CHƯƠNG HAI
– Anh ghi lại những gì tôi nói với anh rồi ư, vậy tốt lắm.
Hôm nay tôi cũng không thấy thầy tôi bước vào vì tôi đang mãi
coi lại bài đã viết xong.
– Dạ phải, tôi đáp, nhưng tại sao thầy biết chuyện tôi đã làm
?
– Anh có cho tôi hay tối qua lúc anh ngủ và ra khỏi xác thân.
Ông trả lời. Anh bảo là quyết định ghi lại trọn tất cả những gì tôi nói. Tôi sẽ
không giải thích thêm về việc ấy lúc này, nhưng mai sau khi mọi chuyện đã xong
và tôi không còn tới đây nữa, anh sẽ hiểu tất cả thật rõ ràng đến mức có thể tự
trả lời những thắc mắc đó.
Ông tỏ ra rất phấn khởi về quyết định của tôi, và cho hay ông
rất vui lòng thêm vào bài ghi của tôi trong hai ngày qua. Tôi để ý thấy ông
không sửa chữ nào, nhưng bỏ thì giờ điền vào những khoảng trống tôi chừa vì
không chắc là mình nhớ đúng. Rồi thầy tiếp:
– Anh còn nhớ tôi nói rằng nét chính yếu của thế giới loài vật
là sự sinh tồn, trong khi với con người thì lại là lòng hy sinh ? Tuy nhiên có
nhiều luật thiên nhiên khác ta cũng cần phải hiểu, nếu muốn học hỏi về sự bí ẩn
của con đường tiến hóa, vì nay khi làm người thì những luật quản trị loài người
sẽ tác động. Lẽ tự nhiên những luật này hoàn toàn khác xa với luật áp dụng cho
loài vật, tuy rằng trong vài kiếp đầu tiên người chưa tiến hóa nhiều phần vẫn
là thú hơn là người. Dù họ không còn chút sợ hãi về người nhưng các hành động
đã làm trong kiếp thú vẫn còn nằm trong tiềm thức. Trong những kiếp đầu tiên
mang thân xác người, linh hồn non trẻ sinh hoạt dựa trên bản năng mang theo từ
thế giới loài vật, vì nó chưa biết gì về những luật tác động trong thế giới con
người.
"Luật quan trọng đầu tiên áp dụng trong thế giới con người
là luật Luân Hồi. Luật nói rằng khi linh hồn thoát kiếp thú thành cá nhân riêng
biệt, nó sẽ tái sinh nhiều bận trong thân xác người, cho tới lúc nó học được tất
cả những bài học có thể học được ở cõi trần, nhờ kinh nghiệm của mọi cảnh huống.
Khi lực sống trải qua thế giới kim thạch và thảo mộc thì luật Luân Hồi có tác dụng
giới hạn và không hiện rõ cho lắm. Luật này cũng có trong thế giới loài vật
nhưng cũng chỉ hạn chế, vì linh hồn ở trong hồn khóm và chưa phải là thực thể
riêng biệt. Luật sẽ tác động rõ rệt ở
giai đoạn tiến hóa khi linh hồn thành cá nhân riêng biệt và bước qua thế giới
con người.
"Luật quan trọng thứ hai, tác động cho con người mà
không phải cho thú vật là luật Nhân Quả hay Karma. Luật khởi sự ứng dụng ngay
vào lúc linh hồn trong hồn khóm trở thành cá nhân riêng rẽ. Luật nói rằng mọi
tư tưởng, lời nói hay hành động phát xuất từ con người phải sinh ra kết quả rõ
rệt, hoặc xấu hoặc tốt, và kết quả này phải được chúng ta giải quyết trong đời ở
cõi trần. Điều này không có gì là bất công vì kinh thánh Thiên Chúa giáo có ghi
"Con người gieo giống nào, gặt giống đó" hay đông phương nói rằng
"Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu".
"Theo luật Karma, hành động ích kỷ nào của ta gây đau khổ
cho người khác thì tạo nhân xấu, và ta phải trả giá cho nhân xấu này bằng sự
đau khổ do hành động tương tự của người khác, hoặc trong kiếp này hay kiếp sau.
Cũng y vậy hành động tốt của ta có nghĩa là đã tạo được nhân tốt, với kết quả
là hoặc xóa đi một nhân xấu ta đã gây ra, cái tốt tiêu trừ cái xấu, hoặc ta sẽ
nhận được sự tốt lành cùng mức từ một nguồn khác.
