CÕI TRUNG GIỚI
Cõi nầy gần cõi Hồng trần nhứt. Là vì nguyên tử căn bản
hồng trần được bọc bên ngoài bằng một lớp thanh khí (là chất của cõi Trung giới)
và khi tan rã, thì thành thanh khí. Ở cõi nầy, sự sống linh động hơn và sắc tướng
biến chuyển dễ dàng hơn. Chúng ta không thấy chất thanh khí được vì chất hồng
trần của thể xác ta nặng trược quá nên không đáp ứng được với các rung động quá
mau của chất thanh khí.
Cõi nầy là môi trường của ham muốn và dục vọng, của cảm
xúc và tình cảm. Các nhà luyện kim thời Trung cổ dùng chữ astral (chói sáng như
sao) để gọi cõi nầy vì nó rất sáng sủa. Nó còn được gọi là cõi tình cảm, cõi
Trung giới, cõi luyện tội, cõi âm ty v. v. .
Chúng ta sang qua đó trong lúc ngủ và sau khi chết. Đó
là một cõi hoàn toàn có thật gồm những chất rất tế nhị. Tuy nhiên, nó cũng được
gọi là cõi "ảo tưởng”, vì các đồng bóng thường tả cõi đó bằng những cảm giác mù
mờ.
Đặc tính:
1/ Sắc tướng biến đổi.- Các sinh vật cõi nầy có thể biến
đổi nhanh chóng hình thể mình để mê hoặc những người họ muốn phá phách.
2/ Thị lực.- Khi ta xem một món đồ, ta thấy tất cả một
lượt, bên trong như bên ngoài.
3/ Đối phần.- (contre partie) Mỗi vật hữu hình ở cõi
trần đều có đối phần bằng thanh khí ở cõi Trung giới. Thể xác của chúng ta có đối
phần của nó là thể vía.
4/ Phóng đại.- Thị giác có quyền năng phóng đại các vật
hồng trần rất nhỏ.
5/ Màu sắc mới.- Ở cõi Trung giới có nhiều màu sắc mà ở
cõi trần chúng ta không biết. Ở đây màu tử ngoại tuyến (ultra violet) và xích
ngoại tuyến (infra rouge) đều được thấy rõ ràng.
6/ Hình ảnh quá khứ.- Tất cả những sự việc xảy ra ở
cõi trần đều có phản chiếu một phần và trong một thời gian ngắn ở cõi Trung giới.
Thật sự, các di tích nầy đều có ở cõi Thượng thiên.
7/ Đi đứng đụng chạm.- Chúng ta có cảm giác lướt trôi
chớ không phải đi đứng như ở cõi trần. Chúng ta đi ngang người và vật một cách
dễ dàng, do đó không thể có tai nạn. Trong trường hợp nổ tung, cái vía tan từ mảnh
và ráp lại tức thì.
8/ Tối tăm.- Sự tối tăm không có ở cõi Trung giới vì
thể chất của cõi nầy tự nhiên sáng chói.
9/ Không gian và thời gian.- Quan niệm về không gian
và thời gian thay đổi hẳn : một khoảng vài giây trong giấc mộng có thể dài như
cả mấy mươi năm. Khi người ta muốn đến một nơi xa thì chỉ nghĩ và muốn là đến
ngay.
Các cảnh:
Trung giới có bảy cảnh gồm ba phần :
1.- Phần thứ nhứt gồm ba cảnh thứ 4, thứ 5 và thứ 6 :
các cảnh nầy nhứt là cảnh thứ 6 tương tự cõi trần.
2.- Cảnh thứ 7 : ấy là cảnh địa ngục (không vĩnh viễn)
ở đây quang cảnh rất tối tăm. Khi thám hiểm cõi nầy, học viên có cảm giác di
chuyển trong một không khí đen và nhờn giữa những nhân vật và ảnh hưởng xấu xa.
3.- Phần thứ ba gồm có ba cảnh 1, 2 và 3 : Các cảnh nầy
sáng sủa và tinh vi. Ấy là Xứ nhàn hạ của người thần linh học, Walhalla của người
Scandinave, Cung điện của người Hồi giáo và Thánh địa Jérusalem bằng vàng, cửa
nạm ngọc của người Thiên Chúa giáo.
