Đó là: 1. Khiêm hạ (Khiêm tố
n). 2. Tàm quý (Biế
t tự
trọ
ng). 3. Trung thực.
4. Kiên định. 5. Không phóng dật (Nghiêm tú
c). 6. Nhẫn nhục.
7. Biết ơn. 8. Buông xả. 9. Dấn thân (Dũng cảm). 10. Tiết tháo
(Giữ gì
n Phẩ
m giá
).
***
Đạo đức Phật giáo y cứ vào giới luật. Nếu
xem giới luật là những nguyên tắc đạo đức mang tính bền vững, ổn định, không
thay đổi, thì yêu cầu từ thực tiễn đời sống đòi hỏi cần có sự bổ sung những
chuẩn mực đạo đức mang tính hỗ tương. Những chuẩn mực đạo đức bổ sung đó, theo
sự phân định của một số bộ luật Phật giáo được xem là những phép ứng xử (học
pháp) giữa người với người.
Từ thực tiễn đời sống, để đạo đức Phật giáo dễ dàng
lan tỏa, thì việc làm sáng tỏ những chuẩn mực đạo đức Phật giáo là yêu cầu bức
thiết. Trong vô vàn những chuẩn mực đạo đức Phật giáo được thể hiện rải rác
trong các bộ kinh, luật, luận, sớ giải… có
thể
tóm
lại
bằng mười chuẩn mực đạo đức cơ bản. Đó là:
khiêm hạ, tàm quý, trung thực, kiên định, không phóng dật, nhẫn nhục, biết ơn,
buông xả, dấn thân và tiết tháo.
1. Khiêm hạ (Khiêm tốn).
- Trước hết, khiêm hạ là một hành xử đạo
đức vắng bóng tự ngã, dẹp tan kiêu mạn.
Kiêu mạn là một tập khí sâu dày của chúng
sanh nói chung. Theo kinh Tập, khi cái tôi nhỏ lại thì mọi sự va chạm do kiêu
mạn ít xảy ra. Và theo Đức Phật, chỉ những ai chinh phục được tự ngã thì mới có
thể nhiếp phục lòng kiêu mạn.
- Thứ hai, khiêm hạ là thể hiện sự tôn
trọng kẻ dưới và kính nhường người trên.
Biết tôn trọng lẫn nhau trong giao tiếp,
ứng xử là sự thể hiện đẳng cấp đạo đức. Trong những hội chúng Sa-môn, Bà-la-môn
thời Phật, chỉ có hội chúng đệ tử của Đức Phật là có sự nhường nhịn, tôn trọng
lẫn nhau thể hiện ở các hành vi: Kính lễ bậc trưởng thượng/ Không ganh tị một
ai. Truyền thống đạo đức này sở dĩ có được là do tính khiêm hạ tạo
ra.
- Thứ ba, khiêm hạ không có nghĩa là hạ
thấp mình mà còn có nghĩa tự khẳng định bản thân, là tôn trọng chính mình trong
yên lặng tỉnh giác.
Trong nghĩa này, khiêm hạ gần với lòng tự
trọng. Đó cũng là điều được Đức Phật huấn thị: Hãy học các dòng nước/ Từ khe núi
vực sâu/ Nước khe núi chảy ồn/ Biển lớn động im lặng/ Cái gì trống kêu to/ Cái
gì đầy yên lặng/ Ngu như ghè vơi nước/ Bậc trí như ao đầy.
Có thể thấy, một trong những chuẩn mực ứng
xử của người học Phật là thái độ khiêm hạ, định tĩnh, nhu nhuyến, thong dong và
vững chãi trước dòng xoáy của bản ngã và sở hữu của bản ngã.
2. Tàm quý (Biết
tự
trọng).
Theo Đại thừa bách pháp minh môn luận giải
thì tàm là tự hổ với mình và quý là thẹn với người. Trong nghĩa được sử dụng
rộng rãi, thì tàm quý là sự hổ thẹn với chính mình cũng như với người khác. Hổ
thẹn là năng lượng đạo đức có tác dụng trong nhiều phương
diện.