"Khi linh hồn trẻ vừa thành người thì số lượng hành động
hay tư tưởng, lời nói có tính khờ dại, độc ác tự nhiên vượt trội cái tốt lành,
đẹp đẽ, và nếu luật tác động một cách máy móc thì đời người sẽ bị triền miên
đau khổ do chính tư tưởng, hành động và lời nói của họ gây ra, mỗi cái cho kết
quả đúng đắn. Người ta không sao chịu đựng và sống nổi một đời như thế, linh hồn
trẻ chỉ có cách tự tử mà thôi. Vì vậy một phương pháp nhân đạo hơn được áp dụng
là trong bất cứ một kiếp nào, không ai bị ép buộc phải trả hơn sức chịu đựng của
mình, và số nhân xấu gây ra vì thiếu kinh nghiệm mà chưa trả hết hay chưa được
quân bằng như nhân tốt, sẽ được hóa giải từ từ trong những kiếp sau.
"Kết quả của cách sắp đặt như vậy là trong hai hay ba
trăm kiếp đầu tiên làm người, linh hồn tiếp tục tích lũy nhân xấu, giống như
thiếu nợ ngân hàng, nhưng đồng thời họ cũng tạo nên cái mà ta gọi là tiếng gọi
của lương tâm. Tiếng nói này được tạo nên nhờ kinh nghiệm thâu lượm được qua những
kiếp khác nhau, trong nhiều cuộc sống như vậy tiếng nói chưa được nghe thấy vì
còn rất nhỏ.
"Lấy thí dụ như có người chưa tiến hóa biết rất ít về
cách sống của con người, nhưng lại nhớ rất nhiều về cách sống của loài vật, muốn
chiếm hữu đồ vật của người khác. Bản năng thú tính của họ sẽ dùng lực để dành
cái mà họ muốn, và nếu đủ mạnh họ sẽ tìm cách làm vậy, một trận ấu đả sẽ xẩy ra
với kết quả là người kia bị chết. Khi ấy luật của con người tác động, kẻ giết
người bị bắt đem ra tòa và bị kêu án tử. Ở cõi thượng trí linh hồn bất tử ghi
nhận kết quả của hành động ấy, giữ lại trong kho hiểu biết và trong một kiếp
tương lai khi con người mang thân xác khác và muốn chiếm hữu vật của người
khác, tiếng nói của lương tâm, của kinh nghiệm sẽ khuyến cáo họ là nếu giết người
thì họ cũng chịu chung số phận theo luật pháp quốc gia. Theo cách ấy từ từ kho
hiểu biết gia tăng, mỗi biến cố lớn trong những kiếp sống trải qua được ghi nhận,
với mục đích là đưa ra lời cảnh giác cho người trong kiếp tương lai.
"Dựa theo lời giải thích đơn giản này, ta có thể hiểu là
ai có lương tâm bén nhậy và chịu lắng nghe thì hẳn phải là một linh hồn già dặn,
bởi họ không thể có một lương tâm nhậy cảm như thế trừ phi đã sống qua nhiều kiếp
rồi, có đầy kinh nghiệm để nhờ vậy lương tâm hay kho hiểu biết được xây đắp.
"Trong khoảng hai trăm kiếp sống, mỗi kiếp con người tạo
ra nhiều nhân xấu hơn là nhân tốt. Một số được trả ngay trong mỗi kiếp dưới
hình thức đau khổ và không may mắn, số còn lại nằm trong khối nhân quả. Khi
linh hồn tiến hóa hơn (thực ra là nhiều kinh nghiệm hơn), lương tri dạy anh rằng
làm chuyện xấu sẽ gây khó khăn cho anh, còn chuyện tốt lành đẹp đẽ thì kết quả
là hạnh phúc và có nhiều bạn.
"Theo cách đó họ tiến hóa đến mức mà nhân tốt tạo ra
trong một kiếp nhiều hơn là nhân xấu; đây là giai đoạn rất quan trọng trong sự
phát triển của một người, vì từ điểm này anh trở nên thực sự hữu dụng và là một
thành viên giá trị cho xã hội. Trong tất cả những kiếp tương lai, mỗi khi bắt đầu
một cuộc đời mới thì một phần của khối nhân xấu tích tụ lâu này được ấn định để
trả trong đời ấy, và anh bắt buộc phải
trả dứt phần nợ đó cộng thêm với bất cứ karma xấu nào sinh trong chính
kiếp này. Hành vi tốt lành sẽ mang cho anh nhiều hạnh phúc và giúp anh đi trên
đường tiến hóa.
"Với những cách làm việc như vậy ta có thể thấy là tất cả
luật trong thiên nhiên làm việc ăn khớp với nhau, giống như những mảnh ráp khít
khao trong bảng ghép hình (puzzles). Phần việc của tôi là đưa cho anh những mảnh
ráp của bảng ghép mà anh phải học, để sắp xếp thành một bảng hình. Để anh có thể
hiểu làm sao con người có thể thâu thập được mọi kinh nghiệm cần thiết, tôi muốn
anh nhìn nhận rằng những điều sau đây là chuyện khả hữu:
Con người là linh hồn
và trên đường tiến hóa từ tình trạng chưa phát triển, dã man cho tới mức là người
toàn thiện, anh phải xử dụng ba thể của tâm thức gọi là thể Trí (mental body),
thể Tình cảm (astral body, emotional body) và thể Xác. Cái chót là thể mà anh
và tôi đang sử dụng và thấy được bằng mắt thường.
