Khi ông đội mũ -
lúc đi ngoài phố hay khi đứng trong tàu điện ngầm - khi mái tóc hung đỏ ngắn lởm
chởm, lốm đốm bạc của ông không lộ ra ngoài, qua vẻ tươi tắn của khuôn mặt gầy
cạo nhẵn, qua dáng đi ngay ngắn và vóc người dong dỏng trong chiếc áo palto dài
bằng vải không ngấm nước, người ta cứ ngỡ ông chưa quá bốn mươi. Thế nhưng đôi
mắt ông lại chứa đựng một nỗi buồn khô khan, và ông thường chuyện trò, cư xử như
một người đã nếm trải trong đời mình nhiều điều cay đắng. Có thời, ông đã thuê
một trang trại ở Prôvanxơ và nghe nhàm tai vô số chuyện tiếu lâm của vùng này,
nên đôi khi, trong những câu chuyện thường là ngắn gọn của mình, ông thích chêm
vào đôi mẩu chuyện đùa Prôvanxơ với giọng mai mỉa. Nhiều người biết chuyện ông
bị vợ bỏ từ khi còn ở Kônxtantinôpôn, và từ hồi ấy đến nay, ông vẫn sống với vết
thương lòng đeo đẳng. Chưa bao giờ ông thổ lộ bí mật về vết thương lòng này với
ai, nhưng đôi khi lại vô tình nhắc tới nó, - khi câu chuyện có liên quan với phụ
nữ, ông thường nói với giọng khó chịu:
- Rien n’ést plus
diffcile que de recon naitre un bon melon et une femme de bien. (Tiếng Pháp:
Không có gì khó bằng việc chọn một quả dưa hấu ngon và đoán lòng dạ của một ả
đàn bà)
***
Một lần, cuối mùa
thu, vào một chiều Pari ẩm ướt, ông ghé vào một quán ăn Nga trong đoạn ngõ tăm
tối gần phố Paxxi. Trong quán này có một ngăn nhỏ bán thực phẩm - ông đã vô tình
dừng chân trước khung cửa kính rộng rãi của nó, sau lớp kính có thể thấy rõ mặt
bệ cửa sổ có bày những chiếc chai hình nón đựng rượu thanh lương trà, mấy chai
khác hình khối đựng rượu Zubrovka, một chiếc đĩa đựng mấy cái bánh nướng đã se
vỏ, một đĩa khác bày mấy viên thịt băm rán đã xám màu, hộp cá trích và hộp bánh
khanva, xa hơn nữa là chiếc quầy bày các món ăn, đứng sau quầy là bà chủ với
khuôn mặt kiểu Nga rất khó có cảm tình. Bên trong quán khá sáng sủa, và chính
làn ánh sáng ấy đã rủ rê ông rời chân khỏi cái ngõ tăm tối, lạnh lẽo và trơn như
đổ mỡ. Bước vào quán, ông cúi chào bà chủ và đi tới gian phòng sáng lờ mờ, nối
với quầy bán thực phẩm, nơi có những chiếc bàn phủ khăn trắng còn vắng khách.
Tại đó, ông chậm rãi treo chiếc mũ xám và chiếc áo palto lên móc của chiếc giá
treo áo rồi ngồi vào chiếc bàn kê ở góc cuối phòng, lơ đãng xoa xoa hai bàn tay
có những sợi lông hung đỏ nơi cườm tay, rồi thong thả đọc bản thực đơn dài lê
thê ghi các món ăn, đoạn đánh máy, đoạn viết tay bằng mực tím trên nền giấy đầy
vết mỡ. Bất chợt, góc phòng ông ngồi đột ngột sáng bừng lên, rồi một thiếu phụ
chừng ba mươi tuổi, với khuôn mặt hờ hững nhưng lịch thiệp, mắt huyền, có mái
tóc đen rẽ ngôi thẳng, mặc bộ váy áo màu đen, bên ngoài đeo tạp dề trắng thêu
hoa, bước lại gần:
- Bonsoir, monsier,
- (Tiếng Pháp: Xin chào ông) Nàng nói với giọng rất dễ
thương.
Ông nhận thấy nàng
quá đẹp, đến nỗi ông bỗng trở nên lúng túng và bối rối trả
lời:
- Bonsoir… Nhưng cô
là người Nga, có đúng không?
- Vâng, người Nga.
Ông thứ lỗi cho, tự nhiên thành ra cái thói quen nói với khách hàng bằng tiếng
Pháp.