Trong lãnh vực tu tập, nhờ lòng hổ thẹn
thôi thúc, khi nghĩ về công lao giáo hóa của chư Phật, Bồ-tát, của các bậc Thánh
tăng, nên nỗ lực tu tập. Trong mười lý do phát tâm Bồ-đề, tất cả đều có liên
quan đến lòng hổ thẹn đối với ân đức lớn lao mà ta đã thọ nhận. Chính nhờ lòng
hổ thẹn này thúc đẩy mà chúng ta nỗ lực tiến tu. Không biết hổ thẹn, khó lòng
thăng tiến trong tu tập.
Hổ thẹn không những là động năng thăng tiến
trong thiện pháp mà cũng có thể áp dụng trong thực tiễn sinh động của con người.
Trong liên hệ đời thường, đạo đức của gia đình, xã hội được hình thành cũng nhờ
lòng biết hổ thẹn.
Kinh điển Nikaya cũng coi hổ thẹn quyết
định phẩm vị, đạo đức của con người, vì nếu không thì thế giới sẽ đi đến hỗn
loạn như giữa các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can. Nói
theo kinh Trung bộ, nếu một người không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy
không có việc ác gì mà không làm.
Như vậy, hổ thẹn là một chuẩn mực đạo đức
quan trọng, không những khẳng định nhân cách của con người mà còn góp phần tạo
nên động lực thăng tiến ở nhiều phương diện, ở đời thường cũng như ở tâm linh.
Hình ảnh một thanh niên thích trang sức, nhưng bị quấn quanh cổ một xác rắn hay
xác chó... sẽ làm cho anh ta ngại ngùng, bứt rứt, xấu hổ, là minh họa sinh động
về việc vận dụng thường xuyên năng lực hổ thẹn, nhằm chuyển hóa năng lượng dục
vọng thấp hèn.
Là con người, phải biết hổ thẹn. Không biết
hổ thẹn thì chưa phải là con người đúng nghĩa. Chính bởi điều này, chuẩn mực đạo
đức hổ thẹn được Đức Phật khẳng định là hai pháp có khả năng che chở cho thế
giới.
3. Trung thực.
Trung thực là một chuẩn mực đạo đức được
nhiều người mến mộ, tin yêu. Người trung thực luôn hứa hẹn một tương lai rộng
mở. Trung thực biểu hiện qua nhiều dạng thức và quan hệ; mà ở đây, trung thực
với chính mình và với tha nhân là hai tính chất chủ yếu.
Trước hết, cần phải trung thực với chính
mình. Thiết tưởng điều này không cần phải bàn cãi. Mặc dù vậy, khi khảo sát sâu,
mới thấy rõ đôi khi ta chưa trung thực với chính mình. Trung thực với chính mình
là ý thức rõ ràng về tất cả các phương diện của bản thân như: khả năng, điều
kiện, mặt mạnh cũng như mặt yếu, sở thích cũng như điều không ưa… Ẩn dụ một
người đứng trên hồ nước, thì có thể nhận ra các con ốc, con sò, đàn cá bơi lội…
với điều kiện hồ nước đó trong và lặng. Việc thắp sáng ý thức về những điều kiện
của bản thân cũng như thế. Từ sự nhận thức rõ ràng này và thái độ chấp nhận đúng
hiện trạng của bản thân, là sự khởi đầu cho thái độ sống trung thực với chính
mình. Trung thực với chính mình có ảnh hưởng nhất định đến sự thành công của bản
thân.