Ba thể này được con
người sử dụng khi sinh hoạt trong ba trạng thái tâm thức khác nhau ở cõi hạ trí
(hạ thiên), cõi tình cảm (trung giới) và cõi vật chất.
Cảnh giới của linh hồn
nơi phát sinh ra những thể này là phần trên của cõi trí gọi là cõi thượng trí
hay thượng thiên (Causal Level, chữ causal hay nguyên nhân được dùng để chỉ trạng
thái này, vì nguyên nhân của mọi chuyện xảy ra nơi cõi trần được trữ ở cõi thượng
trí, và chỉ những ai có khả năng quan sát ở cõi này mới có thể biết đích thực của
chuyện ở cõi trần).
"Khi linh hồn nơi cõi thượng trí khởi sự một kiếp sống mới,
nó phải có ba thể trên. Tôi muốn anh hình dung linh hồn như người không có mảnh
vải che thân, chuẩn bị mặc vào ba lớp quần áo. Thể thanh nhẹ nhất là thể trí,
và linh hồn tạo nó bằng cách thu hút vào mình chất liệu của cõi trí, thể này có
thể ví như áo lót mặc sát người. Loại thể trí mà ai có được thì tương ứng với mức
phát triển trí tuệ của họ vào lúc cuối của kiếp vừa xong, nên hiển nhiên là thể
trí của người chưa tiến hóa thì rất khác với thể trí của người đã tiến hóa là
linh hồn già dặn, đã trải qua vô số kiếp người và thâu thập nhiều kinh nghiệm.
"Kế tiếp linh hồn khoác vào người một thể có chất liệu
thô kệch hơn một chút của cõi tình cảm. Thể này chồng lên trên và ở bên ngoài
thể trí, và thuộc loại nào thì cũng tương ứng với mức phát triển tình cảm của họ.
Như vậy thể tình cảm có thể ví như quần áo bình thường của ta. Bây giờ linh hồn
cần một thể đậm đặc và thô kệch hơn nữa, muốn có vậy thì phải dùng phương tiện
vật chất ở cõi trần hay nói khác đi, người nữ với sự trợ lực của người nam sinh
ra em bé. Thân xác vật chất mới này cũng sẽ phù hợp với nhân quả của họ đã tạo
ra trong những kiếp trước, và xác thân có thể ví như áo khoác ngoài cùng của
ta.
"Vậy thì bất cứ ai mà anh gặp ở cõi trần này cũng đều
mang ba thể, cái này ở dưới cái nọ nhưng bởi thể xác ngoài cùng là cái rất đậm
đặc nên ta không thể thấy hai thể kia. Khi một ai chết đi thì chuyện xẩy ra là
họ trút bỏ chiếc áo khoác dầy cộm bên ngoài tức thể xác. Con người vẫn còn đó với
hai thể trí và tình cảm bao quanh, thể tình cảm đậm đặc hơn ở ngoài và thể trí ở
trong bên dưới thể tình cảm. Trước khi giải thích chuyện gì thực sự xảy ra sau
khi chết, tôi phải nói thêm về ba thể này.
"Thể xác mà chúng ta đều thấy bằng mắt thường được tạo bằng
vật chất đậm đặc, nhưng cũng có một phần khác của thể xác không đậm đặc bằng gọi
là thể sinh lực (hay thể phách the etheric body mà người Ai Cập cổ gọi là Ka),
nó đóng một vai trò rất quan trọng trong suốt cuộc sống của một người và vào
lúc chết của thể xác. Thể sinh lực không phải là một thể theo nghĩa thông thường,
tức anh không thể sống trong đó như anh sống trong thể xác; anh cũng không thể
thấy nó trừ phi anh đã mở được loại thông nhãn (clairvoyance) thấp nhất, thấy
được cảnh giới ether.
"Chất liệu tạo nên thể sinh lực cũng bao bọc quanh hệ thần
kinh. Ai nghiên cứu về điện hẳn biết rằng dòng điện không chạy dọc theo sợi dây
như đã tưởng, mà dọc theo lớp vỏ bọc bằng chất ether bao quanh sợi dây. Thần
kinh con người hoạt động cũng y vậy, đường thần kinh thực sự không chạy dọc dây
thần kinh mầu trắng ta thấy, mà chạy dọc theo lớp khí ether bao quanh dây. Nếu
lớp vỏ bọc bằng khí này bị tách rời khỏi dây thần kinh vật chất thì ta không
còn cảm giác.
