CHƯƠNG CHÍN
Tối qua tôi ngủ thật ngon giấc, sáng dậy tôi thức vào giờ thường
lệ hết sức tươi tỉnh, nhưng không nhớ lại chút gì chuyện đã xẩy ra trong đêm. Bản
câu hỏi của tôi đã sẵn sàng, và tôi mong Acharya sẽ thấy nó không dài cho lắm.
Tôi đang đọc lại những câu hỏi của mình thì cửa mở và Acharya
chào tôi.
– Anh không cần phải xin lỗi về số câu hỏi của anh. Tôi có cản
anh đừng hỏi nhiều vì tôi biết là lắm chuyện sẽ trở nên sáng tỏ khi anh có kinh
nghiệm riêng ở cõi tình cảm, và ngắt lời quá nhiều thì không có ích gì cho người
nói lẫn người nghe. Tôi sẽ cố gắng hết sức để trả lời thắc mắc, dùng chữ sao
cho giải thích rõ ràng những khó khăn của anh.
Hỏi (H): Trong những lần nói chuyện, thầy không đề cập chút
gì tới quan niệm thông thường về Thiên đàng mà đại đa số người theo Thiên Chúa
giáo được dạy nên ước ao. Có chỗ nào như vậy không, hay nó chỉ hiện hữu trong
trí tưởng tượng của linh mục, mục sư thuộc giáo phái khăng khăng nói rằng có
nơi như thế ?
Đáp (Đ): Hoàn toàn không có nơi nào là Thiên đàng, mà có trạng
thái tâm thức thường được ai ở trong tâm trạng ấy cho là Thiên đàng. Người thì
nói rằng trạng thái tâm thức ấy gặp ở những cảnh cao của cõi tình cảm. Người
khác thì nhất quyết rằng nó chỉ gặp ở cõi trí mà thôi. Có người bảo thiên đàng
và cõi trời khác nhau. Thiên đàng (Paradise) là chữ của người Hy Lạp chỉ những
cảnh giới cao của cõi tình cảm, còn cõi trời (Heaven) thì họ dạy rằng nằm ở cõi
trí, sau khi con người đã rời cõi trung giới quay trở về nhà của chân nhân hay
linh hồn. Ở những cảnh cao đó người ta bao quanh mình bằng hình tư tưởng của
các thiên thần, có đẳng cấp y theo kinh sách xưa của Do Thái giáo. Họ thấy hình
như thật, mà thực ra chuyện chẳng hại ai nếu họ tin đó là thật, vậy cải chính với
họ để làm gì ? Nhiều kẻ còn tạo ra hình tư tưởng của thượng đế hay thánh Peter,
và anh có nói gì đi nữa cũng không thuyết phục được họ là đang sống trong ảo ảnh.
Rồi sẽ có ngày họ phát triển trí tuệ hơn một chút, khi đó họ sẽ bắt đầu tìm
cách phân biệt cái gì là sự kiện thật và cái gì là ảo ảnh. Tôi để ý là tuy anh
hỏi về thiên đàng theo quan niệm thông thường, nhưng anh không đề cập tới Địa
Ngục theo niềm tin của dân gian. Lẽ tự nhiên là không có địa ngục cũng như
không có thiên đàng. Thường thường người ta không thấy ai ở cõi trung giới tạo
ra hình tư tưởng của địa ngục và sống trong cảnh ấy, vì người ta tự xét mình
khe khắt thế mấy cũng không cho rằng Địa Ngục là chỗ đúng cho họ. Đa số ai sống
trong hình tư tưởng của họ về Thiên Đàng theo nghĩa thông thường, cảm thấy rất
hạnh phúc vì nghĩ rằng họ xứng đáng được ở trong cảnh đó, hoặc cho rằng mình hết
sức may mắn ở được chỗ mà không chắc là đủ tiêu chuẩn để được nhận vào. Cảnh
thiên đàng theo nghĩa dân gian hiểu và do người ở cõi trí tạo ra thì khác hẳn,
tuy nó có cùng mục đích cho ai liên hệ.
H: Trong bài nói chuyện kỳ thứ ba, thầy cho hay sẽ giải thích
sự khác biệt giữa cuộc sống của thú vật ở cõi trung giới và của người ở đó. Nó
khác nhau ra sao?
Đ: Có sự khác biệt rất đáng kể giữa cuộc sống của thú vật và
của người nơi cảnh ấy. Nói về thú thì nó ít khi ở cảnh cao hơn cảnh thứ ba (từ
dưới đếm lên), vì cuộc sống của người ở những cảnh cao không thú vị mấy cho con
thú, và chỉ trong trường hợp ngoại lệ ta mới thấy có người mang theo với mình
con thú họ thương đặc biệt, khi họ tiến sang những cảnh cao hơn.
Khi qua đời ở cõi trần, con thú sẽ nghỉ ngơi một lúc ngắn ở
cõi trung giới, thường lâu nhất là 10– 15 năm. Tới ngày giờ cho hồn khóm đi tái
sinh, cái thực thể tâm linh mà con vật thuộc về, những thú vật có tính chất
riêng và sống riêng biệt nhau ở cõi tình cảm được thu hút trở vào hồn khóm, cá
tính riêng của chúng lập tức không còn nữa. Kinh nghiệm của những sinh vật làm
nhuộm màu hồn khóm, sinh lực của hồn khóm phân chia trở lại thành nhiều phần, mỗi
phần trụ vào thân xác mới của các con vật học hỏi thêm kinh nghiệm. Như tôi đã
giải thích trước đây, sự việc tái tục mãi cho tới lúc hồn khóm sẵn sàng cá nhân
hóa, thoát kiếp thú thành người.