- Chẳng nhẽ ở đây
cũng có khách Pháp đến ăn ư?
- Vâng, cũng tương
đối nhiều đấy ạ. Mà người nào cũng nhất định phải gọi rượu zuprovka, bánh bột
tráng blin, thậm chí cả món xúp củ cải đỏ. Ông đã chọn được món gì chưa
ạ?
- Chưa, nhiều món
quá… Hay là nhờ cô khuyên hộ nên chọn món gì?
Nàng bắt đầu xướng
tên các món ăn bằng giọng đọc thuộc lòng:
- Hôm nay nhà hàng
có món canh chua kiểu lính thuỷ, thịt băm viên kiểu Kôzak, có thể đặt món thịt
bê băm rán, hoặc nếu ông muốn thì có thể lấy món thịt nướng kiểu
Kaxki.
- Hay lắm, cô làm
ơn cho xin món canh chua và thịt băm viên.
Nàng lấy quyển sổ
cài ở thắt lưng và viết vào đó bằng một mẩu bút chì. Tay nàng trắng trẻo và dáng
đẹp, chiếc áo nàng mặc không còn mới nữa nhưng rõ ràng là được cắt may ở một
tiệm đắt tiền.
- Ông có dùng vôtca
không ạ?
- Rất vui lòng.
Ngoài phố ẩm ướt kinh khủng.
- Ông định lấy món
nhắm nào ạ? Có cá trích vùng Đanuýp ngon lắm, dưa chuột Korkunov muối rất nhạt
và trứng cá vừa mới nhập về.
Ông đưa mắt ngắm
nàng lượt nữa: chiếc tạp dề trắng thêu hoa khiến khuôn ngực của người thiếu phụ
trẻ nổi rõ…, đôi môi đầy đặn không tô son mà vẫn tươi, đầu nàng chỉ buộc hờ
chiếc khăn màu đen, nhưng làn da tay lại được chăm sóc kĩ lưỡng, những chiếc
móng tay hồng nhạt óng ánh - rõ ràng được thợ tô
màu.
- Tôi định nhắm món
gì ư? - Ông nói và mỉm cười: - Nếu cô cho phép thì chỉ cá trích và khoai tây
nóng mà thôi.
- Ông thích dùng
loại rượu vang nào?
- Vang đỏ cô ạ.
Loại thường mà người ta hay dọn tiệc ấy mà.
Nàng ghi vào cuốn
sổ rồi chuyển chiếc bình đựng nước lã từ bàn bên cạnh sang bàn ông ngồi. Ông lắc
đầu:
- Ồ không, tôi
không bao giờ uống rượu nho pha nước lã. L’eau gate le vin comme la charette le
chemin et la femme l’ame.(Tiếng Pháp: Nước lã làm hỏng rượu nho, khác nào xe thổ
mộ làm hỏng đường đi và đàn bà huỷ hoại tâm hồn)
- Ông đánh giá phụ
nữ chúng em cũng không được tốt đẹp cho lắm nhỉ. - Nàng thản nhiên trả lời rồi
đi lấy món cá trích và vôtca.
Ông nhìn theo bóng
nàng - dáng nàng ngay ngắn và chiếc váy đen rung rinh theo mỗi bước nàng đi…
Phải, lịch thiệp mà hờ hững, đó là tất cả cử chỉ và thói quen của một người phục
vụ khiêm nhường và đứng đắn. Nhưng đôi giày kia thì lại rất đẹp và đắt tiền. Ở
đâu ra? Chắc là có một ông ami đứng tuổi, nhiều tiền… Lâu lắm rồi, ông không
thấy phấn chấn như tối hôm nay, ấy là nhờ có nàng. Ý nghĩ ấy khiến ông không thể
không cảm thấy hơi buồn. Phải, năm này qua năm khác, ngày này qua ngày khác, ta
chỉ thầm mong đợi mỗi điều ấy - một cuộc gặp gỡ may mắn và hạnh phúc - và tất cả
chỉ là vô vọng mà thôi…
***
Ngày hôm sau, ông
lại đến và lại ngồi vào chiếc bàn của mình. Thoạt đầu, nàng đang bận ghi các món
ăn mà hai khách hàng người Pháp đặt, nàng vừa nhắc lại vừa ghi vào cuốn sổ
tay:
- Caviar rouge,
salade russ… Đeux chachlyks…. (Tiếng Pháp: Trứng cá đỏ, nộm kiểu Nga… hai suất
chả nướng…)
Nàng bỏ đi rồi quay
ra và bước tới bàn ông với nụ cười thoáng hiện trên môi, như gặp một người quen
biết:
- Xin chào ông. Rất
hân hạnh là nhà hàng đã làm ông vui lòng.
