
sự cho tất cả." "Chỉ có một lý tưởng duy nhất, là làm cho mọi lý tưởng
của ta đều hỗn hợp với sức mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ; làm cho thể xác, trí tuệ,
tâm linh của chúng ta trở nên mãnh lực tích cực hoạt động để bồi đắp, trợ giúp
cái sức Sáng Tạo nói trên và cho nhân loại."
Đi kèm với phương châm này, ông Cayce còn nói rằng vấn đề tiền
bạc, danh vọng ở đời phải đi sau ý muốn phụng sự, và chỉ là những vấn đề phụ
thuộc mà thôi. Một đứa trẻ mười ba tuổi có nhiều khả năng và chưa biết nên theo
học về ngành nào, đặt câu hỏi: "Tôi phải phát triển khả năng nào để khi đến
lúc trưởng thành tôi có thể thành công về phương diện tiền bạc?" Câu trả lời
là: "Em hãy quên vấn đề tiền bạc, mà chỉ nên nghĩ rằng em có thể trợ giúp bằng
cách nào để làm cho cõi thế gian trở nên một cõi giới tốt lành hơn. Đừng khi
nào lãng phí công lao cố gắng chỉ vì vấn đề tiền bạc. Tiền bạc sẽ đến với ta
khi ta dùng khả năng của mình để phụng sự nhân loại."
Một người khác hỏi: "Tôi nên theo đuổi ngành hoạt động
nào để có thể kiếm được nhiều tiền nhất?" Câu trả lời cho ông là:
"Anh hãy gác lại vấn đề tiền bạc. Vấn đề tiền phải là cái hậu quả của sự
thành thật cố gắng muốn sống cách nào để giúp cho kẻ khác cùng đi trên con đường
tiến hóa với mình. Sự thịnh vượng về vật chất phải đi sau lý tưởng phụng sự. Chỉ
có Thượng Đế mới cho ta sự phú quý thịnh vượng, nếu ta xứng đáng."
Một nhà xuất nhập cảng được lời khuyên sau đây: "Phương
cah6m của ông phải là: Tôi muốn phụng sự đồng loại của tôi, để cho họ có thể
dùng tôi làm cái đà tiến bước. Tiền tài danh vọng sẽ đến với tôi như những kết
quả của một đời tốt lành và phụng sự; chứ ta không nên coi nó như những miếng mồi
thơm vì nó mà ta phải hành động trái với lương tâm để chiếm đoạt cho được."
Nguyên tắc thứ ba là: "Hãy xử dụng những gì mình đang có
trong taỵ Hãy bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại của mình bây giờ." Câu này dường
như thừa, vì đó là lẽ hiển nhiên. Tuy vậy, cũng như những sự thật hiển nhiên
khác, nó cần được lập lại, vì người ta vốn hay khinh thường những điều giản dị
và gần với mình, để đi tìm những chuyện xa vời, khó khăn. Có nhiều người muốn
phụng sự nhân loại, nhưng lại có một lý tưởng quá viễn vông, không thiết thực,
hoặc không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Tron khi họ nhìn thấy cái mục đích
cao cả, đáng cho họ theo đuổi, thì họ lại bị mắc kẹt trong một cuộc đời phức tạp
mà họ không thể nào thoát ra khỏi. Những trách nhiệm gia đình, hay những trở lực
về tài chánh, làm ngăn trở sự thực hiện lý tưởng của họ. Đối với những người
này, những cuộc soi kiếp thường khuyên rằng: "Người ta chỉ có thể xử dụng
những gì người ta có trong lúc này." Cuộc hành trình dài muôn dặm đường chỉ
bắt đầu bằng một bước chân. Bước chân đầu tiên đó, người ta phải làm ngay bây
giờ ở chỗ vị trí hiện tại.
Một người đàn bà 49 tuổi hỏi ông Cayce: "Tôi phải làm
công việc gì trong đời tôi?" Câu trả lời là: "Bà hãy giúp đỡ những kẻ
yếu đuối và những kẻ vấp ngã; giúp thêm sức mạnh và can đảm cho những kẻ thất bại."
Bà ấyhỏi: "Bằng cách nào tôi có thể làm công việc đó?" Bà hãy bắt đầu
với những cơ hội hiện tại. Hãy sử dụng những gì bà đang có và bắt đầu ngay ở chỗ
bà đang ở. Bà hãy tin tưởng ở nơi Thượng Đế. Bà đừng nói rằng bà muốn làm công
việc gì và ở tại nơi nào, mà hãy nói rằng: Tôi tự hiến dâng cho Ngài. Ngài hãy
dùng tôi vào bất cứ công việc gì, và bất cứ nơi nào Ngài muốn."
Một người đàn bà khác cũng có sự thắc mắc giống như thế. Bà ấy
đã 61 tuổi, vợ của một vị lãnh sự nọ Ở một xứ Bắc Âu. Bà ta đã đi du lịch nhiều
nơi ở miền Trung Đông và có nhiều kiến thức sâu rộng. Bà ấy hỏi: "Tôi phải
làm gì để phụng sự nhân loại một cách hữu hiệu nhất?" Câu trả lời cũng giống
như trường hợp kể trên: "Bà hãy làm bất cứ việc gì đến với bà hằng ngày.
Không phải những kẻ làm nên những kỳ công hiển hách, tiếng tăm vang dội lẫy lừng
như sóng cồn đại hải, mới là những kẻ làm được nhiều việc nhất; mà chính là những
người biết đón nhận những cơ hội phụng sự xảy đến hằng ngày. Khi những cơ hội ấy
được tận dụng triệt để, thì những dịp tốt lành hơn sẽ xuất hiện, và những công
việc phụng sự lớn lao sẽ đến với họ. Đó là bởi vì khi ta dùng những phương tiện
đang có trong hiện tại để phụng sự kẻ khác, thì những phương tiện ấy sẽ không
bao giờ mất, mà tự nó sẽ đến với ta một cách dồi dào hơn trước."
Một người khác cũng nhận được lời khuyên: "Anh hãy bắt đầu
ở chỗ vị trí hiện tại của anh. Và khi anh đã làm xong bổn phận. Ơn Trên sẽ khiến
cho anh gặp gỡ những cơ hội tốt lành và lớn lao hơn!" Lời khuyên có vẻ triết
lý này không những áp dụng cho những người thình lình giác ngộ và có ý muốn phụng
sự nhân loại, mà cũng áp dụng cho cả những người muốn làm những việc to tát,
vang dội tiếng tăm, bất cứ trên lĩnh vực hoạt động nào. Dường như sự lập đi lập
lại trong các cuộc soi kiếp về việc "Người ta cần phải sử dụng những gì
mình đang có trong tay và nên bắt đầu từ chỗ vị trí hiện tại của mình," là
để chống lại hai khuynh hướng thường tình của người đời; đó là: Sự tê liệt,
không hoạt động vì kiến thức hẹp hòi nông cạn; và sự tê liệt vì một tầm nhãn
quang quá bao quát rộng lớn.
Có nhiều người biết mục đích mà họ muốn thực hiện trên các địa
hạt nghệ thuật, văn hóa, khoa học hay chính trị. Nhưng vì một sự tính toán sai
lầm, họ bỏ dở giữa chừng và không làm gì cả: Mục đích của họ dường như không thể
thực hiện được. Vì họ không biết rõ về tính cách liên tục của mọi cố gắng và mọi
sinh hoạt trong đời sống con người, nên họ không nhận thức rằng thời gian không
có quan hệ gì cả, và những gì đã bắt đầu trong một kiếp sẽ đem lại kết quả
trong kiếp sau. Họ lầm tưởng rằng vì thời gian ngắn ngủi, nên họ không thể thực
hiện được mục đích, thí dụ như trở nên một nhạc sĩ tài hoa trong kiếp này. Họ bị
tê liệt cả ý chí tiến thủ, bỏ dở việc học âm nhạc: Bởi đó họ đứng một chỗ không
tiến thêm nữa, và trong những kiếp sau họ lại khởi sự học lại từ chỗ bắt đầu!