Con thú luôn luôn sống hạnh phúc trong những năm sống ở cõi
tình cảm, ngay cả với trường hợp rất hiếm như khi con chó chết vì đau khổ do chủ
đem nó cho người khác, hay bỏ nó lại với người lạ khi họ phải đi xa; con vật
như thế mau lẹ tìm được gia đình khác nhận nó. Ở cõi tình cảm anh không hề thấy
con chó nào xin ăn, trong khi anh đã chứng kiến nhiều người tiếp tục ăn uống
sau khi chết, chỉ vì con người tạo thói quen như vậy. Chó hay mèo chỉ ăn khi
đói mà ít khi ăn vì ham ăn ham uống. Sang cõi trung giới nó không đói nữa nên
không bao giờ xin ăn. Chó săn khi còn sống được huấn luyện đi săn do đó sau khi
chết nó tiếp tục làm thế. Bản năng của nó là tìm con mồi, sự tìm kiếm chính là
hình tư tưởng nên con mồi hiện ra ngay và con chó lập tức cong đuôi phóng người
rượt. Bắt được mồi hay không chẳng quan trọng cho lắm, vì con mồi chỉ là hình
tư tưởng và không thể bị giết chết như kiểu suy nghĩ bình thường nhưng con chó
thỏa thích với việc săn đuổi và tiếp tục sống đời hạnh phúc.
Con ngựa lúc sống từng là con thú cưng của ai thích ngựa sẽ
mau lẹ có được chủ khác cũng thích ngựa, và việc thường lệ là cỡi ngựa dạo chơi
hay đua nay diễn ra mang lại lợi ích và niềm vuia cho cả người và ngựa. Trong
vài trường hợp khi con ngựa cưng chết đi, người chủ ở cõi trần nghĩ tới con vật
tha thiết vào ban đêm lúc họ đi ngủ. Con vật cảm được 'lời kêu gọi' ấy và đôi
khi có thể tiếp xúc lại với chủ, ở bên cạnh họ vài giờ. Tuy vậy đó không phải
là việc nên làm vì ngựa hay chó cảm được sự mất chủ khi người này trở về xác
thân của họ, lúc giấc ngủ đã xong. Thành ra nếu thương con vật thì tốt hơn nên
để nó quấn quít chủ mới ở bên kia.
Vài trường hợp hiếm có là tình thương giữa người và vật quá mạnh
mẽ tới mức hồn khóm mà con vật là một phần, lại ràng buộc với người này. Nó chỉ
xẩy ra vào giai đoạn cuối của hồn khóm, lúc chỉ còn hai linh hồn trong đó chờ tới
lúc cá nhân hóa thành người. Vì người ấy đã làm quá nhiều cho hồn khóm, bằng
cách giúp con vật ràng buộc vào họ xóa sạch được dấu vết của lòng sợ hãi, trọn
hồn khóm gồm hai con chó hay hai con mèo thí dụ vậy, trong hai hay ba kiếp liên
tục sẽ tái sinh vào cùng một gia đình. Theo cách đó khi việc cá nhân hoá thành
người xẩy ra nó được thu ngắn rất đáng kể. Tôi có thể kể vài thí dụ là chuyện
thật thuộc loại này cho anh nghe, nhưng tôi không có nhiều giờ.
Thời gian con thú ở cõi tình cảm thì quá ngắn, khiến cho những
điều kiện nơi đây không ảnh hưởng sâu đậm sự tiến hóa của hồn khóm, nên khi hết
ngày giờ con thú biến mất khỏi nhà mà nó tự ràng buộc vào, quay trở về hồn khóm
để tái sinh nơi cõi trần học thêm kinh nghiệm.
H. Tại sao Charles không tiếp xúc với chúng ta trong cuộc du
hành sang cõi tình cảm lần thứ hai ? Có
phải là hắn không còn quan tâm đến tôi, vì cuộc sống mới của hắn nay rất khác
biệt và hứng thú hơn cuộc sống cõi trần, hay vì hắn không thể nhập bọn với ta nếu
không được thầy giúp ?
Đ. Tôi rất mừng là anh đã nêu những thắc mắc này, dù rằng tôi
phải mất thì giờ để giải thích điều anh muốn biết, chuyện cần nhất là anh phải
hiểu rõ ràng tại sao cơ hội di chuyển ở cõi trung giới lại thay đổi khác nhau,
giữa khách đi chơi qua đó và thường trú nhân nơi đây.
Khi người ta sống ở cõi trần thì thể tình cảm là thể phụ, được
anh dùng trong lúc ngủ để sinh hoạt ở cõi trung giới. Thể ấy làm bằng vật chất
tình cảm, có những hạt tương ứng với những cảnh khác nhau của cõi này, và bao
lâu mà anh còn thể xác thì các hạt này trộn lẫn cái nọ với cái kia. Anh có thể
đi lên bất cứ cảnh cao hay xuống cảnh thấp nào của cõi này chỉ bằng cách sử dụng
ý chí, và tùy theo cảnh mà anh đến, những hạt trong thể tình cảm của anh trở
thành linh động làm anh đi được tới lui như thế.