"Đó là chuyện xảy ra khi chụp thuốc mê, còn chích thuốc
tê thì chất ether dẫn truyền cảm giác bị đẩy ra khỏi dây thần kinh chỗ ấy một
quãng ngắn, sợi thần kinh mầu trắng vẫn nằm y nguyên thấy rõ nhưng khi giải phẫu
thì người bệnh không cảm thấy gì. Khi có cuộc giải phẫu lớn cần liều thuốc mê mạnh,
để bệnh nhân bất tỉnh và không cảm thấy gì trong một thời gian dài, khi ấy thể
sinh lực bị đẩy gần như ra khỏi hết cơ thể. Nếu nó bị đẩy trọn ra ngoài cơ thể
thì bịnh nhân sẽ chết, và điều ấy thỉnh thoảng xẩy ra khi bệnh nhân chết trong
lúc bất tỉnh vì thuốc mê. Sự việc do lượng thuốc mê quá nhiều, chất ether bị đẩy
ra khỏi thể xác không vào được trở lại.
"Chất ether trong suốt và hết sức dẻo dai, ngoài việc là
một phần quan trọng của cơ thể nó còn có nhiệm vụ khác là làm dây nối liền giữa
thể tình cảm và thể xác lúc ta ngủ. Khi anh là linh hồn tách rời khỏi thể xác nằm
trên giường lúc ngủ, một sợi dây bằng chất ether nối thể xác vào thể tình cảm,
với khối chất ether còn lại nằm bên trong và bao quanh cơ thể. Sợi dây này dãn
ra khi anh đi tới bất cứ phần nào khác trên quả đất mà anh muốn, dù đi xa tới
đâu ta vẫn duy trì dây nối liền với thể xác nằm trên giường. Tới giờ cơ thể tỉnh
dậy thì một tín hiệu S.O.S được gởi dọc theo dây ether này đến anh, cho dù đang
ở đâu và anh phải về ngay lập tức, nhập vào thể xác để 'tỉnh dậy', tiếp tục phận
sự của anh ở cõi trần.
"Lúc anh đi ngủ, linh hồn thoát ra khỏi cơ thể ngay khi
nó thiếp đi, anh ở trong thể tình cảm và sinh hoạt nơi cõi tình cảm theo những
điều kiện của cõi này. Anh tự do đi tới nơi nào muốn, trong khi thể xác nằm
nghĩ trên giường và lấy sức lực cho công việc của ngày mai. Chỉ có thể xác là
thể bị giới hạn ở điểm nó cần nghỉ ngơi, ăn uống thường xuyên để giữ gìn sức khỏe
và sự sống, trong khi anh là linh hồn không cần ngơi nghỉ.
"Khi ở trong thể tình cảm anh đi lại thật dễ dàng và có
thể đi xa tới bất cứ đâu. Sức trọng trường không có nơi đây nên anh lướt đi
trên đất hay trên biển không có gì khác biệt cả. Khoảng đường mà anh có thể đi
trong vài giờ cơ thể ngủ trên giường thì gần như là vô giới hạn, anh có thể đi
vòng quanh trái đất trong khoảng hai phút rưỡi đồng hồ. Điều ấy cho anh ý niệm
về tốc độ trong cõi tình cảm có thể lên tới bao nhiêu.
"Thể tình cảm làm bằng vật chất thanh nhẹ hơn thể xác,
linh hồn thu hút chất liệu này bao quanh nó khi tái sinh, chứa đầy tràn khối
hình bầu dục gồm sương lấp lánh gọi là căn thể (causal body). Thể xác đậm đặc
hơn có ái tính rất mạnh với chất liệu tình cảm nên thu hút chất liệu tình cảm
vào sát với nó, tạo thành hình người tương ứng với thể xác nằm ở giữa hình bầu
dục, có đường nét y như thể xác chỉ khác ở chỗ nó thanh nhẹ hơn. Khi thể xác chết
đi, thể tình cảm không cần phải uốn nắn theo thể xác nữa nên nó có khuynh hướng
giữ y hình dạng vào lúc thể xác chết và không lớn thêm. Lý do của việc ngưng tăng
trưởng thể tình cảm là bởi nó không có bộ phận như tim, gan hay xương, thịt,
máu như thân xác mà chỉ là khối sương mờ mà thôi.
"Trong lúc sống ở cõi trần, con người có cơ hội sống
trong cõi tình cảm mỗi lần thiếp ngủ, nhưng thực tế thì chỉ những ai tiến hóa
trên trung bình mới sử dụng trọn vẹn cơ hội như vậy. Linh hồn non trẻ chưa tiến
hóa cũng ra khỏi thân xác trong lúc ngủ vì họ không thể làm gì khác hơn, nhưng
bởi trí tuệ (tức thể trí) chưa phát triển đầy đủ nên anh không sử dụng hết mọi
khả năng của mình đến mức tối đa. Thế nên anh chỉ lẩn quẩn chung quanh thể xác
đang ngủ, chờ tới lúc nó ngủ đủ và muốn thức dậy, gọi anh nhập vào thân xác trở
lại; vì lẽ đó anh không quen với cảnh sống nơi cõi tình cảm bằng như linh hồn
già dặn hơn. Khi người có trình độ thấp như vậy không còn thể xác nữa, họ cảm
thấy mình bước vào một thế giới hoàn toàn xa lạ. Có những lúc ngay khi mới chết,
họ muốn trở lại cõi trần là cuộc sống mà họ biết nhưng không thể làm sao trở về
bởi khi chất ether đã rút ra khỏi thể xác hoàn toàn thì không thể đem trở vào nữa.