Nhưng nếu họ biết áp dụng lời khuyên đầy minh triết của ông Cayce là hãy bắt đầu
từ chỗ vị trí hiện tại và xử dụng những gì mình đang nắm trong tay, thì sự tê
liệt kia sẽ không còn, và họ sẽ dùng nghị lực của họ để hoạt động theo đúng đường
lối, với nhiều triển vọng tốt đẹp và tin tưởng nơi sự thành công trong tương
lai.
Ngoài ra, có những người nhờ thuết Luân Hồi đã hé mở cho họ
nhìn thấy cái viễn ảnh của một tương lai sáng lạn huy hoàng, nhưng họ lại không
diễn đạt cái đức tin đó ra bằng những hành động xử thế hằng ngày. Nhiều nhà triết
học và nhân chủng học mãi đắm chìm trong việc học hỏi khảo cứu các định luật
thiên nhiên trong Vũ trụ, nó cai quản sự tiến hóa tâm linh của nhân loại, đến nỗi
họ quên rằng sự tiến bộ của con người không phải chỉ được thực hiện bằng sự học
hỏi suông mà thôi. Họ chẳng khác nào như người du khách mãi lo nghiên cứu lộ
trình trên tấm bản đồ một cách chăm chú và say sưa đến nỗi họ không bao giờ cất
bước ra đi! Họ mảng lo nhồi sọ với những vấn đề trừu tượng siêu hình đến nỗi
khi cần phải thực hiện một sự thay đổi tâm tính hay làm một việc hữu ích để
giúp đỡ nhân loại, thì lại thờ ơ chểnh mảng và hoàn toàn vô dụng.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce luôn luôn nhắc nhở cho
chúng ta biết rằng dầu cho chúng ta sống trong hoàn cảnh nào, những hoàn cảnh
đó đều hoàn toàn thích hợp với tình trạng tiến hóa tâm linh của chúng ta trong
lúc hiện tại. Dầu cho chúng ta gặp phải những hoàn cảnh khó khăn trái ngược,
chúng ta cũng nên coi đó như là những cái phương tiện để giúp chúng ta lấy đà
tiến bước, chớ không nên coi đó như là những chướng ngại. Khi ta biết vượt qua
những khó khăn trở ngại đó, thì chúng ta mới được coi như là xứng đáng nhận
lãnh những hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn. Trong một cuộc soi kiếp có lời
khuyên như sau:
"Anh hãy nhớ rằng dầu anh sống trong hoàn cảnh nào, điều
đó cũng là cần thiết cho sự tiếp xúc hằng ngày với mọi người, và chính là nhờ sự
cải thiện từng ngày, từng giờ, từng phút đó mà anh thực hiện cuộc tiến hóa dài
hạn của anh trong tương lai. Chính nhờ xây từng viên gạch nhỏ, mà người ta mới
dựng nên một ngôi nhà lầu nhiều tầng. Khi một linh hồn đã chuẩn bị saün sàng để
phụng sự, nhờ sự công phu cố gắng cải tiến không ngừng từng giờ từng phút, mà
những điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa của y sẽ xuất hiện để giúp cho y có
thể tiến hóa mau hơn, và gặp những hoàn cảnh cùng cơ hội thuận tiện hơn.
"Vậy anh hãy xây dựng tương lai của anh cũng như một toà
nhà lầu, với những gì anh có saün trong tay, và tuần tự xây thành những viên gạch
nhỏ. Anh chớ nên nóng nảy vội vàng và băn khoăn lo lắng: Tất cả mọi sự xây dựng
chẳng phải là công trình sáng tạo thiêng liêng của Ngài ".
Chương 21 - Bí Quyết Đào Tạo Khả Năng
Những điều tiết lộ của ông Cayce về những khả năng của con
người và sự phát triển khả năng một cách liên tục từ kiếp này qua kiếp khác, có
những ảnh hưởng rất sâu sắc về phương diện thực tế. Trước hết, nó trình bày cho
ta thấy những triển vọng vô giới hạn về sự tiến hóa của con người, và điều này
tùy ở sự cố gắng của từng cá nhân. Nói về những khả năng tiềm tàng được tích tụ
từ lâu trải qua thời gian, thì người ta có thể xử dụng lần hồi chẳng khác nào
như một số vốn cất trong ngân hàng. Lẽ tự nhiên, những nguồn tài nguyên tiềm
tàng về khả năng và đức tánh của mỗi người hoàn toàn tùy thuộc nơi cố gắng mà y
đã thực hiện trong dĩ vãng, và đã tích tụ trong kho tàng tâm linh của y.
Điều này cũng áp dụng cho những khả năng của ta trong tương
lai. Cũng như những khả năng của chúng ta bây giờ là do sự cố gắng tích lũy từ
thuở quá khứ, thì những khả năng mà ta sẽ có trong tương lai cũng là do bởi những
cố gắng của ta đang làm ngay bây giờ. Những số vốn nghị lực, thời giờ và công
phu khó nhọc mà chúng ta dùng để thu thập một khả năng trong kiếp hiện tại sẽ
không phải là mất, mà sẽ mang lại kết quả cho ta xử dụng trong những kiếp tương
lai.
Trên thế gian có hàng nghìn người âm thầm cố gắng theo đuổi một
chí hướng nuôi từ thuở nhỏ mặc dầu họ biết chắc rằng họ không bao giờ thực hiện
được. Xét theo lối thường tình, thì đó thật là một việc đáng buồn; nhưng sự cố
gắng và thích thú say mê của họ thật ra không phải là hoài công vô ích nế người
ta xét lại vấn đề dưới ánh sáng của thuyết Nhân Quả Luân Hồi.
Một ông lão cố gắng vun trồng những khóm hoa trong vườn nhà
ông, có lẽ không mong ước chiếm giải quán quân về cuộc thi trồng hoa đẹp; hoặc
được lời khen tặng và biểu dương trong những tạp chí nông nghiệp. Tuy nhiên,
trong lúc hiện tại, ông ta đang xây đắp mầm mống cho sự hiểu biết về ngành thảo
mộc học, để rồi trong một kiếp tương lai, nó sẽ đâm chồi nẩy lộc thành những kiến
thức sâu rộng về ngành này và làm ông ta trở thành một nhà trồng tỉa trứ danh
hay một nhà thảo mộc học uyên bác.
Những cố gắng thô thiển và vụng về của một người đàn bà đứng
tuổi đang tập vẽ tranh, không phải chỉ là một đầu đề chế giễu của bạn bè thân
quyến trong gia đình cô mà thôi; nó còn là những bước đầu cho một nghệ thuật
già dặn và chắc chắn để làm cho cô có thể trở thành một họa sĩ tài danh trong một
kiếp xa gần trong tương lai.
Ông giáo sư âm nhạc trải qua nhiều năm tận tụy với nghề dạy đờn
dương cầm, vẫn cố gắng hành nghề một cách vô danh, không tên tuổi. Với thời
gian trôi qua, năm tàn tháng lụn, ông không còn nuôi hy vọng trở thành một nhạc
sĩ tài danh nữa, nhưng có lẽ ông ta sẽ tự an ủi nếu ông ta biết rằng chính ông
ta đang lần bước đi trên con đường sự nghiệp vẻ vang trong những kiếp tương
lai. Những tiếng đàn du dương gieo vào tiềm thức của ông một ý niệm chắc chắn về
nhịp độ; sự lập đi lập lại những bài đàn dạy học trò, trải qua thời gian đã
gieo trong tâm hồn ông những vết ký ức sâu đậm không thể phai mờ về nhạc lý. Chỉ
trong một, hai, hay ba kiếp nữa, ông sẽ trở thành một thiên tài về đàn dương cầm,
làm cho người đương thời phải ngạc nhiên khâm phục về tài năng xuất chúng của
ông.