Nói cho thật rõ thì khi anh ở cảnh thứ nhất (từ dưới đếm
lên), hạt tương ứng với cảnh ấy linh hoạt vào lúc đó, nhưng thí dụ là anh đi từ
cảnh thứ nhất lên cảnh thứ tư, có nghĩa là nay những hạt thuộc cảnh thứ tư trở
nên linh hoạt còn hạt thuộc mấy cảnh khác ở trong tình trạng lặng yên, bao lâu
mà sinh hoạt của anh diễn ra ở cảnh thứ tư.
Trong lúc anh còn thân xác vật chất thì sự việc diễn ra như
thế, nhưng khi anh qua đời bỏ lại thể xác thì thể tình cảm, trước kia là một khối
gồm những hạt di động không ngừng xen kẽ với nhau, nay xếp đặt thành hình khác
hẳn. Để anh hiểu được trọn vẹn chuyện này, thử tưởng tượng thể tình cảm sau khi
chết như một hình bầu dục, tựa như quả cam có tâm ở giữa và bẩy lớp vỏ riêng biệt
phân cách nhau bao quanh tâm ấy. Bẩy lớp vỏ gồm vật chất tương ứng với bẩy cảnh
khác nhau ở cõi trung giới mà nay anh đã biết đôi điều. Vào lúc qua đời, thể
tình cảm xếp đặt lại phần vật chất tạo nên thể, khiến cho lớp vỏ ngoài cùng là
phần đậm đặc nhất, làm bằng những nguyên tử tương tự với những hạt mà anh cần để
sinh hoạt ở cảnh thứ nhất, tức cảnh đậm đặc nhất của cõi ấy.
Sau một thời gian anh rời cảnh thứ nhất đi qua cảnh thứ hai,
bỏ lại lớp vỏ ngoài đó khiến cho những hạt nguyên tử tương ứng với cảnh thứ hai
trở nên linh hoạt, và trở thành lớp vỏ ngoài cùng của thể tình cảm của anh. Và
chuyện cứ thế tiếp diễn khi anh đi qua những cảnh cao hơn, mỗi lần đổi cảnh thì
lớp vỏ ngoài rớt đi làm lộ ra lớp vỏ bên dưới, khiến nó linh hoạt cho phép anh
có ý thức hoàn toàn ở cảnh này.
Nếu bây giờ muốn đi xuống dưới trở lại, thí dụ từ cảnh thứ tư
xuống cảnh thứ nhất, người cư ngụ thường trực ở đó phải dùng những hạt nguyên tử
nằm trong tâm của trái cam, tức hạt nguyên tử trường tồn, để thực hiện sự thay
đổi này. Nó đòi hỏi nỗ lực ý chí lớn lao hơn so với trường hợp của người sống,
tạm thời là du khách qua cõi tình cảm, vì người đã khuất phải thu hút để tạo một
lớp vỏ mới bao quanh thể tình cảm của mình, tương ứng với vật chất tình cảm ở cảnh
mà họ muốn sinh hoạt.
Charles không đi với chúng ta trong lần du hành thứ hai sang
cõi trung giới vì tôi không mời hắn nên hắn không biết là có dự định để đi. Nay
anh có thể nhìn ra là nếu chúng ta có Charles đi cùng trong buổi du hành ấy,
tôi sẽ cần phải giải thích chi tiết với hắn về cách thức phải làm để cho phép hắn
trở lại cảnh thứ nhất là chỗ hắn đang sống. Không phải vì Charles bận rộn với đời
sống ở cõi trung giới mà anh không gặp lại em trong mấy ngày qua, mà giản dị là
người trung bình sống ở cõi tình cảm không náo nức muốn liên lạc với người cõi
trần, không giống như anh muốn lập tức tiếp xúc với Charles sau khi hắn tử trận.
Anh hỏi là Charles có thể tới nhập bọn với chúng ta mà không
cần giúp đỡ ? Chắc chắn là hắn làm được, miễn là hắn nghĩ đến chúng ta đủ mạnh,
làm cho ta biết ước muốn của hắn. Thí dụ hắn có thể chờ trong phòng ngủ của anh
mỗi tối nếu muốn, tới lúc anh ngủ và thoát ra khỏi thể xác; khi đó hắn có thể
cho anh hay là muốn theo bất cứ chỗ nào mà anh đi. Anh chàng không tỏ ao ước mạnh
mẽ ấy nên gần đây anh không gặp lại hắn. Còn nếu anh lo ngại thì xin trấn an rằng
vào lúc này Charles đang bận rộn với một người khác phái vừa qua đời; hắn rất
vui thích chỉ dẫn cô về đời sống mới chung quanh cô, tỏ cho cô thấy hắn biết
nhiều về cảnh sống bên này ra sao. Tôi đề nghị anh để hắn yên một thời gian, vì
về sau tôi nghĩ anh sẽ liên lạc trở lại với hắn, có lợi cho cả hai người.
H. Thầy chưa nói gì về việc tại sao có người sinh ra tàn tật,
khiếm thị, câm điếc. Có lý do nào chăng ?
Đ. Chắc chắn là có lý do và nói đôi điều về luật Karma hay
nhân quả sẽ trả lời thắc mắc của anh. Chuyện thiết yếu anh cần nhớ thật rõ
trong trí là tất cả những điều bi thảm ấy hoàn toàn là do người liên hệ tạo ra,
do hành động của họ trong những kiếp trước mà không do một Hóa Công độc ác nào
thích chứng kiến con người bị đau khổ.