"Thân xác chết đi vì nhiều lý do, vì bệnh tật khi cơ thể
không còn hoạt động đúng mức nữa, vì tuổi già khi cơ thể rã rời, vì tai nạn khi
các phần trọng yếu của cơ thể bị hư hại không chữa được. Trong tất cả trường hợp
như vậy, thể sinh lực bị đẩy ra ngoài thân xác chỉ vì thân xác đậm đặc không
còn hoạt động đúng mức, mà không có thể xác thì thể sinh lực không thể sống.
"Vào phút qua đời khi tim ngưng đập, thể sinh lực tỏ ra
rất đỗi sợ hãi và quấn lấy thể tình cảm đang bao quanh con người, vì họ bị đẩy
ra khỏi thân xác lúc cái chết xẩy ra. Thể sinh lực biết rằng thể xác đậm đặc chết
đi có nghĩa là nó cũng chết theo do đó ý muốn tiếp tục sống làm nó đeo theo
tình cảm với hy vọng được sống lâu hơn. Chỉ cần dùng một chút ý chí là linh hồn
có thể gạt bỏ cái vướng víu ấy, bao lâu mà anh chưa làm được vậy thì anh bị kẹt
giữa hai tâm thức, anh không thể hoạt động ở cõi trần được vì đã mất thể xác,
mà cũng không thể sinh hoạt đúng cách ở cõi tình cảm, vì chất ether còn đeo
theo khiến anh không thể nghe hay thấy rõ ràng.
"Ai sợ chết thì khi chết thường không chịu ráng trút bỏ,
dù rằng bạn bè họ gặp bên cõi tình cảm nói cho họ hay, thay vào đó họ níu kéo
chút vật chất còn lại là thể sinh lực, với hy vọng tiếp tục cuộc sống cõi trần
vì ấy là cảnh đời duy nhất mà họ biết. Dĩ nhiên tranh luận không ích lợi gì, bởi
sớm muộn họ cũng phải bỏ thể sinh lực và cố gắng một chút như đã nói. Chống lại
cái không thể tránh được chỉ làm họ kẹt lâu hơn giữa hai cõi một cách không cần
thiết thôi.
"Mặt khác ai có chút hiểu biết về cái chết nhờ học hỏi
tìm tòi trong lúc sống, sẽ lập tức làm cho mình thoát ra khỏi cái vướng víu
này, và khởi sự là 'thường trú nhân' ở cõi tình cảm. Tôi gọi là 'thường trú
nhân' vì bây giờ họ không còn thể xác nữa, và chỉ có thân xác trở lại khi tới
ngày giờ thích hợp cho họ tái sinh và sống ở cõi trần. Bây giờ họ sẽ sống ở cõi
tình cảm cả ngày lẫn đêm. Ngay khi họ vừa cố gắng trút bỏ thể sinh lực thì chất
ether rơi ra ngay và bắt đầu tan rã như thể xác, nhưng trong khi thể xác cần
nhiều năm tháng để tan rã hoàn toàn, thì thể sinh lực vì làm bằng chất liệu
thanh nhẹ hơn nên tan rã gần như tức khắc. Nay không còn vướng bận thể xác nữa,
linh hồn ở trong thể tình cảm và sinh hoạt bằng thể này bao lâu nó còn ở cõi
trung giới.
"Cõi này là thế giới của tình cảm và ảo ảnh, nó gồm chất
liệu thanh bai hơn bất cứ khí nào ta biết và có nhiều mức độ nặng nhẹ khác
nhau. Thể tình cảm là vận cụ của tình cảm, cái sinh ra nhờ sự rung động của chất
liệu ở cõi này. Ai có thông nhãn sẽ thấy tình cảm cao thượng nhờ thương yêu, biết
ơn, không ích kỷ và những tính tương tự là sự rung động của chất liệu thanh
bai, còn tình cảm thấp như tham lam, ganh tị, ghen tuông, yêu một cách ích kỷ
(như si mê), kiêu hãnh.v.v. là sự rung động của vật chất nặng nề hơn. Người ta
khi sống ra sao thì khi chết giống y vậy, chỉ có khác chăng là bây giờ họ không
còn thể xác và những giới hạn của nó. Tánh xấu và tánh tốt của họ vẫn giữ
nguyên nhưng vì thể tình cảm có tính tràn lan, trào dâng, nên các đặc tính con
người thành lực rất tốt hay rất xấu xa.