Nói tóm lại, theo thuyết Luân Hồi, không có một cố gắng nào
là mất đi. Nếu luật Nhân Quả hành động một cách chắc chắn và vô tư để đem lại
cho ta sự trừng phạt về những hành vi bất chính của mình, thì nó cũng hành động
một cách vô tư chắc chắn để đem lại cho ta phần thưởng về những cố gắng công
phu có tính cách xây dựng. Nếu chúng ta thật tin tưởng nơi điều quan trọng này,
thì chúng ta sẽ không bao giờ bị thất vọng trên đường đời. Mỗi giờ phút trôi
qua, chúng ta đều tự tạo nên tương lai của mình. Cái tương lai đó được tốt đẹp
hay không, là tùy nơi trong lúc hiện tại chúng ta có những cố gắng tốt lành và
xây dựng, hay là chúng ta lãng phí thời giờ vô ích để tìm những thú vui vật chất
phù du giả tạm của cuộc đời trần thế.
Hiểu như thế, người ta sẽ không còn cho rằng giai đoạn cuối
cùng của đời người, thường gọi là lúc "Tuổi già", là một giai đoạn bất
lực và vô dụng, cần phải nghỉ ngơi, an phận, và không làm gì cả. "Tuổi
già" hiểu như thế là một sự dị đoan. Theo các cuộc soi kiếp của ông Cayce,
ở xứ Ai Cập cách đây độ mười ngàn năm, đời sống trung bình của con người là
trên một trăm tuổi. Sự ăn uống tiết độ, đúng phép vệ sinh, và bí quyết giữ cho
tư tưởng được lành mạnh trong sạch, giúp cho con người sống rất lâu, và thậm
chí đến lúc tuổi già, họ cũng không đến nỗi rung rẩy lụm cụm. Khoa học hiện đại
cũng đã chứng minh điều này. Khoa Tâm bịnh học (Psychosomatiquie) cũng khám phá
rằng sự già nua một phần lớn do bởi một bệnh trạng tâm lý của đương sự, theo đó
ý nghĩa rằng y là một người vô ích, vô dụng trong xã hội, và đã đến lúc y cần
phải được thay thế bởi những người trẻ.
Sở dĩ họ có thái độ đó bởi vì họ có cái quan niệm theo
"Chiều ngang" về cuộc đời, tức là một thói quen hay so sánh mình với
những kẻ khác trên bình diện "Ngang" trong thời gian và không gian.
Nhưng theo thuyết Luân Hồi thì quan niệm chân thật về cuộc đời phải là một quan
niệm theo "Chiều dọc". Tự so sánh mình với những người trẻ tuổi hơn,
không những là một điều chướng, mà còn là vô ích vì chúng ta chỉ hoạt động để tự
vươn mình và tiến bộ lấy cho mình, sự tiến bộ của chúng ta không phải là tương
đối với kẻ khác, mà là tương đối với chính mình và với Thượng Đế.
Hiểu như thế, ta sẽ không còn thắc mắc ganh tị với những người
ở vào một hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn hoàn cảnh của ta trong hiện tại.
Sự ganh tị chỉ là một ảo tưởng vật chất. Trên phương diện tâm linh, ta không
đua tranh với ai cả, nếu không là với chính linh hồn mình.
Dầu sao, một người đến lúc tuổi già không nên tự coi như một
phế nhân, ở ngoài lề xã hội. Trái lại, trong sự tịch mịch âm thầm, y nên dành
thời giờ còn lại để trau dồi một vài khả năng mới, và học hỏi thêm những gì mà
trước kia vì bận rộn công việc hoặc vì bổn phận gia đình, y không có thời giờ
theo đuổi một cách tận tâm và trọn vẹn. Làm như vậy, y sẽ xây đắp nền tảng cho
sự tiến bộ tâm linh của y trong những kiếp sau. Những cuộc soi kiếp của ông
Cayce thường nói rằng chúng ta nên sống một cách xây dựng cho đến lúc cuối cùng
trong đời tạ Dưới đây là một vài đoạn có ý nghĩa:
"Anh hãy có điều độ trong tất cả mọi chuyện; không nên
làm điều gì thái quá. Được như vậy, anh sẽ sống đến trăm tuổi, với điều kiện là
anh sẽ sống cách nào để xứng đáng với tuổi thọ của anh. Anh có gì để ban rải
cho kẻ kkhác? Nếu anh không có gì để cho ra, thì anh có quyền gì để sống cho chật
đất?"
Hỏi: "Tôi phải làm sao để tự chuẩn bị cho lúc tuổi
già?"
Đáp: "Cô hãy tự chuẩn bị cho lúc hiện tại. Tuổi già sẽ
làm cho cô khôn ngoan già dặn thêm. Cô hãy dịu dàng, dễ thương và biết thương
người, nếu cô muốn được trẻ trung mãi mãi... "
Hỏi: "Tôi phải làm gì để khỏi sự bị cô đơn khi tuổi già
sắp đến?"
Đáp: "Anh hãy săn tay áo lên và bắt tay vào làm một việc
gì để giúp đỡ một người nào đó. Anh hãy làm cho người khác vui vẻ hạnh phúc, và
hãy tự quên mìn để giúp đỡ người chung quanh. Như thế, anh sẽ không còn sợ sệt
lo âu về những gì có thể xảy đến cho mình và sẽ không cảm thấy buồn chán, cô
đơn."
Hỏi: "Tôi phải làm gì để được yên ổn trong lòng và tìm
thấy sự an tịnh?"
Đáp: "Anh hãy giúp đỡ kẻ khác. Anh hãy quyết định mỗi
ngày làm một điều thiện, hoặc giúp một tay nâng đỡ một việc gì cho một người
nào đó cần sự giúp đỡ. Thí dụ: Anh có thể đến viếng thăm một người bịnh, và trò
chuyện an ủi họ. Như thế anh sẽ thấy trong lòng yên ổn, không thắc mắc, nghĩ ngợi,
lo âu."
Như vậy, tính cách liên tục của đời người trở nên một sự thật
đầy ý nghĩa, xét về vấn đề phát triển khả năng và đức tánh trải qua nhiều kiếp
luân hồi sinh tử. Hiểu được chân lý đó, người ta sẽ không còn có sự ganh tị đối
với kẻ khac, vì sự ganh tị là một điều vô ích. Triết gia Emerson nói sẽ có lúc
người ta nhận định rằng thói ganh tị là do sự vô minh mà ra. Điều ấy rất đúng,
nhưng nó chỉ được hiểu rõ là khi nào người ta hiểu thuyết luân hồi. Những kẻ
ganhtị là những người không biết rõ sự kiện này, là bất cứ điều gì người khác
làm được, ta cũng có thể làm được; tất cả những gì người khác có, như sắc đẹp, tài
năng, danh vọng, giàu sang, đức hạnh... Ta cũng có thể có được, với điều kiện
chúng ta chỉ cần thực hiện những cố gắng cần thiết mà thôi.
Một thái độ xử thế thích nghi về điểm này đã được diễn tả
trong cuộc đời của nhạc sĩ trứ danh Paganinị Người ta thuật lại rằng nhạc sĩ
này có lần bị hai năm tù vì mắc nợ không trả được. Trong khi bị giam, hằng ngày
ông vẫn chơi một cây đàn vĩ cầm cũ, chỉ có ba dây. Sau khi được phóng thích,
ông trình diễn đàn vĩ cầm trước công chúng với một ngón đàn sắc xảo tuyệt diệu
hơn trước, làm cho cử tọa phải ngạc nhiên về tài nghệ xuất chúng của ông. Ngón
đàn đặc biệt của ông là mỗi khi đến những đoạn nhạc khó khăn nhất, thì ông bèn
cắn đứt sợi dây dưới của cây đàn vĩ cầm và tiếp tục kéo đàn chỉ có ba dây! Ngón
đàn tuyệt luân này, ông đã học được trong thời gian hai năm ngồi tù.
Việc bị giam cầm trong khám là một điều chướng ngại khó khăn
và là một nghịch cảnh, nhưng Paganini đã phản ứng một cách xây dựng, chứ không
thối chí hay thất vọng. Ngày nay con người còn sống ở thế gian, thì ông còn phải
bị những cảnh do quả báo đưa đến. Nhưng chúng ta không nên để ch nghịch cảnh đè
bẹp hoặc làm cho ta bị điêu đứng khổ sở; mà trái lại, giữa cơn nghịch cảnh,
chúng ta cũng vẫn có thể vui sống với một niều hy vọng.