Trẻ nhỏ sinh ra bị tàn tật vì trong một kiếp trước, họ là
nguyên nhân gây nên đau khổ tột cùng cho người khác hay con vật khác. Người say
mèm vì rượu có thể đánh đập tàn nhẫn một đứa trẻ, làm thể xác bị tật mà y khoa
không chữa được; điều ấy không nghi ngờ gì sẽ khiến họ sinh ra tàn tật ở kiếp
sau, bắt buộc phải bị đau khổ theo cùng một cách. Người sinh ra bị câm và điếc
thường khi do ở kiếp trước, họ là cha mẹ của trẻ câm điếc nhưng thay vì tạo cảnh
gia đình vui vẻ cho con, cha mẹ lại tỏ ra thất vọng là có con khác thường, trút
sự bực bội lên trẻ mà em không thể chống đỡ làm cuộc sống của em hóa tệ hơn.
Ngay cả người tiến hoá xa biết lý do trẻ sinh ra câm điếc hay
bất bình thường về bất cứ mặt nào, thường khi không nhận thức rằng có con khác
thường là một cơ hội vô cùng tốt đẹp để họ tạo nên karma tốt, bằng cách đối đãi
con với nhiều thiện cảm và hiểu biết. Anh có thể nói rằng ngày nay rất khác với
công lý đời xưa, nhưng các hành động không suy nghĩ trong kiếp trước của ta phải
được trang trải, ngay cả khi ở những kiếp đã qua con người ít nhậy cảm với sự
đau đớn hơn là so với ngày nay, và quen với cách đối xử tàn tệ hơn. Đừng quên rằng
dụng ý là quyết định mức đau khổ.
Nhân quả cũng xẩy ra tương tự đối với sự tàn nhẫn về tình cảm
và trí tuệ. Chuyện rất hay thấy là bà mẹ nay là quả phụ, gây cản trở không cho
con trai thành hôn, chỉ vì bà ích kỷ muốn giữ con lại trong nhà. Cha / mẹ biện
luận rằng lập gia đình sẽ tạo nên chuyện bất lợi hay làm gia đình mất bớt lợi tức,
hay họ quá đau yếu không thể sống một mình. Thế nên con trai /con gái cảm thấy
có bổn phận, bỏ qua cơ hội có cuộc hôn nhân hạnh phúc và dành cả đời quên mình
để chăm sóc cho mẹ/cha ích kỷ, trong khi những người khác đều thấy ngay ra điều
này.
Kết quả của lòng ích kỷ đó là để cho công bình, nếu trong kiếp
tương lai thiếu phụ này cảm thấy thương yêu ai thì người ấy qua đời, vì lý do
này hay kia trước khi có cuộc hôn nhân. Sau nhiều năm cô lành vết thương lòng,
gặp người khác thương yêu mình và xem ra không có lý do nào để chuyện không diễn
tiến tốt đẹp, nhưng số mạng có thể can thiệp lần nữa với kết quả là một bên
trong lứa đôi mắc bệnh nan y khiến cho hôn nhân không thành. Vì người đời không
biết lý do nằm đằng sau chuyện xẩy ra, họ tin rằng kẻ trong cuộc là trò chơi của
con Tạo nhẫn tâm, nhưng nó không phải vậy, vì anh không thể bị đau khổ trừ phi
chính anh đã sinh ra nguyên nhân của đau khổ đó.
H. Tại sao có người sinh ra dưới 'ngôi sao tốt' có tiền bạc
dư thừa, sức khoẻ đầy đủ và mọi điều xem ra là lợi thế, còn người khác sinh ra
trong khu ổ chuột, không có lợi thế tự nhiên nào, và đôi khi mắc bệnh do cha mẹ
truyền sang ?
Đ. Môi trường mà mỗi người sinh ra là do họ tự tạo cho mình
trong một kiếp trước, cũng theo luật nhân quả. Khi một ai sinh ra dưới 'ngôi
sao tốt' như anh mô tả, có nhiều tiền và sức khỏe tuyệt hảo, tự nhiên là người
đời xem họ đúng là được Trời thương, nhưng cơ hội có một đời sống dễ dàng chỉ đến
với ai đáng được hưởng như vậy. Người sinh ra trong ổ chuột bị thua kém nhiều bề
và có lẽ còn mắc bệnh di truyền bị xem là thiếu may mắn, nhưng tôi có thể bảo đảm
với anh rằng người sau cũng nhận lãnh điều họ đã gieo.
Muốn xem thí dụ ai có quyền được sinh ra dưới ngôi sao tốt
anh chỉ cần nhìn vào người nghèo trên thế giới để thấy trường hợp điển hình. Đã
bao nhiêu lần anh thấy cảnh một người không có nhiều tiền của mà tỏ lòng rộng
rãi, cố gắng giúp người khác kém may mắn hơn họ ? Cảnh hay xẩy ra là lắm khi họ
bị người thiếu lương tâm lợi dụng. Hành động rộng rãi của người như vậy khiến họ
được sinh ra trong điều kiện tương lai hết sức khác biệt, và ít khi họ mất cơ hội
do tiền của dư dả tạo ra, vì họ tiếp tục giúp người đồng loại như đã làm trong
quá khứ, mang lại lợi ích cho chính mình và thế giới. Nếu những cơ hội này bị bỏ
qua không dùng, con người tạo nhân quả xấu thay vì tốt và để họ sinh ra vào cảnh
ít thuận lợi theo quan điểm của người thường thì hay hơn.