Hiện hình:
Sự hiện hình thấy ở nghĩa địa là hình của thể phách
người chết hiện ra gần ngôi mộ. Người hấp hối thường cũng hiện hình trong thể
vía để đi thăm một người nào trước khi từ trần. Ở những nơi xảy ra án mạng, sự
hiện hình là những tư tưởng phát ra do kẻ sát nhơn khi y ôn lại các giai đoạn của
án mạng. Hơn nữa, chất thanh khí nơi đó cũng giữ ấn tượng của sự việc xảy ra.
Người chết còn cố gắng liên lạc với cõi trần bằng cách reo chuông hay ném đá.
Hiện tượng Thần linh học:
Những linh hồn có thể nhập vào xác đồng rất nhiều và
chỉ những người có nhãn thông mới nhận biết được linh hồn hướng dẫn, các lời dạy
bảo xuyên qua đồng cốt không có gì đặc biệt, trừ trong những phiên họp giữa các
nhà thần linh chân chính.
Các vong linh còn có thể hiện hình bằng cách sử dụng
thể phách của đồng tử, vì vậy mà sức khỏe của người nầy bị tổn hại. Sự hiện
hình có thể ghi ấn tượng lên kiếng ảnh.
Những tinh linh (như các tiên nữ : fées) có thể tạo những
hiện tượng thần linh : gõ cửa, quay bàn, di chuyển đồ đạc v. v. .
Năng lực thanh khí:
Chất thanhh khí và dĩ thái có một áp lực mạnh hơn áp lực
của không khí. Có những luồng dĩ thái vô cùng mạnh mẽ chạy quanh trái đất từ cực
nầy đến cực nọ.
Làn sóng giao cảm: Khi chúng ta lập đi lập lại một sự
kích động và lập một cách có tiết điệu, các làn sóng rung động trở nên mạnh mẽ
vô cùng. Người ta có thể sánh việc nầy với những bước đi ăn nhịp ở một cầu
treo.
Thần chú: Sự lặp đi lặp lại một số âm thanh có thể tạo
những ảnh hưởng nầy nọ: đó là Thần chú.
Tan rã: Một sự vật có thể tan trong dĩ thái nếu tốc độ
rung động của nó được gia tăng. Nhờ vậy một vật có thể di chuyển đến xa trong
trạng thái dĩ thái. Khi tốc độ rung động của nó trở lại bình thường, áp lực của
dĩ thái sẽ hoàn hình cho vật đó.
Tạo vật: Do ý chí, người ta có thể tạo ra một đồ vật bằng
cách sử dụng nguyên liệu sẵn có ở chung quanh mình. Bao giờ ý chí còn mạnh thì
sự vật đó còn. Nó biến mất khi ý chí ngưng lại.
Tuy nhiên, cũng có thể có những đồ vật tạo như thế nầy
mà trở thành vĩnh viễn. Thơ từ, hình vẽ cũng được tạo như vậy.
Vật nặng hóa nhẹ: Huyền học có thế làm mất sức nặng của
đồ vật và đưa nó lên cao (trường hợp các tảng đá lớn của Kim Tự Tháp).
Nhãn thông: Với những quan năng của thể vía, người ta
có thể đọc một quyển sách xếp lại hay tư tưởng của kẻ khác.
DÂN CƯ CÕI TRUNG GIỚI
Dân cư cõi Trung giới có thể phân làm ba loại :
A. DÂN CƯ NHÂN LOẠI:
1. Người sống :
Ấy là thể vía của những người còn sống ở cõi trần và
đã tiến khá cao : các vị Chơn tiên và đệ tử, các nhà huyền học trong đó có bọn
tả đạo ích kỷ, và của những người thường trong lúc ngủ.
2. Những người không còn xác thân:
Hạng người nầy gồm :
a/ Những vị Cao Cả như các vị Nirmanakayas. (xem
chương XII).
b/ Các vị đệ tử từ chối không lên Thiên Đàng và đợi đi
đầu thai.
c/ Những người đã từ trần (xem chương VII).
d/ Những bóng và vỏ, là những cái vía đang tan rã của
những người từ bỏ cõi Trung giới để sang cõi trên.
e/ Những vỏ hoàn sanh, nghĩa là được vong linh nhập
vào.
f/ Những kẻ tự tử và nạn nhân của các vụ bất đắc kỳ tử,
họ thường bị bắt buộc ở cảnh thứ bảy (địa ngục) một thời gian.
g/ Ma cà rồng (vampires) và ma sói , là những sinh vật
gốc người rất nguy hiểm nhưng hiện thời ít thấy.