Thứ hai, trung thực với tha nhân. Đây là tiền đề để
xây dựng niềm tin trong mọi mối quan hệ. Khi trung thực thì được người tin
tưởng, và lòng tin là yếu tố quyết định sự bền vững cho mọi mối quan hệ giữa
người với người. Đó cũng là điều được Đức Phật xác quyết: Ở đời này, lòng tin/
Tối thắng cho con người. Mở rộng ý nghĩa này có thể thấy, trong quan hệ thầy
trò, vợ chồng, cha con, bạn bè… thì sự tin tưởng lẫn nhau quyết định đến hạnh
phúc, bình yên cũng như tính bền vững của các mối quan hệ. Sống mà không tin
nhau là hoạt cảnh của địa ngục. Và muốn tin nhau thì phải trung thực, không dối
nhau. Ở nghĩa này, không trung thực hay lừa dối nhau là cửa ngõ của tội ác.
Chính vì vậy, trong kinh Phật thuyết như vậy, Đức Phật đã khẳng định rất mạnh
mẽ: Phàm một người nào đã vi phạm một pháp, ta nói rằng không có ác nghiệp nào
vị ấy không làm được. Pháp
đó
là
gì? Này các Tỳ-kheo, tức là rõ biết mà nói
láo.
Trung thực hay không dối nhau là một chuẩn
mực đạo đức cơ bản, là chất kết dính của mọi mối quan hệ, là yếu tố thành công
trong mọi hoạt động của con người.
4. Kiên định.
Kiên định là ý chí, là sự vững vàng trong
quyết định, trong dự tính, trong mối quan hệ, trong lý tưởng hay con đường đã
chọn. Tùy theo bối cảnh cụ thể mà kiên định được hiểu khác nhau. Chuẩn mực đạo
đức kiên định quyết định tính cách, năng lực, giá trị của con
người.
Kiên định là sự nhất quán trong pháp tu.
Với Đức Phật, đại thệ nguyện bên cội Bồ-đề trước đêm chứng đạo là sự thể hiện
cho sự kiên định vững vàng: Cho dù da thịt, gân xương trở nên khô cằn, máu trong
thân này dẫu có cạn kiệt, nhưng nếu không đạt đạo, Ta quyết không rời chỗ này.
Có thể sự nỗ lực đó là đỉnh điểm của một tiến trình, nhưng qua đó đã cho thấy sự
kiên định rất cần trên mọi chặng đường tu tập. Từ thệ nguyện của Đức Phật, liên
hệ với con đường mà chúng ta đã và đang chọn hiện nay, có thể nhận ra những bất
cập do vì không kiên định. Bởi lẽ, trong những pháp môn mà Đức Phật đã chỉ dạy,
mỗi pháp hành có những yêu cầu khác biệt nhau, sự dao động trong pháp môn tu đôi
khi phải trả giá bằng thời gian của cả đời người. Hơn thế, sự khác biệt giữa
chúng sanh và Bồ-tát liên quan thâm thiết đến chuẩn mực kiên định này. Vì lẽ,
trước hiện thực đau khổ, cả hai đều phát nguyện như nhau, tuy nhiên, yếu tố căn
bản tạo nên sự khác biệt, chính là sự kiên định của mỗi bên.
Trong cuộc sống đời thường, kiên định rất
cần trong mọi mối quan hệ. Trong bối cảnh này, chuẩn mực kiên định có thể được
hiểu là tấm lòng trung thành, chung thủy, sắt son với tổ chức, với bạn bè, với
người phối ngẫu. Đó cũng là điều được Đức Phật xác quyết trong kinh Tăng chi:
Chính trong thời gian bất hạnh mới biết được sự trung kiên của một người, phải
trong một thời gian dài không thể không khác được. Đây là một khái quát thấm đẫm
trí tuệ của bậc Giác ngộ. Vì lẽ, phẩm chất đạo đức của con người được bộc lộ
trong những hoàn cảnh khác nhau.
Dù trên bước đường tu hay trong thực tiễn
đời sống, chuẩn mực đạo đức kiên định luôn được ca ngợi và vinh danh. Kiên định
là dấu son trong phẩm hạnh cần có của một con người.