Sinh ra trong cảnh nghèo hèn không nhất thiết là bị kém may mắn
lớn lao. Trong những trường hợp ấy, họ có cơ hội vượt qua những giới hạn của
môi trường họ sinh ra bằng chính nỗ lực của mình. Ta hay thấy người như vậy khắc
phục được trở ngại của hoàn cảnh và lớn lên thành đạt, ngay cả thành nhà lãnh đạo
thế hệ của họ. Phải có can đảm mới làm được thế, nhưng nỗ lực thực hiện chẳng
những cải thiện tâm tánh của họ, mà còn cho phép họ tạo nên nhân quả tốt trong
kiếp đó. Sự gắng sức và việc họ từ chối không để cho các giới hạn tự nhiên cản
đường mình, thường bảo đảm rằng trong kiếp sau môi trường của họ cải thiện nhiều
lần hơn.
H. Thầy có thể giải thích tại sao có giống dân da mầu và giống
khác da trắng ? Có phải người da trắng luôn luôn là người tiến hóa hơn ai da mầu
? Hôn nhân dị chủng có phải là điều tốt ? Ai đã là người da trắng thì có bao giờ
sinh làm người da mầu không ?
Đ. Theo quan điểm huyền bí thì không có lý do gì để nói là
người da trắng nhất thiết tốt hơn người da mầu. Mầu da của một người không nói
lên mức tiến hóa của họ, mà thường là do yếu tố khí hậu trong nước mà họ sinh
ra. Việc sinh vào một quốc gia nào thường được quyết định cho họ, tuy rằng chân
nhân được chọn lựa phần nào. Trước khi bắt đầu việc tái sinh nơi cõi trần, chân
nhân được cho thấy những đặc tính mà nó thiếu, và bởi mỗi quốc gia có các đặc
tính riêng của chúng, điều trên thực tế biểu lộ ra trong tất cả công dân của nước
ấy, chân nhân thường sinh vào gia đình trong nước có những đức tính và tính chất
tiềm tàng mà linh hồn còn thiếu, để các điều này được tạo ra trong bản tính
tương lai của nó.
Mấy chục ngàn năm về trước người trên mặt đất có da mầu. Tuy
ngày nay Úc châu là nước da trắng nhưng người thổ dân tại Úc lại là người da
đen. Ở Nam Phi người sinh sống ban đầu nơi đó là người da mầu, và tuy một số lớn
vẫn còn sống nơi ấy. Nam Phi hiện giờ (trong thập niên 1940) do người da trắng
kiểm soát. Tất cả chúng ta trong những kiếp trước đều sinh ra làm người da mầu.
Khi văn minh tiến triển, những quốc gia nay là phương tây có người đến cư ngụ
và để cho các nước ấy phát triển càng mau càng tốt, những đấng cao cả trông coi
vận mạng các quốc gia đã dàn xếp cho một số linh hồn tiến hóa trên thế giới,
sinh làm con cái của những người tiền phong cư ngụ ở các nước tây phương.
Bởi khí hậu tại các nước này thường lạnh hơn khí hậu các nuớc
đông phương nói chung, mặt trời có ít ảnh hưởng hơn trên da của con người, với
kết quả là giống da trắng sinh ra. Tiến bộ ngày nay phần lớn phát xuất từ các
nước tây phương, vì điều ấy việc nên có là những người kinh nghiệm nhất trên thế
giới, các linh hồn già dặn, sinh ra trong cơ thể của người tây phương. Anh quốc
từng là nước thống lĩnh trong các thế kỷ qua, do đó nhận được số linh hồn xứng
đáng với phần của nó, nhưng nay Hoa Kỳ đang nhận lấy trách nhiệm đi với vị trí
khó khăn ấy. Chắc chắn không phải vì tình cờ mà một ai được quyết định sinh ra
làm người Anh, Mỹ, Đức hay Trung Hoa.
Hiển nhiên anh thấy là tất cả người da trắng không phải đều
tiến hóa hơn tất cả người da mầu. Mỗi quốc gia trên thế giới cần có một số linh
hồn đã tiến hóa cao và có kinh nghiệm hướng dẫn nó, giúp sự tiến hóa của nó, thế
nên luôn luôn có một số linh hồn già dặn sinh trong mỗi quốc gia. Nói như vậy tôi
không muốn hàm ý rằng có linh hồn già dặn sinh ra với thân xác là người thổ dân
của Úc châu. Điều này không thể nào xảy ra vì họ không phải là một quốc gia mà
là một giống dân đang tàn lụi dần, thế nên những ai sinh ra với thể xác ấy là
người nguyên thủy thuộc về giống dân đó, nhưng không tiến kịp hay tiến xa bằng
những người cũng ban sơ thuộc cùng giống dân mà đã tiến sang những giống khác từ
lâu.
Hãy so trường hợp đó với Ấn Độ, trong nước này anh thấy có hằng
triệu linh hồn chưa tiến hóa, mà anh cũng thấy một số lớn người trí thức tiến bộ
và nhiều người hết sức thiên về mặt tinh thần. Ấn luôn là nước mà dân chúng
quan tâm rất mực về việc phát triển tâm linh. Hãy tin tôi, nước này có một nền
văn hóa lâu đời và nó cũng sẽ đóng một vai trò lớn lao cho sự tiến bộ của thế
giới trong nhiều thế kỷ về sau. Chuyện rõ ràng là một nước như thế cần có những
linh hồn sinh ra với nó có khả năng hướng dẫn vận mạng của hằng triệu người
khác để trong tương lai có thể thực hiện vai trò nó được giao phó.