Ông vui vẻ đứng
dậy:
- Chào cô. Vâng,
tôi thích nhà hàng này lắm. Cô tên là gì nhỉ?
- Olga
Alekxanđrovna, thưa ông. Còn ông thì tên là gì ạ?
- Nikolai
Ptatonik.
Họ bắt tay nhau,
rồi nàng giở sổ ra:
- Hôm nay nhà hàng
có món raxonik hay lắm. Đầu bếp ở đây rất giỏi, đã từng phục vụ Đại công tước
Alekxanđr Mikhaikovich ở trên tàu thuỷ đấy ông ạ.
- Hay lắm, raxonik
thì raxonik chứ sao. Mà cô làm đây đã lâu chưa?
- Tháng thứ ba,
thưa ông.
- Thế trước đây cô
làm ở đâu?
- Trước đây em bán
hàng ở Printemps (Ghi chú: Printemps là một hệ thống cửa hàng của Pháp, chủ yếu
về thời trang, được thành lập từ năm 1865).
- Chắc là dư người
cho nên phải thôi việc?
- Thưa vâng, chứ
không thì đời nào em lại bỏ một chỗ làm như thế.
Ông hài lòng nghĩ
rằng, hoá ra mọi việc chẳng liên quan đến một ông ami nào cả - và ông hỏi
nàng:
- Chắc là cô đã có
gia đình?
- Vâng, thưa
ông.
- Chồng cô làm
gì?
- Anh ấy đi làm ở
Nam Tư. Trước đây cũng có tham gia Bạch quân. Còn ông, chắc cũng thế, phải không
ạ?
- Vâng, tôi có tham
gia cả Đại chiến lẫn Nội chiến.
- Điều đó thì nhìn
qua cũng đoán được. Và, có lẽ ông là một vị tướng? - Nàng nói và mỉm
cười.
- Tướng về hưu cô
ạ. Bây giờ tôi viết sách về hai cuộc chiến đó, theo đơn đặt hàng của các nhà
xuất bản ngoại quốc khác nhau… Vậy là, thành ra bây giờ cô sống có một mình thôi
nhỉ?
- Thành ra có mỗi
một mình thôi, ông ạ…
Đến buổi tối thứ ba
ông nói:
- Cô có thích đi
xem xinê không?
- Thỉnh thoảng đi
xem một lần cũng hay.
- Hiện ở rạp Etoile
đang chiếu một phim gì đó hay lắm, thấy người ta bảo thế. Nếu cô muốn, chúng ta
cùng đi xem nhé? Cô có hôm nào được nghỉ không?
- Merci. Thứ hai em
được rỗi.
- Thế thì thứ hai
ta đi xem nhé. Hôm nay là thứ mấy nhỉ? Thứ bảy phải không? Nghĩa là ngày kia chứ
gì? Được chứ?
- Được ạ. Còn ngày
mai, chắc là ông không đến?
- Không, mai tôi ra
ngoại ô, đến chỗ mấy người quen. Mà sao cô lại hỏi như
vậy?
- Em cũng chẳng
biết nữa… Kể cũng lạ, nhưng mà hình như em cảm thấy đã quen thuộc với ông rồi
hay sao ấy.
Ông nhìn nàng biết
ơn và đỏ mặt:
- Tôi cũng thế. Cô
biết không, trong cuộc đời này, những cuộc gặp gỡ may mắn thường hiếm
lắm…
Và ông vội nói lảng
sang chuyện khác:
- Như vậy là ngày
kia nhé. Chúng ta gặp nhau ở đâu được? Cô ở khu
nào?
- Gần ga tàu điện
ngầm Motte - Qicquet.
- Cô thấy chưa, như
thế thì tiện đường quá, đi thẳng là đến rạp Etoile. Tôi sẽ đợi cô ở đấy, chỗ cửa
tàu điện ngầm, đúng tám giờ rưỡi nhé.
-
Merci.
Ông giả bộ nghiêng
người chào:
- C’est moi qui
vous remercie. (Tiếng Pháp: Tôi phải cảm ơn cô thì mới đúng chứ). Cô cứ dỗ con
ngủ rồi tới rạp nhé. - Ông cười và nói vậy để thử xem nàng có con
không.