Khi nghịch cảnh xảy đến không thể tránh khỏi, chúng ta có thể
chấp nhận nó một cách kiên nhẫn, can đảm và vui vẻ; và như thế, chúng ta xây đắp
nền tảng cho sự thành công vẻ vang trong tương lai.
Chương 22 - Tiềm Năng Của Con Người
Từ những đoạn trên, chúng ta đã thấy rằng luật Nhân Quả gồm
có hai khía cạnh: Khía cạnh liên tục và khía cạnh chấn chỉnh, hay sửa đổi. Nói
về khía cạnh liên tục của luật Nhân Quả, thì có nhiều khuynh hướng trái ngược từ
thuở quá khứ có thể xuất hiện cùng một lượt trong kiếp này, và tạo nên một sự xung
đột bên trong tâm hồn của một người.
Trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những khuynh hướng về
khả năng hay tánh tình của một người có thể truy nguyên từ những kinh nghiệm của
ông trong một kiếp trước. Thí dụ: Một người kia có những khuynh hướng về âm nhạc
mà ông đã hấp thụ trong một kiếp trước, nhưng đồng thời ông cũng mang theo một
khuynh hướng về ngành dạy học, từ một kiếp trước nữa. Thề là ông có cả hai
khuynh hướng về hai ngành học thuật khác nhau: Aâm nhạc và giáo dục. Những
khuynh hướng trái ngược này gây ra một sự xung đột âm thầm trong tâm hồn ông,
khi ông phải chọn lấy một nghề nhứt định. Ông sẽ là một nhạc sĩ hay một giáo sử
Trong nhiều năm, ông bị dày vò bởi một sự lưỡng lự phân vân, không biết chọn lấy
nghề nào. Sau khi sự xung đột ngấm ngầm này phải được giải quyết bằng cách dung
hòa cả hai khuynh hướng, hay là bỏ một nghề mà chỉ chọn lấy một nghề, tùy theo
lý tưởng của đương sự đối với cuộc đời, hay là do sự nhu cầu tài chánh.
Một sự xung đột còn khó khăn hơn nữa, là trường hợp mà đươngsự
chưa diệt trừ xong một tật xấu cũ. Thí dụ: Một người có thói khinh ngạo, di sản
từ một kiếp trước, trong kiếp đó ông lạm dụng quyền thế một cách độc tài đối với
một dân tộc bị áp chế. Trong một kiếp sau, ông đầu thai làm một đứa trẻ tàn tật
sống trong một túp lều nghèo nàn. Thói khinh ngạo của ông đã bị chận đứng vì luật
quả báo, và ông đã bắt đầu tập lấy thái độ khoan dung, ôn hoà với mọi người.
Nhưng thói khinh ngạo của ông vẫn chưa được diệt trừ tận gốc, và hãy còn biểu lộ
một phần nào. Bởi đó trong kiếp này, ông có hai khuynh hướng trái ngược lẫn
nhau trong tâm tính, khi thì ông có thái độ khinh ngạo, khi thì có lòng khoan
dung. Chính đương sự cũng biết rõ điều này, và mỗi khi ông nghĩ đến tình bác ái
đại hồng trong nhân loại, ông sẽ bắt đầu cố gắng diệt trừ thói kinh ngạo còn tiềm
tàng trong người. Nhưng phần nhiều, người ta không ý thức được vấn đề này.
Các tập hồ sơ Cayce có chứa đựng rất nhiều trường hợp như
trên, mà dưới đây là một trường hợp rõ rệt nhất:
Một người kia có hai khuynh hướng trái ngược: Khi thì khép chặt,
cách biệt, lạnh lùng; khi thì lại hồn nhiên, cởi mở. Theo cuộc soi kiếp, điều
này được truy nguyên từ hai loại kinh nghiệm khác hẳn nhau. Trong một kiếp trước,
ông là một tu sĩ trong một nhà tu kín bên Anh, chính kiếp này đã tạo cho ông một
tâm hồn khép chặt và lánh đời. Trong một kiếp trước nữa, ông là một người tình
nguyện tùng chinh trong cuộc Thánh Chiến hồi thời Trung Cổ; kiếp đó đã giúp cho
ông có tâm hồn cởi mở và yêu đời. Sự trái ngược đó làm cho mọi người đều xa
lánh, vì họ không dám chơi với một người tính khí bất thường, hôm qua vừa mới
vui vẻ hồn nhiên, hôm nay đã lạnh lùng cách biệt!
Ông Aldous Huxley có thuật chuyện một tu sĩ Y Pha Nho hồi thế
kỷ mười bảy tên là Pierre Claver, hy sinh tận tụy suốt một đời để phụng sự những
người da đen nhập cảng từ Phi Châu thường bị ngược đãi và đối xử tàn nhẫn. Tu
sĩ thường khuyên những mọi da đen này hãy ăn năn sám hối những tội lỗi của họ
đã làm. Ông Huxley nói: "Lời khuyên đó có vẻ dường như không đúng chỗ,
nhưng biết đâu tu sĩ có lý là vì dầu ở hoàn cảnh nào, con người cũng vẫn luôn
luôn cần phải cứu chuộc lại những tội lỗi và sai lầm trong quá khứ mà họ phải
chịu quả báo. Những sự ngược đãi, hung ác, bất công của người đời biết đâu chẳng
là những cơ hội để nhắc nhở cho chúng ta nhớ lại những hành động hung dữ, độc
ác bất công mà chính chúng ta đã làm trong những kiếp trước?"
Ông Huxley còn nêu ra một vấn đề quan trọng: đó là điều ảo tưởng
nó làm cho ta nghĩ rằng mình là trong sạch và vô tội. Phần nhiều chúng ta khi
lâm nghịch cảnh hay bị những nỗi đau khổ bất công, thường nghĩ rằng mình là oan
ức, vô tội mà phải bị thiệt thòi, chớ không nghĩa rằng có lẽ mình đã từng gây
ra những nỗi bất công đau khổ cho kẻ khác. Chúng ta luôn luôn tưởng rằng mình tốt
lành và vô tội. Có lẽ là do thói kiêu căng vốn tự nhiên trong mọi người, nhưng
còn một lý do khác, đó là sự lãng quên: Một định luật thiên nhiên đầy nhân từ
và bác ái khiến cho chúng ta quên đi một cái dĩ vãng sai lầm và tội lỗi trong
những kiếp quá khứ.
Một người đàn bà nọ phàn nàn: "Tôi luôn luôn đối xử tốt
lành với tất cả mọi người; nhưng người ta đối xử tệ bạc với tôi như vậy. Con
người thật là bạc bẽo và vô ơn!"
Chúng ta có thể đáp lại như vầy: "Phải, bà đã tốt lành
và lương thiện trong kiếp này bởi vì bà nhận thấy rằng về phần thể chất, bà
không đẹp; và bà chỉ có thể thâu phục được lòng người bằng những hành động tốt
lành và vị thạ Nhưng đó chỉ là một đức tánh mà bà mới tập. Bà hãy nhình lại kiếp
trước: Bà rất đẹp, với một nhan sắc đẹp duyên dáng, sắc xảo, mặn mà, nhưng lòng
bà rất độc! Ngày nay, bà chỉ gặt hái lấy những gì bà đã gieo trong kiếp trước.
Việc bà bị đối xử độc ác và bất công không phải là do bởi sự vô ơn tệ bạc của
người đời; mà đó chỉ là những quả báo của những hành vi độc ác mà bà đã gây ra
đối với kẻ khác. Bà đã trồng hoa thơm cỏ ngọt suốt đời, nhưng bà chỉ lấy gai nhọn
và trái đắng là những thứ mà bà đã gieo trong kiếp trước. Mùa gặt sau, sẽ đem lại
cho bà những hoa thơm trái ngọt mà bà đã gieo trong kiếp này. Trong khi chờ đợi,
bà hãy vui lòng nhận lãnh những quả đắng và gai nhọn, nhưng bà đừng thối chí và
hãy tiếp tục vun trồng hoa thơm trái ngọt một cách can đảm và đầy tin tưởng...