B. DÂN CƯ PHI NHÂN LOẠI:
1. Loại tinh chất. (Essence élémentale):
Loại nầy được tạo thành bằng chất thanh khí phối hợp với
dục vọng do luồng sống thứ hai (phát xuất từ Ngôi Hai). Trên con đường tiến vào
vật chất, giai đoạn nầy xảy ra trước khi sự sống nhập vào kim thạch. Loài nầy
có những năng lực riêng mà con người có thể sử dụng nếu biết cách.
2. Vía của thú vật:
Ấy là vía của con thú đã chết, chúng ở đây không bao
lâu.
3. Tinh linh:
Ấy là các Tiên nữ (fées), Thần gió (elfs), Thổ địa
(gnomes), Thiên tinh (sylphes), Hỏa tinh (salamandres) v. v. . . Chúng hiện ra
trong hình dáng con người nhưng nhỏ thó, tuy rằng chúng không thuộc con đường
tiến hóa của nhân loại.
Chúng có thể thay đổi hình dạng. Các tinh linh thường
được biết là Thổ địa, Thủy thần, Thần gió, Thần lửa, mỗi loại có nhiệm vụ riêng
về đất, nước, gió, lửa thuộc phần hành của mình. Các Tiên nữ chăm nom đặc biệt
sự đào tạo hình hài các loài kim thạch và thảo mộc, và chuyển sinh lực vào các
loài nầy.
Tinh linh lánh xa nhân loại vì không chịu được hơi hám
và dục vọng con người. Đôi khi chúng phá phách và mê hoặc chúng ta. Chính chúng
nó giúp các nhà ảo thuật Ấn Độ tạo những ảo thuật công cộng.
Đời sống của chúng đơn giản, vui vẻ, vô tư lự như trẻ
con. Chúng sống lâu hay mau tùy loại. Thân hình của chúng làm bằng chất thanh
khí hay chất dĩ thái.
Trên con đường tiến hóa đến quả vị Thiên thần (Anges),
tinh linh tương ứng với loài cầm thú so với nhân loại. Con đường tiến hóa của
chúng gồm: ngũ cốc, kiến, ong, Tiên nữ, Thiên tinh, Thiên thần; còn con đường
tiến hóa của nhân loại phải trải qua đất, rong rêu, cây có hoa, đại thọ, loài
có vú, con người.
4. Thiên thần (Devas ou Anges):
Theo sự hiểu biết của chúng tôi, các Thiên thần thuộc
một hệ thống tiến hóa cao nhứt và có liên hệ với quả địa cầu. Sau khi đạt sự
toàn thiện, con người có thể chọn con đường tiến hóa của các vị Thiên thần, một
trong bảy con đường tiến hóa. Sự toàn thiện của các vị Thiên thần cao hơn sự
toàn thiện của nhân loại.
Các Ngài gồm 7 hạng :
1/ Cảm dục Thiên thần (Kâmadevas)
2/ Hữu sắc Thiên thần (Roupadevas)
3/ Vô sắc Thiên Thần (Aroupadevas)
Thân thể của các vị nầy là thể vía, thể trí hay Chơn
thân. Mức tiến hóa của Cảm dục Thiên thần cao hơn mức tiến nhân loại.
Trên Vô sắc Thiên thần còn 4 hạng Thiên thần khác.
Trên nữa là các vị Hành tinh Thiên thần (Esprits planétaires).
Ở một cấp bậc cao, các Thiên thần đối với các Tinh
linh cũng như nhân loại so với thú cầm.
Nhiệm vụ của các Thiên thần là hướng dẫn sự tiến hóa
theo Thiên Ý. Các Ngài tái lập sự quân bình luôn luôn bị xáo trộn do hằng triệu
ý chí khác nhau trong vũ trụ và cũng chăm nom sự dạy dỗ và vận mệnh các quốc
gia.
C. DÂN CƯ GIẢ TẠO:
1. Tinh chất giả tạo (élémentals artificiels) hay Hình
tư tưởng:
Hạng nầy đông hơn tất cả. Chúng gồm những thực thể bán
thông minh và khác biệt nhau như tư tưởng con người.