- Ơn Chúa, em không
có của báu ấy. - Nàng đáp và nhẹ nhàng dọn hết cốc chén mang
đi.
Trên đường về nhà,
ông cảm thấy xúc động và hơi ngượng ngùng thế nào ấy. "Em đã quen với ông rồi…”
Phải, rất có thể đây chính là cuộc gặp gỡ hạnh phúc mà ông vẫn hằng mong đợi.
Chỉ có điều là muộn quá, muộn quá rồi. Le bon Dieu envoie toujours des cullotes
a ceux qui u out pas de dirrere…(Tiếng Pháp: Chúa nhân từ thường ban phát quần
cho những kẻ chẳng có mông…)
***
Tối thứ hai trời
mưa, bầu trời ảm đạm phía trên đầu Pari đỏ mờ mờ. Hy vọng là sẽ ăn tối với nàng
ở Monpornase, ông không ăn bữa trưa, chỉ tạt vào tiệm cà phê ở đường Chaussée de
Muette, ăn một chiếc xăng uých, uống một vại bia, hút điếu thuốc rồi gọi tắc xi.
Đến toa tàu điện ngầm Etoile, ông bảo tài xế dừng xe rồi bước ra vỉa hè dưới làn
mưa, người tài xế to béo, má đỏ ửng, tin tưởng ngồi chờ ông. Gió từ dưới tàu
điện ngầm hun hút thổi ra, đoàn người đông nghịt và đen ngòm theo bậc thang tràn
lên, ra đến cửa là bắt đầu dương ô. Cạnh chỗ ông đứng, một người bán báo rong
cất giọng vịt đực khàn khàn rao tên các báo buổi chiều. Bỗng thấy bóng nàng xuất
hiện giữa đám người đang đi ra. Ông mừng rỡ tiến đến đón
nàng:
- Olga
Alekxanđrovna…
Nàng ăn mặc rất đẹp
và hợp mốt, dáng điệu thoải mái, khác hẳn với những lúc ở nhà hàng. Nàng ngước
cặp mắt huyền nhìn ông rồi chìa tay có móc chiếc ô ở khuỷu cho ông hôn, còn tay
kia của nàng bận nâng chiếc váy dạ hội. Ông càng thấy vui hơn: "Nàng mặc áo dài
dạ hội, có nghĩa là đã tính đến chuyện sau buổi xinê sẽ còn đi chơi nữa.” - Ông
nghĩ thầm như vậy, khi vén mép găng để hôn vào cổ tay trắng muốt của
nàng.
- Tội nghiệp, ông
chờ em đã lâu chưa?
- Không, tôi cũng
vừa mới đến thôi. Ta rảo chân lên một chút, tắc xi đang
chờ.
Và với một nỗi hồi
hộp mà đã từ lâu ông không hề cảm thấy, ông cùng nàng ngồi vào chiếc xe sực mùi
da ẩm ướt. Đến chỗ rẽ, chiếc xe xóc nẩy lên, đèn đường chợt soi rõ lòng xe, ông
vô tình đưa tay đỡ lấy eo lưng nàng, cảm thấy mùi phấn thơm từ má nàng toả ra,
nhìn rõ đôi đầu gối rắn chắc nổi lên qua lần váy, ánh mắt long lanh và cặp môi
đầy đặn tô son đỏ của nàng: ngồi cạnh ông là một người đàn bà hoàn toàn khác
hẳn.
Trong bóng tối của
rạp, họ vừa nhìn lên màn ảnh trắng loang loáng có những chiếc phi cơ đang lao
xuyên qua những đám mây và gào rú điên cuồng, vừa thì thầm trò
chuyện:
- Cô ở một mình hay
sống cùng bạn gái?
- Một mình thôi ông
ạ. Thực ra thì cũng sợ lắm. Ôten thì nhỏ, sạch sẽ và ấm áp, ông cũng biết đấy,
loại ôten mimi mà người ta thường dẫn bạn vào ngủ qua đêm hoặc ở vài ba tiếng
đồng hồ. Tầng sáu, dĩ nhiên là không có thang máy, tấm thảm đỏ trải cầu thang
chỉ đến tầng bốn là hết… Đêm đến, trời mà mưa thì buồn vô cùng. Mở cửa ra - khắp
nơi không một bóng người, y như một thành phố đã chết, chỉ có Chúa là mới biết
được ở đâu đó ở dưới kia còn một ngọn đèn đường sáng trong mưa… Còn ông, chắc
cũng độc thân và cũng sống ở ôten chứ?