""
Những sự đau khổ và nghịch cảnh trong đời đều có một mục đích
giáo dục để đào tạo tánh tình, dầu cho đó là những tai nạn bên ngoài như chiến
tranh, dịch lệ, động đất, bão lụt; hoặc đó là những mối xung đột ngấm ngầm
trong tâm hồn. Khi nào khoa Tâm Lý Học nhìn nhận rằng tất cả mọi sự đau khổ cay
đắng, tai ương và nghịch cảnh của người đời đều có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm
để dìu dắt họ trên con đường tiến hóa, thì chừng đó ngành học thuật ấy đã tiến
được một bước khác lớn.
Chương 23 - Khía Cạnh Của Luật Nhân Quả
Trước đây, chúng ta đã thấy trường hợp của người nhạc sĩ mù,
mà nguyên nhân là do bởi kiếp trước, trong một bộ lạc dã man ở Ba Tư, ông đã lấy
dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt những kẻ tù binh để hành tội những người này.
Trong trường hợp này, người ta sẽ đặt câu hỏi: "Tại sao ông lại chịu trách
nhiệm về những phong tục bổn xứ hồi đương thời? Tại sao một người phải bị quả
báo trong khi ông chỉ thừa hành chức vụ mà xã hội giao phó cho ông?"
Thí dụ, hồi xưa nước Pháp dùng những đao phủ quân để hành tội
những phạm nhân trên đoạn đầu đài. Người đao phủ ấy chỉ là một công chức của
Nhà Nước và làm việc ăn lương của chính phủ. Có thể nào người ấy bị quả báo khi
ông thừa hành chức vụ chém đầu tội nhân do luật pháp bắt buộc chăng? Nếu là
không, thì tại sao người đao phủ của bộ lạc dã man nước Ba Tư hồi thời cổ, lấy
dùi sắt nung đỏ chọc vào mắt tù binh của một bộ lạc cừu địch, lại phải chịu quả
báo? Trước đây chúng ta đã thấy rằng không phải hành động gây nên nghiệp quả mà
chính là cái nguyên nhân làm động lực bên trong cho hành động ấy, chính cái
tinh thần bên trong làm chủ động cho mọi việc làm, mới là cái nguyên nhân tạo
nên nghiệp quả. Ngoài ra, còn có vấn đề trách nhiệm chung, hay nghiệp quả công
cộng, nghĩa là nếu một xã hội có những tập quán xấu xa, độc ác gây nên đau khổ
cho nhiều người thuộc về xã hội đó đều phải chia xẻ một phần nào trách nhiệm và
quả báo của xã hội ấy gây nên. Theo ý nghĩa của nền luân lý thông thường, nếu
những hành vi tàn bạo như sát phạt, giết chóc, gây thương tích cho kẻ khác, tuyệt
đối là những điều ác dữ, thì tất cả những người nào thuộc về thành phần của xã
hội tàn bạo đó đều phạm tội, nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp. Tội ác đó
càng tăng nếu họ biết rằng phong tục tập quán đó là độc ác, mà họ vẫn tiếp tục
tán thành và không làm gì để trừ bỏ những thói tàn bạo hung ác ấy. Và nếu họ trực
tiếp nhúng tay vào những hành động hung dữ ấy, thì tội ác của họ càng tăng hơn
nhiều.
Lấy dùi sắt nhọn chọc thủng mắt những người khác chỉ vì họ là
tù binh của một bộ lạc cừu địch, dĩ nhiên là một hành động hung ác bạo tàn. Nếu
người đao phủ tự trong lòng ông chống đối việc làm hung bạo này, và chỉ thừa
hành chức vụ vì bắt buộc phải tuân lệnh thượng cấp, thì có lẽ ông không gây nên
nghiệp ác. Nhưng nếu trong khi thừa hành chức vụ, tự trong lòng ông tán thành
việc làm hung ác này, nghĩa là ông cũng nuôi trong lòng một sự hung ác tương
đương với phong tục bổn xứ của ông, thì chắc chắn là ông phải chịu quả báo.
Vấn đề này được giải đáp một cách mỹ mãn trong kinh Bhagavad
Gita của Ấn Độ: "Làm mà như không làm, tuy hữu vi mà vô vi, nghĩa là làm một
cách vô tư, với một tinh thần giải thoát, không bám víu, không vụ lợi; đó tức
là cái bí quyết của sự hành động cao thượng, siêu thoát, và không gây nên nghiệp
quả... "
Thậm chí đến tình thương cũng phải là một tình thương vô tư,
không tha thiết, không chiếm hữu, một tình thương siêu thoát, chứ nếu không, nó
sẽ tạo nên những sợi dây trói buộc trong kiếp sau. Nếu người đao phủ xứ Ba Tư kể
trên chỉ thừa hành chức vụ với một tinh thần hy sinh theo như việc làm của những
nhà hiền triết thời xưa, không thỏa mãn dục vọng riêng, không có lòng hung dữ bạo
tàn và đàn áp kẻ khác, thì ông sẽ không gây nên ác quả. Theo lý luận đó, vì lẽ
người ấy đã bị quả báo mù mắt trong kiếp này, nên ta có thể kết luận rằng ông
đã nuôi thói hung ác trong khi thừa hành chức vụ, theo phong tục bổn xứ của y.
Trong chương mười một, chúng ta đã thấy rằng sự hiểu biết về
Luật Nhân Quả không khỏi làm cho người ta băn khoăn lưỡng lự trước một vài vấn
đề xã hội, và không biết sẽ hành động như thế nào cho hợp lý. Chúng ta đã thấy
rằng trong nhiều trường hợp, sự lạm dụng quyền năng trong những kiếp quá khứ đã
đưa đến cảnh nghèo khổ, khó khăn trắc trỏ trong kiếp hiện đại. Nếu phần nhiều sự
đau khổ buồn rầu của con người đều do bởi những việc làm ác của họ gây nên
trong quá khứ thì ta phải đối xử thế nào với những kẻ hoạn nạn khốn cùng? Ta phải
có thái độ như thế nào đối với hoàn cảnh khó khăn đau khổ của kẻ khác? Ta có
nên ngảnh mặt làm ngơ và nói như thế này chăng: "Này ông bạn ơi, ông bạn
đau khổ vì quả báo của ông bạn tự gây ra, chứ không phải oan uổng gì đâu. Tôi
không còn quyền can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả."
Ta có nên nghĩ rằng sự thiện cảm là một thái độ trái mùa, và
lòng nhân từ là một điều không phải chỗ của nó trước sự hành động vô tư của Luật
Nhân Quả hay chăng? Có lẽ ta không nên giải đáp những câu hỏi đó một cách hấp tấp
vội vàng, và với một sự cảm tình bồng bột. Chúng ta biết rằng một kẻ sát nhân
nguy hiểm sẽ không học được bài học của y, nếu vì lòng nhân hậu quá đáng, người
ta để cho ông được tự do có điều kiện sau một thời gian giam cầm ngắn ngủi.
Chúng ta biết rằng một người học trò dốt không thể học hết chương trình lớp học
của y, nếu ông giáo sư quá dễ dãi để cho y về sớm ba giờ mỗi ngày. Chúng ta biết
rằng một đứa trẻ không thể biết vâng lời, nếu người mẹ luôn luôn bênh vực con,
không để cho nó chịu hình phạt nghiêm khắc và roi vọt của người chạ Chúng ta biết
rằng những khó khăn trắc trở và đau khổ của người đời, dưới hình thức những tật
nguyền, tại nạn, nghèo khổ... Thật ra là sự biểu hiện ý muốn cải thiện và giáo
dục của Thiêng Liêng. Như vậy, làm sao ta dám can thiệp vào sự hành động của
Thiên Y, và phá luật lệ thiên nhiên?
Thí dụ, chúng ra thấy một người kia sống trong cảnh lầm than
khốn khổ, nghèo nàn cơ cực, với một thân hình tàn phế, tật nguyền, chúng ta không
khỏi động lòng thương hại. Nhưng nếu chúng ta xét mọi sự theo khía cạnh Nhân Quả,
chúng ta cũng có thể nhìn thấy con người bất hạnh ấy dưới một hình thức khác.