5. Không phóng dật (Nghiêm túc).
Trong những lời dặn dò thống thiết của Đức Phật
trước khi tới
Niết-bàn, thì không phóng dật là huấn thị thấm đẫm yêu thương. Không
phóng dật là không buông lung, không chạy theo dục vọng, siêng năng tu tập các
pháp lành. Đây là chuẩn mực đạo đức quan trọng, được đề cập trong nhiều bản
kinh.
Theo kinh Tăng chi, không phóng dật là một
pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, bao trùm và an trú hai lợi ích: lợi ích
hiện tại và lợi ích trong tương lai.
Trên phương diện tu tập, không phóng dật là
yếu tố quyết định sự thành công của mọi pháp hành. Không phóng dật đồng nghĩa
với tinh tấn, là siêng năng. Cần phải thấy, nhận thức được việc lành là điều
quan trọng tuy nhiên đưa nhận thức vào thực tiễn đời sống là do bởi siêng năng.
Siêng năng tạo nên sự thăng hoa, thành công trong mọi lãnh vực và là quán hạnh
dung thông giữa pháp thế gian và pháp xuất thế.
Nếu coi quá trình tu tập và mọi sự thành
công trong cuộc đời là những cỗ xe, thì không phóng dật là động lực cơ bản,
không những giữ gìn cỗ xe đó không nghiêng, đổ, mà còn đưa cỗ xe tiến về phía
trước.
6. Nhẫn nhục.
Nhẫn nhục là sự chịu đựng, chấp nhận những
khổ đau, bức bách, hủy nhục, khó chịu… do các điều kiện bên ngoài đem đến, nhưng
tâm tư vẫn an tịnh. Đây là một phẩm chất đạo đức được thể hiện trong nhiều cấp
độ. Phật giáo Đại thừa xem nhẫn nhục là một trong sáu hạnh quan trọng của con
đường Bồ-tát.
Trước hết, trước những thách thức của điều
kiện tự nhiên cũng như những tác động của con người, muốn tồn tại, cần phải biết
an hòa và nhẫn nhịn. Tức là tạm an với điều kiện sống tự nhiên và nhẫn nhịn
trong sự va đập, tương tác với môi trường xã hội. Nhẫn để mà sống chính là nghĩa
này. Kinh Tăng chi còn gọi đó là kham nhẫn: có hạng người không nhiếc mắng lại
kẻ đã nhiếc mắng, không sân hận lại kẻ đã sân hận, không gây lộn lại với kẻ đã
gây lộn. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là đạo hành kham nhẫn.
Thứ hai, trong cuộc sống đời thường, đôi
khi nhằm chuyển hóa người, thì nhẫn nhục cần thể hiện trong giới hạn nhất định.
Câu chuyện quỷ dạ xoa Alavaka được ghi lại trong kinh Tập là một ví dụ điển
hình. Chuyện kể rằng, một độ nọ, Đức Phật đang ở tại trú xứ của dạ xoa Alavaka.
Dạ xoa Alavaka yêu cầu Đức Phật đi ra, Đức Phật hoan hỷ đi ra; dạ xoa lại yêu
cầu Đức Phật đi vào, Ngài vẫn chấp nhận thực hiện. Đến lần thứ tư, Đức Phật
không thực hiện theo yêu cầu của dạ xoa, kiên quyết bảo: Này Hiền giả, Ta sẽ
không đi ra. Ông cần gì thì hãy làm đi? Ba lần đi ra, đi vào theo yêu cầu tinh
quái của quỷ dạ xoa, đủ thấy Đức Phật đã ứng xử nhẫn nhịn nhuần nhuyễn đến mức
nào.