- Tôi có một căn hộ
nho nhỏ ở phố Passi. Tôi cũng sống một mình. Thành dân Pari lâu rồi cô ạ. Có một
thời gian tôi sống ở Prôvanxơ, thuê một trang trại ở đó, định xa lánh loài người
và sống bằng sức lao động của bản thân, nhưng rồi không kham nổi công việc cực
nhọc ấy. Tôi thuê một người kô-dắc để giúp việc, nhưng hoá ra hắn là một con sâu
rượu, lúc say thì lầm lì dữ tợn. Tôi nuôi gà nuôi thỏ thì chúng toi sạch, có lần
tôi còn suýt bị một con la xéo chết - thật là một con vật thông minh và hung dữ…
Nhưng cái chính là tôi hoàn toàn cô đơn. Vợ tôi đã bỏ tôi từ hồi còn ở
Konxtatinropol.
- Chắc là ông nói
đùa?
- Chẳng đùa tí nào.
Chuyện cũng thường tình thôi. Qui se marie par amour a bonnes naits et mauvais
jours. (Tiếng Pháp: Kẻ nào cưới vợ vì tình thì sẽ có những đêm tuyệt vời và
những ngày tồi tệ). Còn tôi thì cả thứ nọ lẫn thứ kia đều quá ít. Cô ta bỏ tôi
vào năm thứ hai sau khi cưới.
- Bây giờ chị ấy ở
đâu rồi?
- Tôi không
biết…
Nàng im lặng hồi
lâu. Trên màn ảnh có một người nào đó bắt chước vua hề Sáclơ, đi đôi giày rách
to tướng và đang xoạc cẳng chạy một cách kì dị và ngớ
ngẩn.
- Thế thì chắc ông
cô đơn lắm…- Nàng nói.
- Vâng. Nhưng biết
làm thế nào được, đành phải chịu đựng thôi. Patience - médecine des pauvres.
(Tiếng Pháp: Chịu đựng là phương thuốc của người
nghèo).
- Cái médecine ấy
thật đáng buồn.
- Vâng, đúng là
chẳng vui vẻ gì cho lắm. Trước đây tôi cũng có đôi lần đọc "Hình ảnh nước Nga” -
ông nói và bật cười, - Trong đó có mục thông báo về hôn nhân và tình yêu, đại
loại như "Thiếu nữ Litva buồn chán và mong được trao đổi thư từ với một người
Nga sống ở Pari, tính tình tế nhị, xin kèm theo ảnh…”, "Một bà đứng đắn, không
môđéc nhưng dễ thương, goá chồng, có con trai lên chín, muốn nhận thư của một
quý ngài không trẻ hơn bốn mươi tuổi, có nghề nghiệp chắc chắn như nghề lái xe
hoặc nghề khác, không nhất thiết đòi hỏi phải thuộc tầng lớp trí thức…” Tôi rất
cám cảnh cho bà này: không nhất thiết phải là trí thức
nữa…
- Thế chẳng nhẽ ông
không có bạn bè và người quen gì cả ư?
- Bạn bè thì không
có. Còn quen biết thì ăn thua gì.
- Thế ai lo giúp
việc nội trợ cho ông?
- Cũng có phải lo
gì nhiều lắm đâu hở cô? Tôi tự pha lấy cà phê, bữa sáng cũng tự làm lấy. Gần tối
thì có la femme de ménage đến. (Tiếng Pháp: bà giúp
việc).
- Tội nghiệp! -
Nàng nói và xiết chặt tay ông.
Và họ ngồi như thế
rất lâu, tay cầm tay, kề bên nhau, bóng tối gắn bó họ, trong khi đó cả hai đều
làm ra vẻ đang chăm chú nhìn lên màn ảnh, nơi có luồng ánh sáng trắng xanh từ
bức tường sau lưng dọi nghiêng qua đầu họ chiếu vào. Người bắt chước hề Sáclơ
đâm thẳng xe vào cột đèn, tóc dựng đứng lên vì hoảng sợ, làm cho chiếc mũ ống
văng ra khỏi đầu. Loa phóng thanh phát nhạc to hết cỡ, từ phía dưới - họ ngồi
trên ban công - qua làn khói thuốc lá, từng loạt cười sảng khoái rộ lên hoà với
những tràng vỗ tay. Ông cúi xuống bên nàng:
- Cô biết không,
hay là ta đi đâu đấy, đến Monparnax chẳng hạn, ở đây chán kinh khủng và ngạt thở
quá chừng…
Nàng gật đầu và xỏ
găng vào tay.