Chúng ta có thể nhìn về dĩ vãng và tưởng tượng người ấy trong một vai trò khác,
với một bộ y phục khác và sống trong một thời đại khác hơn bây giờ.
Chúng ta có thể tưởng tượng con người vô phước ấy dưới những
nét của một vị lãnh chúa nước Nga hồi thời Nga Hoàng; một vị lãnh chúa có một
thân hình cao lớn, lực lưỡng, khỏe mạnh, nhưng lại hung tợn, độc ác và vô nhân
đạo. Với những tài sản khổng lồ, giàu sang không kể xiết, ông đã tỏ ra lạnh nhạt
dửng dưng trước sự đau khổ của những người nông dân đã làm việc cặm cụi suốt đời
để làm giàu cho ỵ Với một thân hình tráng kiện, sức khỏe dồi dào, ông ra hiên
ngang hống hách, khinh thường những kẻ yếu đuối, đối xử tàn nhẫn với đàn bà, trừng
phạt thẳng tay không chút lòng thương xót đối với những kẻ đã làm mất lòng ông.
Đó là hình ảnh cho người của ông trong kiếp trước. Nhìn chung quanh ông, ta thấy
những nạn nhân của ông đang sống vất vưỡng, dở chết dở sống trên những vùng
hoang vu lạnh lẽo ở xứ Tây Bá Lợi Á, do bởi ông đã dùng quyền lực áp chế để đày
ải họ sang xứ này. Ta thấy những trẻ con xanh xao gầy còm, mặt mày ngơ ngác vì
đói lạnh, bởi cha mẹ chúng là những nông dân nô lệ, suốt đời phục dịch vị lãnh
chúa tàn bạo, nhưng vẫn không đủ cơm ăn áo mặc, vợ con phải chịu đói rách quanh
năm.
Khi chúng ta nhìn thấy cảnh tượng kiếp trước của người ấy như
thế, một cảnh tượng có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới, trong những
thời đại đã qua, thì chúng ta biết rằng ông sẽ có lúc phải trả quả báo về những
tội ác của ông đã làm. Và ngày nay, chúng ta đã gặp lại ông trong bộ áo của một
kẻ hành khất khốn khổ lầm than, thân hình tàn phế, chúng ta có thể nào còn
thương hại ông được chăng? Gặp cảnh này, chúng ta đã đứng trước một vấn đề tâm
lý, luân lý và xã hội có một tầm quan trọng rất lớn, một vấn đề mà chúng ta cần
phải hiểu rõ trong việc xử thế hằng ngày. Người ta đã tìm thấy một phương pháp
giải quyết vấn đề này trong chế độ xã hội của một xứ trên thế giới là xứ Ấn Độ.
Vấn đề mà chúng ta nêu ra khi chúng ta vừa mới chấp nhận thuyết
Luân Hồi, người Ấn Độ đã từng biết rõ từ bao nhiêu thế kỷ về trước. Người Ấn Độ
đã giải quyết vấn đề này bằng cách không can thiệp vào sự hành động của luật
nhân quả. Điều này giải thích một phần lớn thái độ thản nhiên của họ đối với những
kẻ đau khổ, hoạn nạn, khốn cùng, và cách đối xử đặc biệt mà họ dành cho những
người thuộc gia cấp cùng đinh (paria)
Chế độ giai cấp ở Ấn Độ vốn căn cứ trên pháp luật của đức
Manou, một luật gia và triết gia danh tiếng của Ấn Độ thời cổ. Cũng như Platon,
Ngài tuyên bố rằng theo luật tự nhiên, xã hội loài người chia ra từng thành phần,
tùy theo công việc hay chức nghiệp của mỗi người. Điều huấn thị này về sau trở
nên một tập quán xã hội, và tập quán đó dần dần kết tinh lại thành ra một trật
tự về giai cấp. Truyền thống, phong tục và thói dị đoan của một dân tộc gồm đến
chín mươi phần trăm những kẻ thất học, đã làm cho tập quán nói trên trở thành bất
di dịch, không thể sửa đổi.
Gia cấp hạ tiện gồm thành phần những người làm những công việc
ti tiện, thấp kém nhất trong xã hội. Giai cấp này về sau trở nên thành phần
"Bất khả tiếp xúc" (intouchable), do sự lý luận rằng nếu họ đầu thai
làm những người thuộc giai cấp hạ tiện đó, là để trả quả báo về những việc làm
xấu xa và tội ác của họ trong một kiếp trước. Bởi sử lý luận đó, người ta không
can thiệp vào luật Trời khiến cho họ phải lầm than khổ sở, mà cứ dửng dưng trước
sự hành động tự nhiên của Luật Quả Báo.
Nếu chúng ta chấp nhận lý lẽ thứ nhứt của người Ấn Độ, theo
đó Luật Nhân Quả đặt để ta vào một hoàn cảnh hay thân phận thích nghi, tương xứng
với nghiệp quả của mình, và nếu chúng ta cũng chấp nhận luôn lý lẽ thứ hai của
họ về đẳng cấp trong xã hội, thì ta thấy rằng lập luận của họ rất vững chắc và
rất có lý. Lập luận ấy dầu rằng có cái lý lẽ vững chắc, nhưng nếu nó đưa chúng
ta đi đến kết luận là phải dửng dưng trước sự đau khổ của kẻ khác, thì đó thật
là một điều đáng buồn! Tuy thế, ta cũng thấy có những người luôn luôn cố gắng
hoạt động trong các công trình cứu tế để làm dịu bớt sự đau khổ của nhân loại.
Đó là bởi vì họ có lòng nhân từ bác ái đến một mực độ rất cao.
Thấy vậy, lòng bác ái tức là tình thương bao la phủ nhận lý
luận của những kẻ thản nhiên, bất can thiệp, mặc dầu lý luận này bề ngoài dường
như có lý. Chính đó là ý nghĩa lời răn dạy của đấng Christ, vì Ngài đã dành trọn
cuộc đời để đi truyền giáo và chữa bịnh cho người thế gian mê lầm và đau khổ.
Cuộc đời của đấng Christ đã chứng minh rằng dầu cho tội lỗi của con người nặng
đến đâu, ta cũng phải luôn luôn đưa ra một cánh tay cứu giúp.
Cuộc đời của ông Edgar Cayce tuy không thể đem so sánh với đấng
Christ, nhưng ông cũng là một người cái tinh thần cứu độ chúng sinh giống như đấng
Christ, vì trong bốn mươi năm, ông đã hoạt động với một tấm lòng nhiệt thành và
bác ái để cứu giúp những người đau khổ từ thể xác đến tinh thần. Những cuộc soi
kiếp của ông Cayce đều xác nhận rõ ràng quan niệm này, là đời người bị chi phối
và cai quản bởi một định luật rất khoa học, đó là Luật Nhân Quả mà phương Đông
đã biết rõ từ lâu đời. Đồng thời, những cuộc soi kiếp đó cũng xác nhận định luật
bác ái nhân từ và lý tưởng phụng sự, là những điểm cốt yếu trong giáo lý của mọi
tôn giáo.
Không cần biết về tội lỗi của người khác ra sao trong những
kiếp quá khứ, chúng ra nên cố gắng giúp đỡ họ, và đừng lầm tưởng rằng làm như
thế, chúng ta có thể can thiệp vào sự hành động của Luật Nhân Quả. Ngoài ra,
chúng ta nên hiểu rằng dửng dưng nguội lạnh trước sự đau khổ của kẻ khác cũng
là một tội ác mà chúng ta phải chịu quả báo về sau này. Một khía cạnh khác của
vấn đề tế nhị này là con người có quyền tự do ý chí trong mọi hành động, và
không phải tất cả mọi việc lớn nhỏ trong đời đều đã được định saün từng chi tiết
theo một cái định mệnh bất di dịch.