Thứ ba, nhẫn nhục là sức mạnh. Sức mạnh đây
chính là sức mạnh làm chủ bản thân mình. Vì một khi thực hiện được hạnh nhẫn
nhục, chứng tỏ một năng lực tu tập hùng mạnh. Nhờ năng lực đó, mới có thể kiểm
soát tâm mình. Vì chiến thắng bản thân mình là chiến công oanh liệt nhất. Con
đường thực tập để có sức mạnh này bắt đầu bằng sự mở rộng tâm, trải tâm như đất
như Đức Phật đã dạy Rahula trong kinh Trung bộ.
Nhẫn nhục là nhịn được những điều khó nhịn
mà tâm vẫn an ổn, tuy là chuẩn mực đạo đức, nhưng mang ý nghĩa như một kỹ năng
sống hướng thượng, thanh cao.
7. Biết ơn.
Biết ơn được hiểu ở đây bao hàm cả việc báo
ơn. Theo kinh Tăng chi, người biết ơn là một trong hai hạng người khó tìm được ở
đời. Trong liên hệ duyên khởi, để hình thành con người, thì phải thọ nhận nhiều
công ơn. Trong vô vàn những công ơn, theo kinh Đại thừa bổn sinh tâm địa quán,
phẩm Báo ân, thì có bốn ơn cơ bản: ơn cha mẹ, ơn những người liên hệ quanh ta,
ơn quốc gia và ơn Tam bảo.
Sự hiện sinh của một con người là do cha
mẹ. Từ việc kế thừa nền tảng vật chất, cho đến nuôi dưỡng, kiện toàn tri thức,
dựng vợ gả chồng, trao của thừa tự và hướng con về đường lành. Thực sự, khó có
thể kể hết cũng như báo đáp công lao của cha mẹ.
Kế đến, với một người bình thường, sở dĩ
vững vàng về kiến thức, vững chãi trong địa vị, thuận lợi trong nhịp mưu sinh,
an tâm và an toàn trong đời sống… là do sự hỗ trợ của nhiều người: từ thầy tổ,
thân hữu, láng giềng, dòng họ... Nhận thức rõ về các công ơn đã thọ nhận, là
thái độ sống đúng mực của một người trưởng thành.
Thứ ba, được sống và sống ổn định, an toàn
là phước báo của con người. Vì một khi môi trường sống được đảm bảo, thì hạnh
phúc mới vững bền và có thể an tâm hoàn thành sở nguyện. Sự đảm bảo về môi
trường sống là do sự quan tâm, nỗ lực và hy sinh của giới chức lãnh đạo quốc
gia. Nhận thức đúng về điều này để hành xử cho hợp lẽ, là tâm thế đúng
mực.
Cuối cùng, sở dĩ hiểu được bản thân, nhận
ra con đường hạnh phúc, có được phương tiện phù hợp với điều kiện nghiệp lực của
mình, là do diệu hạnh của Tam bảo. Nếu như cha mẹ, bạn bè, thầy tổ, quốc gia có
thể giúp ta vơi khổ và hạnh phúc trong một đời, thì Tam bảo có thể giúp ta vĩnh
viễn thoát khổ và an lành trong nhiều kiếp. Và do vậy, người đệ tử Phật phải nhớ
ơn và nỗ lực báo đáp thâm ân Tam bảo.
Biết ơn là chất liệu dệt nên phẩm hạnh của
một con người. Nhận thức đúng và đầy đủ về các ơn cũng như nỗ lực báo đáp bằng
những gì có thể, là chuẩn mực đạo đức tối cần của một người học
Phật.
8. Buông xả.
Buông xả là nghệ thuật ứng xử trong các mối
quan hệ, là sự buông bỏ những ý nghĩ mừng vui, lo khổ đồng thời nỗ lực từ bỏ các
tật xấu tích lũy từ nhiều đời.
Trước hết, lo nghĩ thường gắn với phiền
muộn, nhất là lo nghĩ vẩn vơ, không liên hệ đến thiện pháp. Buông bỏ mọi điều lo
nghĩ, sống với thực tại hiện tiền thì hạnh phúc gõ cửa. Điều này được Đức Phật
chỉ dạy trong kinh: Quá khứ không truy tìm/ Tương lai không ước vọng/ Quá khứ đã
đoạn tận/ Tương lai lại chưa đến/ Chỉ có pháp hiện tại/ Tuệ quán chính ở
đây.