Một tư tưởng (hay dục vọng) khi phát sanh thì dùng
tinh chất (essence élémentale) tạo thành một sắc tướng thích hợp với nó. Đời sống
của sinh vật nầy (nghĩa là của sắc tướng nó) tùy sức mạnh của tư tưởng hay dục
vọng phát sanh nó. Nó được rõ ràng ít hay nhiều là tùy tư tưởng chân xác hay
không. Màu sắc của nó tùy phẩm hay loại tư tưởng (thương yêu, sùng bái, thiện cảm
v. v...)
Thường thường, tư tưởng con người mơ hồ, vì vậy sinh vật
được tạo ra chỉ sống trong vài phút hay vài giờ rồi tan trong khối tinh chất
sau khi phất phơ đây đó.
Nếu tư tưởng mạnh, sinh vật nầy có thể sống trong vài
ngày hay lâu hơn nữa. Một pháp sư giỏi có thể tạo những sinh vật sống cả ngàn
năm. Vì vậy, có những tinh vật loại nầy được tạo cách đây lối 11.500 năm (trước
khi châu Atlantide bị sụp chìm) mà nay vẫn còn tồn tại.
Ảnh hưởng đối với cá nhân mình: Khi tư tưởng hướng về
cá nhân mình, nó tăng cường các tinh vật đã tạo và giúp chúng nó sống lâu. Thế
là ta tạo cho ta một người bạn thanh khí dũng mãnh mà ảnh hưởng đối với chúng
ta một ngày một gia tăng. Vì vậy, khi ta lập lại thường một dục vọng, nó sẽ gây
cho chúng ta nhiều tai hại.
Ảnh hưởng đối với kẻ khác: Khi chúng ta nghĩ đến người
khác, sinh vật được tạo thành sẽ bay vẩn vơ quanh người đó để ảnh hưởng tốt hay
xấu tùy ý chúng ta, vào lúc thuận tiện nhứt nghĩa là khi người nầy dễ cảm nhứt.
Nhưng tinh vật chỉ có thể tác động khi nào thể vía đối
tượng có những yếu tố đồng loại với thể của nó để nhận sinh lực tốt hay xấu của
nó. Nếu yếu tố nầy không có, tinh vật sẽ quay lại chúng ta theo con đường đã đi
với sức mạnh còn nguyên của nó.
Người ta biết được nhiều trường hợp mà tư tưởng oán
ghét không hại người bị trù mà quay lại giết người tạo ra nó. Trái lại, một tư
tưởng hiền lành khi nó không được nhận do một người hèn hạ, nó sẽ quay về giúp
đỡ người phát ra.
Đôi khi, một tinh vật xấu không sử dụng sinh lực của
nó được nên trở thành một ác quỉ nuôi dưỡng các tinh vật đồng loại với nó.
Như vậy, với tư tưởng và dục vọng của chúng ta, chúng
ta có thể tạo thiên thần hay ác quỉ mà chúng ta phải chịu trách nhiệm. Do đó,
chúng ta phải tập chủ trị tư tưởng và dục vọng của chúng ta.
Ước mong và cầu nguyện: Ai ai, dù nghèo thế nào đi nữa,
cũng có thể tạo một thiên thần hộ mạng cho những người mình mến yêu, dù các người
đó ở xa hay gần. Sau khi chết, ta cũng có thể tác động như vậy.
Quyền năng của một lời cầu nguyện nhiệt thành, nhứt là
khi được lập lại thường, trong việc đào tạo tinh vật linh động để hộ trì người
khác giải thích một tin tưởng của các người mộ đạo : Cầu xin là được.
Hình dáng và màu sắc: Quyển sách Hình Tư Tưởng của bà
A. Besant và ông C. W. Leadbeater giải thích việc nầy một cách tỉ mỉ.
Sau đây là một vài chi tiết : tím = tính tâm linh,
xanh lam = sùng tín, vàng = thông minh, vàng cam = kiêu căng, xanh lá = thiện cảm,
hồng = tình thương vị tha, đỏ = giận dỗi, dâm dục, xám = ích kỷ, đen = hung dữ.
Những hình tư tưởng đẹp đẽ, rõ ràng, tươi sáng và
thanh khiết là hình dáng của những tư tưởng thanh cao. Trái lại, những tư tưởng
lu mờ, xấu xí, âm u là triệu chứng của những tánh tình đê tiện.