Bởi đó, sự cố gắng của chúng ta để giúp đỡ một người đau khổ
hoạn nạn, không phải chỉ là một kinh nghiệm bản thân cần thiết cho ta để tự cải
thiện lấy mình trong sự thực hành tình bác ái mà thôi, nó còn là một điều quý
báu có thể làm thay đổi cả một thái độ tinh thần, và cả một cuộc đời của đương
sự. Xét cho cùng, ta nên hiểu rằng nghiệp quả là do tư tưởng tạo nên. Sự sinh
hoạt trái đạo, cách xử thế sai lầm, nguyên nhân là do sự lầm lạc trong tư tưởng.
Bởi đó, người ta chỉ có thể hoàn toàn thay đổi thái độ đối với cuộc đời bằng
ách hoàn toàn cải tạo tư tưởng. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tuyên bố một
cách rất đúng rằng tư tưởng chính là sức mạnh sáng tạo, và trừ phi có sự thay đổi
tư tưởng ở tự nơi mình, người ta không thể nào cứu chuộc và sửa đổi lại những
nghiệp quả xấu đã gây từ trước.
Hiểu theo một ý nghĩa thần bí, các tôn giáo cho rằng Thượng đề
sáng tạo ra con người; những theo ý nghĩa thiết thực thì con người tự sáng tạo
lấy mình! Luật Nhân Quả là cái định luật theo đó con người tự tạo nên cái thân
phận sang hèn, may rủi, tốt xấu, vui buồn của chính mình. Luật Nhân Quả đặt con
người trong sự kiềm tỏa, trói buộc và đặt ông trong vòng kỷ luật để cho ông tự
tu tiến lấy bản thân, nhưng đồng thời nó cũng là kẻ giải phóng và là một người
bạn tốt. Biết rõ điều này, người Phật tử luôn luôn giữ thái độ hồn nhiên, thanh
thoát trước mọi nghịch cảnh, mọi nỗi thăng trầm chìm nổi của cuộc đời và nói:
"Phật Pháp là chỗ trú ẩn của tạ"
Đối với những người thông hiểu mục đích tốt lành của mọi định
luật thiên nhiên trong Trời Đất, thì câu nói đó cũng có ý nghĩa đầy đủ với những
tính cách an ủi và khích lệ như câu tương tự của người tín đồ Gia Tô Giáo:
"Chúa Trời là niềm vui, là Ánh Sáng, và là đấng Che Chở của tạ"
Chương 24 - Một Phương Châm Xử Thế
Trong thời gian chữa bệnh giúp đời, ông Cayce đã nhận được
nhiều thơ tín từ khắp nơi trên thế giới gửi đến. Đọc những bức thư đó, người ta
không khỏi lấy làm buồn tủi, nghẹn ngào và động lòng trắc ẩn trước bao nỗi đoạn
trường, đau khổ, lầm than của nhân loại. Ông Cayce đã không quản công lao khó
nhọc, làm việc không tiếc thân, bất kể ngày đêm, để giúp đỡ tất cả mọi người bằng
những cuộc soi tiền kiếp, giúp đỡ và bày vẽ phương pháp điều trị bịnh tật, cùng
phương pháp giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ trong cuộc đời của họ.
Có những bức thư trình bày những nỗi thắc mắc, băn khoăn của
đương sự, chẳng hạn như của một thiếu phụ viết như sau: "Tôi tự hỏi không
biết ông có thể dành cho tôi một cuộc soi kiếp để giúp ý kiến về đời sống tình
cảm của tôi chăng? Tôi thật không còn biết tính sao? Tôi muốn tái giá và hy vọng
có một gia đình ấm cúng, hạnh phúc, nhưng tôi e ngại không biết có lấy được người
chồng vừa ý hay không, hay là có lẽ tôi không nên nghĩ đến việc tái giá nữa? Và
chắc có lẽ cũng không có ai thương yêu tôi?"
Một người đàn bà khác viết: "Làm sao cho chồng tôi thay
đổi tính tình, để cho gia đình tôi được sống trong bầu không khí yên vui và hạnh
phúc?"
Những người viết thơ bày tỏ tâm sự, dầu là thông minh hay dốt
nág, giàu hay nghèo, sang hay hèn, tất cả đều tiết lộ cho ta thấy sự thắc mắc
băn khoăn của nhân loại. Dầu họ là những người nhút nhát, tánh tình khép chặt,
cô đơn, bệnh tật, thất bại trên đường đời hoặc gia đình rối rắm, họ đều có một
nguyện vọng chung, là cải tiến tình trạng hiện tại để làm cho số phận của họ trở
nên tốt đẹp hơn. Trong hầu hết mọi trường hợp, họ đều được cho biết rằng nguyên
nhân tình trạng đau khổ của họ là do chính họ tự gây ra. Đó là điểm đầu tiên mà
đương sự phải nhìn nhận. Xét cho cùng, mỗi người tự tạo lấy những khó khăn đau
khổ cho mình, và bởi đó chính họ phải tự giải quyết những nỗi khó khăn đau khổ
đó.
Bất luận sự khó khăn trắc trở đó như thế nào, như khổ về sự
cô đơn; hoặc vì người chồng tánh tình xung khắc, không thể cùng nhau hòa hợp;
vì một đức con hư hỏng; một hoàn cảnh chật hẹp tù tùng chẳng hạn; chúng ta chỉ
có thể vượt qua được sự khó khăn bằng cách tự sửa đổi lấy tâm tính của mình. Điều
cần phải sửa đổi, chính là cái thái độ tinh thần và cách xử thế hằng ngày của
chúng ta vậy. Hãy dẹp bỏ tánh hay chỉ trích, chê bai, saün sàng lên án những
người chung quanh, tánh thù vặt, kiêu căng, ngã mạn, dửng dưng, lạnh lùng. Hãy
trừ bỏ thói ích kỷ, khinh mạn, đố kỵ. Những khó khăn chướng ngại của ta chỉ có
thể giải quyết được bằng cách tu sửa tánh tình, tập lấy những đức tính tốt
lành, nhân đức, thuộc về địa hạt tâm linh.
Sự giáo dục tâm linh và thay đổi thái độ trong cách xử thế hằng
ngày phải được đặt trong khuôn khổ một sự hiểu biết sâu xa về Vũ Trụ, cùng những
mối liên quan về Vũ trụ và Con Người. Quan niệm do biểu lộ rõ rệt trong các tập
hồ sơ Cayce và những cuộc soi kiếp mà ông đã thực hiện cho hằng trăm người.
Quan niệm ấy gồm có những đường lối đại cương như sau:
Có một Quyền Năng Sáng Tạo vô biên mà người ta gọi là Thượng
Đế.
Mỗi linh hồn là một phần tử của Thượng Đế.
Đời người có một mục đích, và diễn ra một cách liên tục. Đời
sống con người vẫn tiếp tục luôn luôn sau khi chết.
Đời người được cai quản bởi những định luật Luân Hồi và Nhân
Quả:
"Thực hiện lòng bác ái tức là thuận theo Cơ Trời."
"Ý chí con người tạo nên định mệnh"
"Tư tưởng có một quyền năng sáng tạo."
"Sự giải đáp cho mọi vấn đề khó khăn là ở tự nơi linh hồn
mỗi người... "
Căn cứ trên những điều ấy, là những điều răn dạy sau đây:
"Ta hãy bắt đầu tìm hiểu những mối tương quan giữa mình
và những Sức Mạnh Sáng Tạo của Vũ Trụ, hay Thượng Đế."
"Ta hãy đặt mục đích và lý tưởng trong đời mình, và hãy
cố gắng thực hiện những lý tưởng đó."
"Hãy hoạt động, kiên nhẫn, và vui vẻ luôn luôn."
"Đừng nghĩ đến kết quả của việc làm, hãy dâng mọi kết quả
lên Thượng Đế."
"Đừng trốn tránh những khó khăn xảy đến cho tạ"
"Hãy làm mọi việc lành để giúp đỡ kẻ khác."