"Như thế sự đối nghịch chút ít ở cõi trần khi qua cõi
tình cảm biến thành ghét bỏ dữ dội, làm cho cả đôi bên khó chịu, còn tình thân
mến bình thường ở cõi trần gây ra đáp ứng là thương yêu nồng nhiệt, sinh ra bầu
không khí chứa chan hạnh phúc rất lạ lùng. Vì cõi tình cảm là cõi của ảo tưởng,
mọi chuyện không cần đến thì giờ hay sức lực như cõi trần; thức ăn, y phục
.v.v. đều do tư tưởng sinh ra. Cuộc sống ở cõi tình cảm có thể như là chuỗi
ngày nghỉ lễ dài hạn. Ta có thể làm bất cứ điều gì từng mơ ước muốn làm, không
có giới hạn nào ngăn cản ta mở mang kiến thức như không đủ giờ để học, mắt kém,
mệt mỏi, bởi không có gì ở cõi tình cảm làm cho ta bị mệt.
"Trong lúc cơ thể ngủ thì ta sinh hoạt ở cõi trung giới
trong thể tình cảm, gặp ở đó bạn bè thân quyến đã qua đời, thế thì ráng quên những
người ấy lúc ban ngày là chuyện khờ dại vì họ luôn ở quanh chúng ta, cái duy nhất
ngăn cách ta với họ là sự giới hạn tâm thức. Chuyện không may là chỉ có rất ít
người nhớ lại mình làm gì lúc ngủ, nếu ai cũng nhớ thì họ sẽ bớt lo lắng về cái
chết, và ý tưởng đáng sợ về địa ngục lửa cháy đời đời sẽ không còn ảnh hưởng được
ai, giống như ông chằng trong chuyện thần tiên của trẻ con không còn làm người
lớn sợ hãi.
"Rất ít người ý thức rằng ở cõi trần, người trung bình
dành hầu hết thì giờ của mình làm việc trong văn phòng, cửa hàng hay ngoài ruộng,
hay làm nghề mà họ sẽ không chọn nếu không cần phải kiếm tiền để lo ăn, mặc cho
chính họ và gia đình. Có thể đó là điều hay khi có ít người nhận thức chuyện ấy,
bằng không ta sẽ hết sức bất mãn. Tình cảm này sẽ gây trở ngại cho sự tiến hoá
của con người và sinh rắc rối khắp nơi. Chỉ một số nhỏ người có may mắn là làm
việc mà họ ưa thích. Họa sĩ hay nhạc sĩ cho dù được hưởng gia tài vẫn tiếp tục
làm việc vì nói chung, việc làm là một phần của họ và thành niềm vui cho họ.
"Tôi sẽ cho anh một cái nhìn tổng quát về vài cảnh sống
nơi cõi tình cảm. Ai mà trong lúc sống ở cõi trần không nghĩ gì khác hơn là
chuyện buôn bán thì khi qua sống ở cõi trung giới, ban đầu họ thấy chán nhất là
khi họ chỉ thích kiếm tiền. Tiền bạc là món thuần vật chất và hóa vô dụng ở cõi
tình cảm. Người như vậy sẽ phải có sở thích nào đó nếu họ muốn được hạnh phúc
sau khi qua đời. Giả dụ họ thích âm nhạc lúc sống thì sau khi chết họ vẫn thích
nhạc, và có được nhiều cơ hội để thỏa mãn ước ao chưa được thỏa mãn lúc sống.
"Nếu muốn thì người yêu nhạc có thể dành hết thì giờ để
nghe những khúc nhạc hay nhất trên thế giới. Khoảng cách không còn là vấn đề ở
cõi tình cảm, anh có thể lắng nghe một vở nhạc kịch opera ở London, rồi một
phút sau anh thưởng thức một buổi trình diễn khác ở New York hay Úc. Anh có thể
gặp các đại nhạc sĩ thời xưa nếu họ chưa tái sinh, thấy được những hình tư tưởng
vĩ đại do âm nhạc ở cõi trần tạo ra bằng chất liệu thanh bai ở cõi trung giới.
Ngay cả khi còn sống dù không biết chơi nhạc nay anh có thể tưởng tượng và tạo
ra nhạc. Ở cõi trần nhiều người có thể nghĩ ra các đoạn nhạc hay nhưng không diễn
tả được vì thiếu kỹ thuật, khi qua cõi tình cảm thì họ đáng cho ta ước ao, bởi
họ ham muốn việc không cần điều kiện vật chất để thành.