Trong thực tế đời sống, đôi khi cũng khó
tránh khỏi việc lo nghĩ về những điều do cuộc sống đặt ra. Tuy nhiên, học cách
buông bỏ những điều nhỏ nhặt, thì đôi khi gặt hái những kết quả lớn lao. Biết
buông bỏ, biết hy sinh là tiền đề dẫn đến mọi sự thành tựu.
Không những thế, biết cách buông bỏ những
ký ức liên hệ đến khổ đau là một liệu pháp điều phục tâm tích cực. Vì có những
chuyện u hoài xảy ra trong quá khứ xa xưa, nhưng tâm tư cứ giữ chặt, và nỗi đau
đôi khi tái hiện về, làm cho người quằn quại, tái tê. Buông xả những chuyện
không hay là một trong những cách thức giữ gìn nhựa sống cho chính
mình.
Hạnh buông xả còn là một dạng thức biểu
hiện cho tâm thương yêu. Vì lẽ, nhờ buông xả nên dễ dàng tha thứ lỗi lầm của
người, tạo cho kẻ có lỗi một cơ may để phục thiện. Buông xả còn giúp người ta
trở nên rộng rãi, không ích kỷ, nhỏ nhen: Các sở hành của mình/ Không nhỏ nhen
vụn vặt. Nhờ hạnh buông xả, nên tâm bố thí được khởi sinh. Nói theo kinh điển,
nhờ buông xả, tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng
mở. Ngoài ra, buông xả còn là an trú tâm với những gì hiện có. Biết cách buông
bỏ những đòi hỏi không hợp lý, là một trong những cách thức để đem đến sự an ổn
đời thường.
Muốn có được một cuộc sống đúng nghĩa và
trọn vẹn thì phải học cách buông bỏ, xả ly. Buông xả không những giúp thanh lọc
tâm, mà còn là phương thức vươn lên bằng cách từ bỏ những hiểu biết bất toàn,
khiếm khuyết.
9. Dấn thân (Dũng cảm).
Dấn thân là sự phát tâm vì lợi ích của tha
nhân, trong một số trường hợp phải chấp nhận sự hy sinh, mất mát. Dấn thân là
hành động mang tâm nguyện Bồ-tát, vì đó là sự phát tâm đem lại lợi ích cho nhiều
người.
Dấn thân là phát tâm Bồ-đề, được dẫn khởi
từ sự lập nguyện, phát tâm.
Dấn thân là hành động mang tâm nguyện
Bồ-tát. Vì cuộc đời vốn dĩ đầy bất hạnh và lắm khổ đau, người mang tâm nguyện
Bồ-tát luôn nỗ lực bằng những gì có thể, nhằm làm vơi khổ cho đời. Dấn thân
không đồng nghĩa với sự liều mạng, quên thân. Dấn thân theo chuẩn mực Phật dạy
phải dựa trên cơ sở của sức mạnh, tình thương và trí tuệ. Chỉ có như vậy thì sự
dấn thân mới tròn đầy ý nghĩa, và giảm đi những tổn thất không đáng có trong khi
thực thi hạnh nguyện giúp đời.
Đạo Phật mang nghĩa vị tha, và dấn thân là
một biểu hiện tạm quên đi bản ngã. Dấn thân là sự tận hiến cho đời mà không nghĩ
về tư lợi. Hình ảnh một cây hương tự đốt cháy mình có thể hiểu ở nhiều nghĩa,
nhưng việc dâng tặng cho đời sự thơm thảo, là sự thực được ghi nhận từ cây
hương. Qua những nét sơ phác về cuộc đời Đức Phật, từ nhiều kiếp sống cho đến
bốn mươi lăm năm thuyết giảng sau khi Thành đạo, là một thiên trường ca bất tận
về hạnh nguyện dấn thân: vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và
loài người.