Về câu hỏi người thuộc sắc dân khác nhau có nên thành hôn thì
khó mà trả lời. Đôi khi chuyện xẩy ra là người sinh vào những quốc gia khác biệt
có liên hệ với nhau ở những kiếp trước, thí dụ như hôn nhân. Khi họ gặp lại
trong kiếp này như là người thuộc hai nước riêng rẽ, sự thu hút mang họ lại với
nhau ở kiếp trước có thể vẫn mạnh mẽ như xưa. Trong một số trường hợp thành hôn
với nhau lần nữa có thể là điều lợi cho họ; chỉ bằng cách xem xét kinh nghiệm
quá khứ riêng của mỗi người mới cho ra ý kiến có giá trị. Tôi nghĩ rằng thường
thường người da trắng và người da mầu không nên thành hôn với nhau, vì thói
quen và văn hóa của các giống dân khác lạ khó mà hoà hợp tốt đẹp, vì vậy cuộc
hôn nhân dị chủng diễn ra không thuận lợi cho cả đôi bên. Kết quả có thể là
sinh ra con hai giòng máu và ai cũng thấy là trẻ như thế bị bất lợi.
Ai sinh ra làm người da trắng không nhất thiết kiếp sau cũng
làm người da trắng trở lại. Đây cũng là việc do nhân quả mà ra, và có nhiều yếu
tố chi phối nên không có câu trả lời tổng quát cho thắc mắc này. Trong trường hợp
người da trắng nghĩ rằng mình cao hơn, và bóc lột người khác chỉ vì kẻ sau là
người da mầu, thì luật nhân quả sẽ tác động. Có thể họ bị sinh làm người da mầu
trong kiếp tới, hầu cho họ học được bài học khoan hòa và thông cảm, đặc tính mà
họ thiếu sót thấy rõ trong kiếp qua.
H. Thầy không nói về chuyện gì xẩy ra cho người tự tử. Đó có
phải là tội phạm lớn lao không ?
Đ. Việc chấm dứt đời mình không những là tội phạm mà còn là
hành vi hết sức điên rồ. Anh không giải quyết những khó khăn của mình bằng cách
chạy trốn chúng, làm vậy chỉ là trì hoãn việc giải quyết sang kiếp tới. Người
ta có thể biện luận rằng hoàn cảnh mà họ phải đối đầu là nguyên nhân khiến họ
đi tìm cái chết, trong khi những hoàn cảnh ấy được xem là cần thiết cho sự tiến
hóa của họ, và họ phải trải qua chúng chẳng sớm thì muộn.
Cũng y như đứa trẻ trốn học ở trường sẽ phải học lại lớp thấp
thêm một học kỳ, cho tới lúc trẻ ý thức được rằng muốn lên lớp cao hơn ít nhất
em phải có điểm tối thiểu của mọi môn học, khi ai tự tử trở lại cõi trần vào kiếp
tới, một loạt nhiều cảnh ngộ sẽ hiện trở lại tạo ra các rối rắm và khó khăn y hệt
mà họ đã trốn chạy khi xưa. Nay họ phải đối đầu và vượt qua chúng vì nếu bỏ chạy
lần nữa, họ chỉ làm đình trệ cuộc tiến hóa của chính mình, bao lâu chưa trực diện
và khắc phục những trở ngại này và nhờ vậy học được bài học mà khó khăn muốn dạy,
thì họ không tiến bước chút nào trên đường tới sự toàn thiện.
Tự tử thường dẫn tới lòng hối hận tột cùng sau đó, và chỉ
trong một thời gian rất ngắn sau khi sang cõi tình cảm, nỗi ao ước trên hết của
đa số người tử tử là sửa được hành động của mình và sống trở lại. Chuyện không
may là họ không thể trở về cõi trần mà phải chờ cho tới lúc tái sinh, họ cũng
được cho biết rất rõ là bất kể kiếp tới ra sao, họ sẽ phải gặp trở lại những
khó khăn y hệt như vậy lần nữa.
Vì người ta bị đau khổ do hối hận cực độ và vì thế họ sẽ làm
bất cứ cái gì để nhập vào thể xác trở lại, ngay cả khi điều ấy có nghĩa là phải
đối đầu với hậu quả, người tự tử thường từ chối không chịu có nỗ lực ý chí cần
thiết để thải ra thể sinh lực, là thể mà anh nhớ là thấy quấn chung quanh thể
tình cảm vào lúc qua đời. Do sự bám víu này của thể sinh lực, người trần gian gọi
họ là vong linh 'vất vưởng' chưa siêu thoát (earthbound), bao lâu mà họ còn
khăng khăng từ chối không chịu bỏ thể sinh lực.
Bởi họ tự tử nên không được người cứu trợ vô hình thông cảm
và giúp đỡ, như anh thấy tất cả ai qua đời theo cách bình thường đều được trợ
giúp với lòng xả kỷ. Vì vậy họ tiếp tục bị vật vờ bởi không hiểu biết, không thể
sinh hoạt đúng mức ở cõi trần cũng như cõi trung giới, cảm thấy cô đơn vô kể là
cái tâm tình sinh ra trong trạng thái đó. Sau một thời gian dài như vô tận, nhờ
thay đổi tư tưởng họ sẽ thu hút được người tới giúp đỡ, để sau đó có thể bắt đầu
cuộc sống ở cõi tình cảm.