Nhiều người phương Tây không chấp nhận quan niệm của những
tôn giáo Phương Đông về Vũ trụ và nhân sinh, nhưng quan niệm này đã được những
cuộc soi kiếp của ông Cayce xác nhận. Tuy nhiên, mặc dầu họ không thể chấp nhận
quan niệm đó vì thiếu bằng chứng khoa học xác đáng, chặt chẽ hơn là những bằng
chứng trong hồ sơ Cayce, họ cũng không thể phủ nhận một cách dễ dàng tánh cách
đúng đắn, hợp lý và làm thỏa mãn lý trí của thuyết Luân Hồi, cùng lập luận vững
chắc và thỏa đáng của thuyết ấy trên các phương diện tâm lý, luân lý và khoa học.
Đối với người nào có thể chấp nhận thuyết Luân Hồi, thì nó đem lại cho họ một lẽ
sống mới, một kim cỉ nam để soi hướng vàdìu dắt họ trên đường đời, và một sự quả
quyết chắc chắn rằng họ sẽ không bị lạc bước trong chốn mê đồ gồm những sức mạnh
tối tăm, cuồng loạn, và không mục đích.
Kết luận
Trong những trang vừa qua, chúng ta đã đi hết một quãng đường
dài, bắt đầu từ một câu chuyện nhỏ xảy ra trong một phòng khách sạn ở Dayton,
Ohio, Hoa Kỳ, khi ông Edgar Cayce dùng Thần Nhãn trong lúc thôi miên, lần đầu
tiên cho biết Luân Hồi là một điều có thật trong cõi Thiên Nhiên. Câu chuyện ấy
và những chuyện tương tự khác nối tiếp theo sau về vấn đề Luân Hồi có vẻ dường
như một nền tảng chưa đủ vững chắc để xây dựng trên đó cả một tòa lâu đài tâm
lý và triết lý mà chúng ta đã thấy những nét đại cương trong quyển sách này.
Tuy nhiên, xét về lịch sử khoa học, người ta thấy rằng những sự phát minh lớn
lao làm đảo lộn cả một thế hệ, dường như chỉ bắt đầu bằng những câu chuyện nhỏ
nhặt vô lý. Một cái đùi ếch bị điện giựt và một mẩu bánh mì mốc meo dường như
là những sự vật quá nhỏ mọn không đủ dùng để phát minh ra bình điện khí và thuốc
trụ sinh (Penicilline) nhưng sự thật đó chính là những nguyên nhân đưa đến hai
sự phát minh kỳ diệu trên. Một ngọn đèn lồng đưa lủng lẳng trong một nhà thờ cổ
ở một làng nhỏ bên Ý đã đưa ông Galilée đến việc phát minh ra một đồng hồ thiên
văn. Một bồn nước tràn đã giúp cho ông Archimede tìm ra một định luật quan trọng
về áp lực của chất nước.
Lịch sử đã đưa đến cho ta nhiều thí dụ tương tự. Chúng ta phải
nhìn nhận sự thật có thể tìm ra được từ những chỗ rất giản dị tầm thường, và
chúng ta cũng sẽ không ngạc nhiên mà thấy người học thức ít ỏi, không tài ba,
thiếu văn hóa, nằm trong giấc ngủ thôi miên, lại có thể đưa ra những bằng chứng
quan trọng để chứng minh cho một thuyết căn bản lạ lùng về đời sống con người.
Chúng ta hãy tóm tắt những gì đã chứng minh cho sự thật của
những cuộc soi kiếp của ông Cayce, ngoài ra vô số những bằng chứng hiển nhiên
khác về sự thật của hiện tượng Thần Nhãn. Có tất cả bảy điểm chính sau đây:
1.- Sự phân tách tâm lý và diễn tả hoàn cảnh bên ngoài của những
người hoàn toàn xa lạ Ở cách xa hàng trăm cây số; và trong hằng ngàn trường hợp,
đã tỏ ra đúng ý như thật.
2.- Sự tiên đoán về những thiên tư, khả năng và những điểm
khác của đương sự, đã được chứng thực trong nhiều năm sau, không những cho người
lớn, mà cũng cho trẻ sơ sinh.
3.- Những đặc điểm về tánh tình của đương sự được truy nguyên
một cách hợp lý từ những kinh nghiệm thâu nhập ở các kiếp trước.
4.- Những lời tiên đoán đều đúng và không hề trái ngược nhau,
không những trên nguyên tắc đại cương mà thôi, mà cũng trong từng chi tiết nhỏ
nhặt, trong hằng trăm các cuộc soi kiếp khác nhau, và ở những thời ký khác
nhau.
5.- Những tài liệu lịch sử lu mờ đã được kiểm điểm lại bằng
cách tra cứu các văn khố; những tên tuổi của các nhân vật vô danh đã được tìm
thấy tại những địa điểm mà các cuộc soi kiếp đã nêu ra.
6.- Những cuộc soi kiếp cùng những lời khuyên mà đương sự đã
chấp nhận và nghe theo, đã giúp cho nhiều người thay đổi cuộc đời của họ về các
phương diện tâm lý, nghề nghiệp, và sức khỏe thể chất.
7.- Những lời khuyên nhủ và răn dạy có tính cách triết lý và
tâm lý trong các cuộc soi kiếp đều hạp với lẽ Đạo, đúng như nền Đạo lý cổ truyền
đã từng đem giảng dạy ở Ấn Độ từ nhiều thế kỷ.
Nói tóm lại, đó là bảy điều quan trọng chứng minh cho những
cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce, và xác nhận sự thật về thuyết Luân
Hồi. Người ta có thể cho rằng đó chưa phải là những bằng chứng cụ thể và mười
phần xác đáng, nhưng nó vẫn có giá trị không kém. Dầu cho lập luận khoa học chứng
minh rằng Trái Đất tròn, thì đó cũng chỉ là một sự phỏng đoán mà thôi, chứ chưa
có ai đã thật sự thấy tận mắt hình tròn của Trái Đất. Sự thật về hột nguyên tử
cũng chỉ là một sự phỏng đoán, chứ chưa có người nào đã thấy tận mắt một hột
nguyên tử. Tuy vậy, căn cứ trên những sự ức đoán đó, người ta đã đi du lịch
vòng quanh Trái Đất, và đã chế tạo quả bom nguyên tử, mà ảnh hưởng tàn phá mãnh
liệt của nó, không ai có thể chối cãi là không có! Như vậy, thật không phải là
một điều không tưởng quá đáng mà nói rằng người ta nên bắt đầu có những cuộc
sưu tầm và thí nghiệm khoa học về thuyết Luân Hồi, căn cứ trên những cuộc soi
kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce.
Những người chủ trương thuyết Luân Hồi chỉ có thể hy vọng rằng
những ai muốn tìm sự giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn của đời người, hãy
chấp nhận thuyết Luân Hồi như một nguyên tắc cốt yếu cho sự tìm tòi của họ. Họ
hãy sống với thuyết ấy, hãy cư xử, hành động thuận chiều với nó trong một thời
gian, họ hãy tự xét mình, xét người chung quanh, và nhìn xem cuộc đời thế gian
theo những nguyên tắc giản dị nhưng rất có ý nghĩa của thuyết Luân Hồi, rồi họ
sẽ nhận thấy rằng đâu là Chân Lý.
Nếu quả thật thuyết Luân Hồi là một định luật của nhân sinh,
do đó con người tiến hóa và trở nên Toàn Thiện; nếu quả thật đó là Chân Lý giản
dị của cuộc đời, và là cái bí quyết then chốt của sự sống và của vấn đề đau khổ,
thì đây là một sự kiện mới, có thể làm đảo lộn trào lưu tư tưởng của thế hệ, và
làm thay đổi được cuộc đời của một số rất đông người.
Sự hiểu biết về định luật Luân Hồi sẽ đem đến cho chúng ta một
nguồn khích lệ và can đảm. Nó cũng đem đến cho ta một viễn ảnh mới mẻ, tốt đẹp
và huy hoàng về Vũ Trụ Nhân Sinh; một sự hiểu biết sâu xa, tế nhị và thâm trầm
về cuộc đời, để giúp chúng ra có thể chịu đựng một cách vui vẻ, bình tĩnh và hồn
nhiên, tất cả mọi sự thử thách đắng cay và đau khổ của định mệnh.