"Với ai ưa thích nghệ thuật thì có sẵn tất cả những tuyệt
tác phẩm chờ họ xem, ở phòng triển lãm hay thuộc bộ sưu tập tư nhân. Nhiều người
thích nghệ thuật hằng mơ ước được tới Rome, hãy thử tưởng tượng những giờ phút
hân hoan mà họ một mình thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật ở đó. Họ có thể gặp
các nghệ sĩ xưa, và anh không nên nghĩ là vì những người này đã chết nên không
còn hứng thú với công việc. Thay vào đó nay họ tạo nên hình tư tưởng mỹ lệ, vì
không còn dùng cọ và vải để vẽ. Vẽ tranh là phương pháp duy nhất để họ biểu lộ
nghệ thuật nơi cõi trần, nhưng sau khi chết thì hình tư tưởng họ tạo ra cũng giống
y như tranh hiển hiện mà còn xinh đẹp hơn bội phần.
"Nhiều họa sĩ nói rằng họ không thỏa mãn với tác phẩm
khi hoàn thành, ngay cả khi thế giới ca ngợi tài năng của họ. Họ thường bảo,
'Phải chi tôi vẽ được trên khung vải giống y như hình tưởng tượng trong đầu,
nhưng chưa bao giờ hình vẽ đúng như ý'. Ở cõi tình cảm hình ảnh tạo ra hoàn
toàn chính xác theo cảm nghĩ của họa sĩ, nên hình tạo ra đẹp hơn những tuyệt
tác phẩm trên thế giới. Ai thích sách cũng sung sướng vì nay họ tới được các
thư viện khắp nơi tha hồ tìm đọc.
"Một thí dụ về việc gì xẩy ra sau khi chết cho người lúc
sống chỉ biết chuyện vật chất cõi trần là như sau. Khi nói vậy tôi không hàm ý
đó là chuyện xấu hay họ có tật xấu, ngược lại họ có thể là người rất nổi tiếng
trong xã hội, luôn luôn có đông bạn bè và ai cũng quí mến họ. Niềm vui của họ
nói chung là sống thoải mái, đi xem kịch, khiêu vũ v.v.. và làm cả ngàn chuyện
ta gọi hành vi của 'người biết sống'. Thường khi đó là một thương gia thành
công, được xem là người chồng gương mẫu, nhưng sao đi nữa cuộc sống của họ gồm
chuyện buôn bán và thú vui đều tùy thuộc vào vật chất cõi trần, chỉ có ở cõi trần
mà thôi. Trong đời ta thấy có nhiều người giống vậy.
"Sau khi chết người thuộc loại này sẽ thấy đời sống ở
cõi trung giới rất là chán, họ không thấy có chuyện gì để làm nơi ấy. Chẳng bao
lâu họ thấy là tạo nên hình tư tưởng của các buổi nhậu nhẹt, hay việc mua bán
phức tạp để giết thì giờ thì không thỏa mãn chút nào, vì không mang lại kết quả
vật chất. Họ không có được sự thỏa mãn của giác quan như hằng có sau một bữa rượu
tiệc ê hề, cho dù họ có thể tưởng tượng và thưởng thức cả món ăn ngon, rượu
ngon quen thuộc. Họ không sao có được cùng cảm giác sau khi uống rượu từng uống
khi sống, dù uống nhiều thế mấy, và hoàn toàn không có cảm giác hài lòng sau một
bữa ăn ở cõi tình cảm, như chuyện hay có sau một bữa ăn ngon miệng cõi trần.
"Họ cũng không thỏa mãn về mặt vật chất khi tưởng tượng
những vụ làm ăn buôn bán thành công, lý do là không thể sử dụng số tiền kiếm được,
bởi ở cõi tình cảm người ta không thể mua hay bán vật. Họ có thể dùng tư tưởng
tạo ra hàng ngàn lượng vàng tùy thích, nhưng để làm gì chứ ? Không làm gì được
cả ! Lúc này họ giống như người bị đắm tàu lạc vào hoang đảo, chung quanh đầy của
cải vô giá nếu mang về được thành thị, nhưng lại không có giá trị chi ở nơi
không có ai mua, và không có vật gì để bán. Người trên hoang đảo có một lợi thế
so với người chết ở cõi trung giới, là còn có thể được cứu và mang của cải châu
báu về nước. Người 'chết' không có được hy vọng như vậy, họ đến cõi này như một
đứa trẻ không có sở hữu nào ngoài kinh nghiệm từ những kiếp trước, được linh hồn
cất giữ mà khi tiến hóa sẽ có thể mang xuống cõi trần.