Một khi sở dục đang lên ngôi, cái ác đang
chờ chực, ngấp nghé, thì cuộc đời cần lắm sự lập nguyện, dấn thân. Dấn thân biểu
lộ của dũng khí, lưu xuất từ cơ sở tâm thương yêu và thể hiện bằng con mắt tuệ.
Chỉ có như vậy hạnh dấn thân mới đem đến hạnh phúc, an lạc cho nhiều
người.
10. Tiết tháo (Giữ gìn
Phẩm
giá).
Tiết tháo là khí tiết, là danh dự và phẩm
vị của con người. Sống đúng với chuẩn mực đạo đức cơ bản của một con người, theo
những nguyên tắc đạo đức làm nền tảng nào đó, được gọi là tiết
tháo.
Phẩm chất của một con người gồm một cái tên
để phân biệt, cộng với những phẩm hạnh đạo đức tương ưng. Giữ gìn phẩm hạnh đạo
đức riêng có đồng nghĩa với việc giữ gìn tiết tháo. Một khi phải sống trong sự
tương giao, đối đãi, khi chuyện nhục vinh, danh lợi vẫn có khả năng chi phối con
người, thì việc giữ gìn tiết tháo là vấn đề mang nhiều ý nghĩa nhân bản, nhân
văn. Trong hệ quy chiếu tương đối của đạo đức thế gian, thì tiết tháo vẫn đóng
một vai trò quan trọng. Không nên lẫn lộn giữa các hệ quy chiếu khác nhau để xét
đoán vấn đề.
Trong kinh Tiểu bộ, câu chuyện con sư tử bị
làm nhục chứa đựng nhiều giá trị tham khảo. Chuyện kể rằng, có một con sư tử cái
sống gần hang của chó rừng. Một ngày nọ, hội đủ nhân duyên, chó rừng ngỏ lời cầu
hôn sư tử. Buồn bực và uất ức vì lời cầu hôn vô lễ, sư tử cái định lấy cái chết
để rửa nỗi nhục kia. May mắn được gặp được sư tử em, là tiền thân Đức Phật, đã
tận tình giải bày, nên sư tử chị đã vượt qua tình trạng khó xử đó. Có thể, câu
chuyện chỉ là liên hệ gợi mở, nhưng qua đó cho thấy sự quý trọng tiết tháo đôi
khi còn quan trọng hơn cả sinh mạng của chính mình.
Mỗi con người, mỗi chúng sanh sở hữu những
phẩm vị tương ứng. Vì danh phải tương xứng người. Từ kẻ thứ dân cho đến nam nữ,
Sa-môn, Bà-la-môn đều có những phẩm vị đạo đức cơ bản. Sống đúng theo những
chuẩn mực này được gọi là sống có tiết tháo. Kinh Tương ưng đã đưa ra một khái
quát đầy giá trị về tiết tháo: Giữa các loài hai chân/ Chánh giác là tối thắng/
Giữa các loài bốn chân/ Thuần chủng là tối thắng/ Trong các hàng thê thiếp/ Nhu
thuận là tối thắng/ Trong các hàng con trai/ Trung thành là tối thắng. Có thể
cần bổ chính thêm vài điều trong những phẩm vị vừa dẫn, nhưng ít ra qua đó đã
cho thấy rằng, tiết tháo là điều rất mực quan trọng trong việc định hình nên
phẩm chất của con người.
***
Tạm kết:
Đạo đức là chất liệu tạo nên những hệ giá trị riêng
của con người và xã hội loài người. Mười chuẩn mực đạo đức vừa nêu tuy chưa phải
là tất cả, nhưng nếu như được các
Phật
tử
cùng
thực thi, thì nhất định quả ngọt sẽ đong đầy.