Họ lại ngồi vào
chiếc xe bên trong tranh tối tranh sáng, nhìn cảnh vật bên ngoài qua làn kính
lóng lánh những giọt mưa và như đang cháy lên bởi phản quang của ánh đèn đường
muôn màu như sắc kim cương, bởi những tấm bảng quảng cáo đang nhấp nháy ở phía
màn trời đen ngòm trên cao, lúc đỏ như màu máu, lúc nhấp nháy như thuỷ ngân. Ông
lại vén mép chiếc găng và hôn rất lâu vào cổ tay nàng. Nàng cũng nhìn ông một
cách khác lạ bằng cặp mắt huyền với hai nét mày đậm, sẫm như than và ngoảnh
khuôn mặt với làn môi đầy đặn, ngọt ngào mùi son phấn về phía ông, vừa yêu
thương, vừa lại buồn rầu.
Trong tiệm cà phê
"Coupole”, thoạt đầu, họ gọi sò huyết và rượu ăngzu, sau đó đặt thêm chim đa đa
và rượu Boocđô. Uống cà phê xong, cả hai đều đã hơi chuyếnh choáng. Họ hút rất
nhiều, cái gạt tàn đầy ắp những mẩu thuốc lá in dấu son đỏ của nàng. Giữa chừng
câu chuyện, ông ngắm khuôn mặt ửng hồng của nàng và nghĩ thầm rằng: nàng quả là
một giai nhân.
- Ông nói thật đi,
mấy năm vừa rồi chắc là cũng có những cuộc gặp gỡ, hẹn hò nào đó
chứ?
- Quả là cũng có
thật. Nhưng chắc cô cũng đoán được những loại hẹn hò ấy rồi. Một vài khách sạn
ban đêm… Thế còn cô?
- Em cũng có một
chuyện nặng nề lắm… Nhưng mà thôi, em không muốn nhắc lại chuyện đó nữa. Có một
cậu bé, về thực chất chỉ là một gã ma cô… Thế ông và vợ chia tay nhau như thế
nào?
- Nói ra thì xấu hổ
lắm. Cũng là do một cậu bé, điển trai, người Hy Lạp, giàu có vô cùng. Thế rồi,
chỉ vài tháng sau là chẳng còn bóng dáng cô bé đa sầu đa cảm, đã từng cầu nguyện
cho Bạch quân, cho tất cả chúng ta. Cô ấy bắt đầu đi ăn với cậu bé kia trong
những nhà hàng đất tiền nhất Pêra, nhận những lẵng hoa khổng lồ do cậu ta gửi
tặng… "Em không thể nào hiểu được, chẳng nhẽ
anh lại đi ghen với cậu ta hay sao? Đối với em, cậu ấy chỉ là một chú bé dễ
thương, ngoài ra không có gì hết…” Chú bé dễ thương! Bản thân cô ấy cũng chỉ mới
có hai mươi tuổi đầu. Thật khó quên cô ấy thuở trước, hồi chúng tôi còn ở
Ekaterinođar…
Khi tính tiền, nàng
chăm chú nhìn ông và bảo ông không được thưởng quá mười phần trăm cho bồi bàn.
Sau đó, cả hai đều cảm thấy thật lạ lùng vì chỉ nửa giờ nữa thôi là họ đã phải
chia tay nhau mỗi người một ngả.
- Đến chỗ tôi chơi
nhé, - ông buồn bã nói: - Ta ngồi chơi, nói chuyện thêm lát
nữa…
- Vâng, vâng, -
Nàng đáp và kéo tay ông đứng dậy, khoác tay ông và kéo ông sát lại gần
mình.
Người lái tắc xi
đêm, cũng là người Nga, đưa họ về tới con ngõ cô đơn, đến tận cửa một ngôi nhà
cao tầng, cạnh đấy, dưới ánh sáng màu thép của một ngọn đèn thắp bằng khí ga,
mưa đang lắc rắc rơi trên cái thùng đựng rác làm bằng sắt tây. Họ bước vào gian
tiền sảnh sáng đèn, ôm nhau và lặng lẽ hôn. Vừa kịp tra chìa vào ổ khoá trước
khi điện hàng lang vụt tắt, ông mở cửa và dẫn nàng qua phòng ngoài vào gian bếp
nhỏ, nơi trên ngọn đèn chùm chỉ có một bóng điện buồn rầu toả sáng. Mặt họ đã có
vẻ mệt mỏi. Ông mời nàng uống thêm một chút rượu
nho.