"Họ cũng không thỏa mãn với các môn thể thao hay chơi
lúc sống. Với ai chơi golf thì họ vẫn có thể tiếp tục chơi ở cõi tình cảm nếu
muốn, nhưng chẳng bao lâu sẽ chán ngay, vì mỗi lần đánh là quả banh chạy ngay
vào lỗ mà họ muốn, lần nào cũng thành công như lần nào không thay đổi, trúng
không sai chạy. Ấy là vì họ tạo ra hình tư tưởng cho điều ao ước, vật chất mềm
dẻo của cõi trung giới lập tức thành hình ngay. Anh dễ dàng tưởng tượng là cuộc
chơi như vậy chán ngấy ra sao, và khác với cõi trần như thế nào nơi mà có ngày
anh chơi rất thiện nghệ mà có ngày thì chơi dở hết sức. Yếu tố không biết trước
được làm cuộc chơi hấp dẫn và nó không còn nơi cõi tình cảm.
"Nay xét tới người mà cả đời được dạy là ai không toàn
thiện thì bị phạt vào địa ngục lửa cháy đời đời. Sau khi chết họ khó mà vứt bỏ
những tư tưởng ấy và nó làm họ khổ sở, họ tiếp tục bị dằn vặt với tư tưởng là
đã bị gạt, cho dù ta bảo đảm với họ rằng điều tin tưởng đó không đúng thật. Chỉ
khi nào họ loại bỏ chúng thì mới được ổn định trong đời sống mới nơi có nhiều
điều để học, để xem.
"Người khác thì đau khổ bởi khi từ cõi cao nhìn lại cuộc
đời ở cõi trần, họ thấy mình đã bỏ lỡ nhiều cơ hội và nhận thức này gây ra phản
ứng khác nhau. Có người hối hận, kẻ khác hiểu biết hơn sẽ quyết định không bỏ
qua cơ hội khi tái sinh. Ta cũng có thể gặp được người khi sống phải nuôi vợ và
nhiều con, có thể họ không để lại tài sản chi và lo lắng gia đình sẽ sống ra
sao khi họ chết. Đó là chuyện rất tự nhiên nhưng cũng mất thì giờ vô ích. Một
khi đã chết họ không còn trách nhiệm chi ở cõi trần, và lo lắng không giúp đỡ
thực tế gì cho người sống mà còn làm họ rầu rĩ nhiều thêm. Họ khiến người còn sống
đau khổ hơn thay vì làm nhẹ gánh cho gia đình, và giải quyết cho vấn đề chỉ có
được khi họ ý thức rằng người sống là linh hồn riêng biệt, đang trang trải nhân
quả của mỗi người, và biết đâu các khó khăn mà gia đình đang trải qua là cơ hội
trả bớt phần nào nhân quả bắt buộc phải hóa giải trong kiếp hiện tại.
"Có những người luôn luôn tự gây khó khăn cho mình vì lo
lắng chuyện nằm ngoài tầm kiểm soát, hay bi quan về tương lai, tin là việc tệ hại
nhất sẽ xảy ra. Sau khi chết người như vậy không thay đổi gì cả, họ tiếp tục rầu
rĩ và tuôn ra sự lo âu ở bất cứ nơi nào họ tới. Điều không may là những ai như
thế tiếp tục kết thành nhóm với nhau như ở cõi trần, vẫn tin chuyện trước đây họ
đã tin cho dù có sự thực ngược lại phơi bày trước mắt. Không sớm thì muộn họ sẽ
được người giúp đỡ làm cho tỉnh ngộ, có nhiều người luôn luôn tìm cơ hội để trợ
giúp những trường hợp đáng buồn như vậy và phải tìm cách trám vào chỗ trống; và
niềm tin sai lạc cần thay bằng cái khác hợp lý hơn, làm thoải mái hơn và giải
thích được không những hiện tại mà luôn cả quá khứ, tương lai.
"Đừng bao giờ gạt bỏ một tư tưởng chỉ vì nó xa lạ với
anh, mà nên lắng nghe mọi mặt của câu hỏi và tự kết luận riêng cho mình. Trí óc
anh có thể tạm thời bị xáo trộn nhưng khi sự xáo trộn qua đi, anh có thể thấy
được cái Ánh Sáng giúp anh đặt chân trên con đường mà cuối cùng dẫn tới Hiểu Biết,
tới Minh Triết của người Toàn Thiện. Hãy gạt bỏ ý niệm về thưởng và phạt, vì
không có phần thưởng hay sự trừng phạt mà chỉ có hệ quả, nhân và quả, cũng như
Luật thi hành một cách công minh ở cõi cao cũng như ở cõi trần.
"Ta sống ở cõi trần ra sao thì chết ở bên kia ta cũng sẽ
là con người y như vậy, cuộc sống của ta tùy thuộc vào tư tưởng mà ta phát ra ở
cõi trần, vậy ta hãy quan tâm đến những chuyện cao hơn như khoa hoc, nghệ thuật,
âm nhạc, văn chương và sự mỹ lệ của thiên nhiên, có nghĩa bất cứ điều gì không
thuần vật chất. Trong cảnh giới mới ta sẽ có đời sống hạnh phúc hơn, gặp được
những cơ hội mà nếu không chuẩn bị trước ở cõi trần thì chúng trở thành vô dụng."