Thành kiến: Nói chung, các tinh vật giả tạo phát sanh từ
một nhóm, một xứ tạo một ảnh hưởng vô hình to lớn đối với tình cảm của một quốc
gia, một sắc tộc, một màu da, một tôn giáo, một chánh đảng và cũng như đối với
các thành kiến. Từ khi sanh, chúng ta phải chịu những ảnh hưởng nầy và vì chúng
ta không biết nên ảnh hưởng ấy rất sâu đậm.
2. Con người giả tạo:
Để đánh đổ chủ nghĩa duy vật, một nhóm người Mỹ trong
thế kỷ qua (XIX), có lập một phong trào sau trở thành khoa Thần linh học.
Người ta dạy bảo một người quá vãng về những khả năng
của cõi Trung giới rồi giao cho người đó hướng dẫn một nhóm Thần linh học.
Nhưng do luật tiến hóa, người hướng dẫn cần được thay thế. Vong linh thay thế
bèn sử dụng các bóng hay cái vỏ của người hướng dẫn trước nên người ta tưởng chỉ
có một vị hướng dẫn mà thôi. Nhưng về sau, người ta cũng thấy những điều sai biệt.
Đó là nguyên do của các thực thể nhân tạo.
CÁC VỊ PHÒ TRỢ VÔ HÌNH
Sau cùng, chúng ta nên nói đến một nhóm người gồm người
sống lẫn người chết do đệ tử của các vị Chơn Sư lập ra để làm việc ở cõi Trung
giới. Đó là nhóm người cứu trợ vô hình. (xin xem quyển Những Vị Phò Trợ Vô Hình
của C. W. Leadbeater)
Nhóm nầy được thành lập vào buổi sơ khai của Hội Thông
Thiên Học. Trong lúc đầu, nhóm nầy gồm những người đàn ông và đàn bà còn sống,
họ quyết định sử dụng thời gian thể xác ngủ để hoạt động ở bên kia cửa tử. Sau
đó, họ qui tụ thêm một số người đã từ trần trong các hoạt động nầy.
Cứu trợ người chết: Khi sang qua cửa tử, nhiều người rất
sợ sa vào địa ngục. Họ cần được trấn an, chỉ dẫn : đó là một công việc rất khó
vì họ muốn bám víu vào cõi trần thay vì siêu thăng lên các cõi trên. Lắm khi, họ
không tin rằng họ chết. Phận sự của các vị phò trợ vô hình là soi sáng họ. Một
vị phò trợ cũng có thể tác động ngay ở cõi trần để giảm bớt sự lo âu của người
chết; thí dụ, ông có thể bảo anh em (còn sống) của người chết, chăm nom con cái
côi cút của y.
Cứu trợ người sống: Các vị phò trợ vô hình có thể chuyển
những tư tưởng tốt cho những ai có thể đảm nhận : chánh khách, tu sĩ, văn sĩ,
nhạc sĩ hoặc trong một vài trường hợp đặc biệt báo trước các nguy hại của cách
ăn ở của họ. Các vị phò trợ nầy cũng có thể được sử dụng để thỏa mãn những lời
cầu nguyện.
Các đức tánh cần thiết:
- Sự cứu trợ nầy cần 5 đức tánh :
1/ sự quyết tâm cứu trợ;
2/ sự tự chủ hoàn toàn để không khi nào bị dao động;
3/ sự an tĩnh (không lo âu);
4/ sự hiểu biết về cõi Trung giới;
5/ tình thương vị tha khiến chúng ta có thể hoạt động
một cách kín đáo và vô tư.
Tuy không thuộc vào nhóm phò trợ nầy, bất luận người
nào trong lúc ngủ cũng có thể giúp đỡ những kẻ đau khổ. Trước khi ngủ, y chỉ cần
nghĩ đến họ với ý tưởng an ủi họ khi y rời khỏi thể xác.
THỂ VÍA:
Thể vía là một khối thanh khí hình trứng, choán một chỗ
cùng thể xác và còn vượt ra ngoài. Tuy nhiên, phần trong có vẻ đông đặc, lớn bằng
thể xác và cũng giống thể xác.
Thể nầy dùng để biểu hiện cảm xúc, dục vọng, ham muốn,
tình cảm. Nhờ nó mà các ấn tượng bên ngoài chuyển thành cảm giác để trí ta thu
nhận. Những vật biết đau đớn đều có thể vía. Cục đá không đau đớn vì nó không
có một thể vía được tổ chức. Không có thể vía, các cảm xúc không sao có được.