Đôi khi tình trạng hết sức khó chịu trong tình cảnh lưng chừng
đó, làm con người chán ghét cùng cực Thượng đế và nhân loại nói chung, nên họ
vơ vẩn quanh nơi đã tự tử, và tìm cách thúc giục người khác cũng tự hủy mình giống
vậy. Lý do của hành động này là sự cô đơn kinh khủng trong cảnh sống hiện giờ của
họ, họ cảm thấy là nếu xúi giục được người khác làm điều mà mình đã làm, họ sẽ
không hoàn toàn cô đơn trong cảnh thê thảm của mình. Trong những trường hợp rất
hiếm, họ thành công với nỗ lực ấy, và nhân quả của việc làm đó là họ phải chịu
đau khổ lớn lao ở kiếp sau. Tự tử không bao giờ là sự thoát nạn mà chỉ là việc
đình hoãn, và không một cảnh ngộ nào trên đời lại tệ hại đến mức người ta phải
dùng cách ấy để trốn tránh nó.
H. Nếu có Thượng đế hay thần thánh quản trị đời người thì tại
sao ngài lại cho phép có chiến tranh, nhất là khi đa số nhân loại mong muốn có
hòa bình ?
Đ. Sao anh cho rằng chiến tranh là do Thượng đế sinh ra, hay
cho phép xẩy ra ? Chắc chắn chiến tranh là kết quả của hành vi con người cũng
như khuynh hướng hung bạo của họ. Chiến tranh sẽ còn hoài bao lâu mà còn những
quốc gia phân biệt trên thế giới, và một số quốc gia muốn thống trị cùng bóc lột
các quốc gia khác. Có nhân quả cho quốc gia cũng như nhân quả cho cá nhân, và
nhóm người tụ họp với nhau thành một quốc gia nào đó xen vào chuyện của một quốc
gia khác phải luôn luôn gánh lấy hậu quả của hành động như vậy, dù xấu dù tốt.
Trong nhiều trường hợp một nước sẽ biện luận rằng nó muốn điều tốt lành cho dân
tộc mà nó chế ngự, nhưng lịch sử thường chứng tỏ là nước bị trị không hề chịu nằm
yên dưới gót giầy của kẻ chế ngự, hay nó cũng không tiến hoá mau như khi được để
yên tự tìm đường phát triển cho mình.
Chiến tranh sinh ra chiến tranh và cứ như thế mãi, cho tới
khi nhân loại nhận thức rằng mọi người là thành viên của gia đình nhân loại, cần
được đối xử với lòng thiện cảm và hiểu biết và được giúp đỡ như là chuyện tự
nhiên. Tới ngày giờ ta sẽ không còn những quốc gia riêng rẽ vì mọi người sẽ sống
chung hoà hợp, mỗi nhóm trao đổi với các nhóm khác đồ vật mà nơi họ ở dễ dàng sản
xuất, cùng với những món chế tạo mà họ có thể làm ra tốt nhất. Các nước riêng
biệt khi ấy sẽ trở thành những tiểu bang trong một quốc gia thế giới, và người
khôn ngoan của mỗi nhóm sẽ cai trị, làm luật mang lại lợi ích cho tất cả.
Đúng là đa số người mong muốn hoà bình, nhưng không may là
chiến tranh hay hoà bình lại thường do ai nắm quyền vào lúc ấy quyết định.
Trách nhiệm của bất cứ quốc gia hay nhóm người nào khi mở cuộc chiến quả thật rất
to lớn, và rất ít khi hay gần như không bao giờ một cuộc chiến tranh như vậy lại
hữu lý, bất kể biện luận nào có thể được đưa ra nhằm chứng tỏ là không có cách
nào khác. Chẳng bao lâu thế giới sẽ thấy rằng ngay cả những nước thắng cuộc chiến
hiện đại (thế chiến thứ hai) cuối cùng vẫn bị thua, và sau cuộc chiến tình trạng
thế giới trở nên khó khăn tới mức lợi điểm họ tưởng đã chiếm được, lại thua sút
các vấn đề hậu chiến mà họ gặp phải. Đừng bao giờ nghĩ rằng những Đấng Cao Cả
chăm lo cho cuộc sống muốn có chiến tranh. Những vị Toàn Thiện ấy làm hết mọi
điều trong khả năng mình để dẫn dắt nhân loại theo đường hòa bình và tiến bộ,
nhưng nỗ lực các ngài bị giới hạn vì con người được cho có Tự do Ý chí. Đó là
tính chất riêng biệt của loài người.
H: Với ai rất tiến hóa thì họ có tự động đạt tới tâm thức
liên tục, cho phép họ nhớ lại đã làm gì khi ra ngoài thể xác trong lúc ngủ
không ?
Đ: Câu trả lời của tôi tùy thuộc vào việc anh cho người tiến
hóa là như thế nào. Người trung bình có từ năm đến sáu trăm kiếp trong những
thân xác khác nhau, tính từ kiếp đầu tới kiếp chót làm người và đạt được chứng
đạo (còn gọi là điểm đạo) lần thứ năm trở thành vị Đạo sư. Tuy trung bình sáu
trăm kiếp là khoảng thời gian cần để học tất cả những bài học trên thế giới
này, nhưng chỉ trong khoảng năm mươi kiếp chót thì con người mới phát triển về
mặt huyền bí, và học cách dùng những quyền năng tiềm ẩn trong tất cả mọi người,
thí dụ như trực giác, thông nhãn và khả năng xuất hồn có ý thức khi nào cần.