- Thôi, anh yêu quý
ạ, - nàng nói: - Em không uống thêm nữa đâu.
Ông cố
nài:
- Chỉ một ly thôi,
vang trắng mà, tôi có một chai Pui tuyệt lắm đang để ngoài cửa
sổ.
- Anh cứ uống đi,
anh thân yêu ạ, còn em thì sẽ đi thay áo và rửa ráy một chút. Và đi ngủ, đi ngủ
thôi. Chúng ta chẳng còn trẻ trung gì nữa, và chắc anh đã hiểu rằng, nếu em đồng
ý đến nhà anh thì có nghĩa là… Và nói chung, việc gì ta phải chia tay nhau cơ
chứ?
Xúc động quá không
nói nên lời, ông lặng yên dẫn nàng đi qua phòng ngủ vào buồng tắm và bật đèn cho
nàng. Tại đấy, các bóng đèn toả sáng rực rỡ, hơi ấm từ lò sưởi lan khắp phòng,
trong khi đó, bên ngoài, mưa vẫn loáng thoáng rơi đều. Nàng lập tức lột khỏi đầu
chiếc váy dài dạ hội.
Ông ra ngoài, uống
liền một lúc hai ly rượu vang chát và lạnh như băng, rồi không kìm được, lại
quay vào. Trong phòng ngủ, tấm gương lớn ở bức tường đối diện phản chiếu buồng
tắm rực rỡ ánh đèn. Nàng đứng quay lưng lại phía ông, hoàn toàn khoả thân, trắng
ngần, đang cúi người trên bồn rửa mặt lau ngực và
cổ.
- Đừng vào đây! -
Nàng nói và khoác chiếc áo choàng lên người, rồi không hề che khuôn ngực đầy như
đúc, làn bụng trắng trẻo khỏe mạnh và cặp đùi ngà ngọc rắn chắc, nàng bước lại
gần và ôm lấy ông, như một người vợ. Ông cũng ôm chặt nàng như ôm vợ và hôn
nàng, hôn lên khắp tấm thân mát rượi, lên bầu ngực chưa khô nước còn thoang
thoảng mùi xà phòng hương, lên đôi mắt và cặp môi mà nàng đã lau hết dấu
son…
***
Hai ngày sau, nàng
xin thôi việc và dọn đến ở hẳn với ông.
Một lần, vào mùa
đông, ông thuyết phục nàng đứng tên thuê một két sắt ở ngân hàng tín dụng Liông
rồi gửi vào đó tất cả vốn liếng mà ông có được.
- Cẩn thận chẳng
bao giờ thừa, - ông nói, - L’amour fait dauser les anes, (Tiếng Pháp: tình yêu
khiến cho đến con lừa cũng phải nhảy múa) anh cảm thấy mình như mới hai mươi
tuổi. Nhưng thiếu gì điều có thể xảy ra…
***
Ngày thứ ba sau lễ
Phục sinh, ông mất trong tàu điện ngầm, - đang ngồi đọc báo, ông bỗng đột ngột
ngả đầu trên thành ghế và nhắm mắt…
Khi nàng mặc áo
tang đen từ nghĩa trang trở về, khắp nơi là một ngày xuân đáng yêu, những đám
mây mùa xuân đang trôi đâu đó trên nền trời Pari mềm mại, và tất cả những điều
đó đều lên tiếng về một cuộc sống trẻ trung, vĩnh hằng, và về cuộc đời nàng, từ
nay đã hết rồi…
Về nhà, nàng bắt
tay thu dọn căn phòng. Ngoài hành lang, trên mắc áo, nàng trông thấy chiếc áo
khoác màu xám có lần lót đỏ mà ông đã mặc vào dạo mùa hè xa xưa ấy. Nàng lấy áo
từ trên mắc xuống, áp vào mặt, ôm chặt nó vào lòng rồi đổ khuỵu xuống sàn, toàn
thân rung lên trong những tiếng nức nở và nghẹn ngào cầu xin ai đó tha
thứ…