Khi người bệnh dùng thuốc mê, thể vía thoát ra thể xác, cảm xúc không còn nữa
nên không còn biết đau.
Thể vía còn dùng làm cầu liên lạc giữa khối óc và tâm
thức tác động trong châu thân. Trong lúc ngủ, nó thoát về cõi của nó và tiếp
xúc với người chết ở cõi đó.
Nó được tạo thành do các chất thuộc bảy cảnh của cõi
Trung giới.
Hình dáng:
Thể vía sáng nhiều hay ít tùy mức tiến hóa của con người.
1/ Người tiến hóa ít: Hình dáng nó mù mờ, không được tổ
chức, không rõ ràng. Nó có vẻ nặng nề, màu sắc âm u, dơ dáy. Nó vượt ra khỏi thể
đông đặc lối 25 – 30 phân. Thường thường nó như vô tri, vô giác, nên phải có những
va chạm mạnh nó mới thức tỉnh và tác động; do đó nó chỉ có thể phát triển khi
nào cảm xúc nhiều và mạnh. Vì vậy, người kém tiến hóa chỉ có ý niệm về điều thiện
trong sự quên mình cho vợ, con hay bạn thân.
Trí thức còn rất kém. Ở trình độ nầy con người hành động
do ngoại cảnh thúc giục chớ không phải bởi ý chí.
Trong lúc ngủ, thể vía bay phất phơ bên thể xác, còn
giấc mộng thì có tánh cách tầm thường.
2/ Người trung bình: Thể vía sáng sủa hơn và được tạo
thành bởi những vật liệu tế nhị hơn. Nó vượt ngoài thể xác lối 50 phân. Nó hoạt
động điều hòa và lần lần có thể hoạt động riêng biệt đối với thể xác. Nó chịu ảnh
hưởng ý chí một ngày một nhiều.
Trong giấc ngủ, nó đi xa khỏi thể xác trong cõi Trung
giới và ghi nhận những ấn tượng của cõi nầy. Như thế, khi tách ra khỏi xác
thân, nó có thể thu thập được sự hiểu biết và chuyển lần lần qua tâm thức con
người trong lúc thức.
3/ Người tiến hóa cao: Thể vía được tạo do những vật
liệu tinh vi và chói sáng trong những màu sắc rực rỡ. Nó trở thành một cơ quan
hiểu biết độc lập đối với thể xác.
Hào quang của một vị La Hán (điểm đạo lần thứ tư) có
thể chiếu ra độ 10 thước chung quanh xác thân.
Màu sắc:
Ý nghĩa các màu sắc của thể vía cũng giống như ý nghĩa
màu sắc hình tư tưởng. Quyển sách của C. W. Leadbeater : "Con người hữu hình và
vô hình” có nhiều chỉ dẫn hữu ích nhờ hình ảnh rất nhiều
Tinh luyện:
Màu sắc thể vía sáng ít hay nhiều, hình dáng nó rõ hay
không, đó là tùy mức tiến hóa của con người. Sự hoàn hảo của nó căn cứ trên sự
tinh luyện thể xác và thể vía.
Các tư tưởng thanh cao thu hút những thanh khí tế nhị
vào thể vía và sa thải các phần tử nặng trược. Những thức ăn ô uế mà ta dùng để
nuôi dưỡng xác thân (như thịt, máu, rượu) cũng đem vào thể vía đối phần thanh
khí nặng trược. Thế nên chúng ta cần kiêng cử những món ăn nầy.
Sự thanh lọc nầy rất cần cho các phương pháp Yoga để
kiểm chứng sự thực tại của các cõi vô hình.
Trạng thái thức:
Trong lúc chúng ta thức, thể vía là cây cầu cho tâm thức.
Ở nó, các va chạm bên ngoài biến thành cảm xúc và được thể trí chuyển vào tâm
thức; sau đó, các rung động gây ra được truyền sang khối óc. Đó là có cảm giác.
Hai đường rung động nầy giúp thể vía tiến hóa.
Giấc ngủ:
Nguyên nhân của giấc ngủ là sự mệt mỏi của thể xác, nó
cần được phục hồi sức lực. Trong lúc ngủ, thể vía thoát ra thể xác mà vẫn giữ
hình dáng của thể nầy. Nó di chuyển rất mau : trong vài ba phút, nó có thể bay
quanh quả địa cầu.
Ở cõi Trung giới, các bậc tiến hóa cao đều thức tỉnh.
Nhờ vậy họ có thể học hỏi thêm và liên lạc với các kẻ ở xa. Tâm thức của họ
không bao giờ gián đoạn, ký ức của họ cũng thế.
Trạng thái xuất thần chỉ là một giấc ngủ tạo ra bởi một
cách khác thường hay giả tạo.
Giấc mộng:
Vấn đề được giải thích rõ ràng trong quyển Chiêm Bao của
C. W. Leadbeater.
Các giấc mộng được tạo ra do bốn yếu tố :
1/ Khối óc vật chất: Khối óc vật chất diễn tả các kích
động bằng hình ảnh. Đối với ảnh hưởng bên ngoài, nó rất nhạy cảm, hay phóng đại
và làm sai lệch. Ví dụ : một người mặc áo sơ mi chật cổ có thể nằm mộng thấy
mình bị treo cổ. Lại thêm các tư tưởng liên kết nhau nhanh chóng và rất lộn xộn.
2/ Khối óc dĩ thái: Khi đi xuyên qua khối óc dĩ thái,
các dòng tư tưởng khêu gợi ở nó những rung động quen thuộc và phát sanh những
hình ảnh rời rạc xen lẫn với các hình ảnh của óc vật chất.
3/ Thể vía: Ngoài các hình ảnh nầy, thể vía còn ghi nhận
những ấn tượng khác đến với nó. Một thói quen cũ có thể hiện lại bởi vì trong
lúc ngủ, lý trí không còn kiểm soát nó nữa. Ví dụ một người ghiền rượu có thể nằm
mộng thấy mình uống rượu dù rằng y đã bỏ rượu từ lâu. Việc nầy chứng tỏ sự muốn
uống rượu vẫn còn.
4/ Chơn nhơn: Chơn nhơn hay bi tráng hóa sự việc, ví dụ
một phát súng khêu gợi không biết bao nhiêu biến cố xảy ra trong nhiều năm. Ý
niệm của nó về thời gian có tánh cách siêu việt : một vài giây có thể trở thành
nhiều năm. Ngoài ra nó biết trước vị lai và tìm cách chuyển qua khối óc.
Giấc mộng có thể báo đúng sự việc sắp xảy ra, nhưng
thường nó gồm những chuyện rời rạc tạo ra do khối óc vật chất và khối óc dĩ
thái.
Luân xa:
Đó là trung tâm sinh lực, là những giao điểm chuyển
sinh lực từ thể nầy sang thể khác. Luân xa thể phách nằm ngoài mặt thể nầy, còn
luân xa thể vía thường nằm bên trong. Luân xa của hai thể tương ứng nhau.
Có bảy trung tâm lực :
1/ Cái thứ nhứt ở cuối xương sống, có 4 cánh. Đó là hỏa
hậu biểu dương quyền năng của Thượng Đế;
2/ Cái thứ nhì nằm ở rún, có 10 cánh;
3/ Cái thứ ba nằm ở lá lách, có 6 cánh. Phần vụ của nó
là thu hút sinh khí thái dương;
4/ Cái thứ tư ở quả tim và có 12 cánh;
5/ Cái thứ năm ở cổ, có 16 cánh;
6/ Cái thứ sáu ở giữa hai lông mày, có 96 cánh. Nó dường
như chia ra hai phần bằng nhau.
7/ Cái thứ bảy ngay đỉnh đầu, có 1000 cánh (đúng là
960 cánh); khi nó được thức động, nó khai mở các quan năng thể vía.
Giác quan thể vía:
Thể vía không có những giác quan riêng như nhãn quan của
thể xác chẳng hạn. Khi các luân xa được đánh thức, toàn bộ thể vía đều cảm xúc
được.
Màn chia các cõi:
Giữa các luân xa thể phách và thể vía, có một tấm màn
bằng nguyên tử căn bản hồng trần ngăn chận ảnh hưởng cõi Trung giới (nhứt là ký
ức về sự sinh hoạt trong lúc ngủ). Rượu làm hại tấm màn ấy, thuốc lá thì ít phá
hơn. Phải giữ gìn tấm màn ấy nguyên vẹn để tránh những ảnh hưởng bất hảo của
Trung giới.
(Trích tài liệu Thông
Thiên Học)