Nói tổng quát thì anh có thể cho là người tiến hóa đã phát
triển những quan năng này, nhưng ai chưa tiến hoá lắm cũng có thể được cho cơ hội
để phát triển theo đường hướng đặc biệt ấy, và trường hợp riêng của anh là thí
dụ. Còn anh có khoảng năm mươi kiếp trước mặt trước khi đạt tới vị thế là người
Toàn Thiện, nhưng vì nhu cầu của anh lớn nên đã được cho chỉ dẫn đặc biệt, và đổi
lại tôi hy vọng anh sẽ tỏ lòng biết ơn bằng cách truyển lại hiểu biết này cho
những ai khác ít may mắn hơn chứ ? Nếu anh tiếp tục làm việc như đang làm hiện
nay, anh sẽ thấy là trí nhớ về chuyện gì xẩy ra cho anh lúc ở ngoài thể xác sẽ
càng ngày càng rõ lần, hiểu biết của anh về sự sống sau cái chết sẽ cho phép anh
tiến mau lẹ hơn bình thường. Cùng lúc ấy nó sẽ mang lại cho anh nhiều sự bình
tâm và an lạc. Đừng nghĩ rằng đã phát triển được khả năng này thì anh khác với
hay cao hơn người khác, những người mong muốn có được cơ hội như anh. Lòng kiêu
hãnh luôn luôn là điều nguy hiểm, vì nó thường khiến người ta không được trợ
giúp nữa và kết quả là họ sẽ rơi trở lại vào hố chán nản.
H: Số lần của những kiếp làm người nữ có bằng với số lần làm
người nam, hay phái tính chỉ là chuyện tình cờ ?
Đ: Câu hỏi chót này dễ trả lời. Không, phái tính không phải
là chuyện ngẫu nhiên, và số lần làm nam giới không bằng số lần làm nữ giới. Có
những đặc tính mà chỉ thể xác nam hay nữ mới cho ta phát triển mà thôi. Tới lúc
đạt được sự toàn thiện thì tất cả chúng ta đã phát triển tới mức tối thiểu mọi
đức tính, hợp lại thành một người tuyệt hảo lý tưởng, và một số đức tính được nẩy
nở hơn mức tối thiểu. Tự nhiên là ai tiến hoá qua hành động sẽ có đặc tính khác
với ai phát triển nhờ sống đời thánh nhân, nhờ tham thiền lâu dài nhằm nỗ lực giúp
đỡ đồng loại.
Tất cả những loại người toàn thiện đều cần thiết, và có nhiều
con đường cho chúng ta theo để làm tròn vận mạng của mình. Nếu ai thiếu can đảm
và khả năng có quyết định hợp lý, tận tâm cai trị đồng bào của mình, điều ấy có
thể muốn nói không chừng họ sẽ sinh ra làm người nam trong hai hay ba kiếp liên
tiếp, để có đầy đủ cơ hội phát triển chuyện họ cần.
Ngược lại ai thiếu bản năng làm cha hay làm mẹ, và cũng không
thể có sự tận tâm quên mình hay thương yêu người khác ngay cả khi tình yêu ấy bị
chối từ, điều ấy có thể muốn nói là nên có một hay hai kiếp làm người nữ để học
những bài học đó.
Trên lý thuyết người ta nên có số lần làm người nam và nữ bằng
nhau trong tổng số kiếp sống của họ, nhưng trên thực tế chuyện không xảy ra giống
vậy, vì có người phát triển dễ hơn trong loại thể xác này so với thể xác kia. Tới
ngày giờ đạt được sự toàn thiện, con người sẽ có tất cả những đặc tính của cả
hai phái được phát triển tương đối khả quan. Khi anh có cơ hội gặp gỡ vài vị
Toàn Thiện như thế, anh sẽ thấy điều tôi nói với anh là đúng.
Acharya tiếp tục.
– Đến đây chấm dứt những câu hỏi của anh và sau khi viết lại từ
bản tốc ký, đọc lại, tôi hy vọng anh sẽ thấy là câu đáp mà tôi đưa ra sẽ làm
sáng tỏ những điểm anh nêu lên. Tốt hơn anh nên đi ngủ sớm vì hẳn anh phải mệt,
đừng bận tâm đến việc tập trung tư tưởng trước khi ngủ để sáng nhớ lại anh đã
làm gì ban tối. Tôi sẽ không đến thăm anh ít nhất là trong một tuần, vậy anh có
nhiều cơ hội để tự kinh nghiệm như tôi đã nói với anh hôm qua; nếu gặp trục trặc
thì tôi ở ngay cạnh để giúp anh. Cầu mong anh được bình an, tôi phải đi đây.
Một tuần sau.
Tôi có thể tả dài dòng nhiều chuyện xẩy ra trong tuần này
nhưng tôi không muốn làm bạn chán, nên sẽ chọn ra trong các chuyện sự việc nào
xem ra là quan trọng hay lý thú.
Vào tối THỨ HAI tôi tới được nhà của Daphne, thấy nàng mời bạn
bè đến giải trí. Tôi được giới thiệu với mấy người trong nhóm, chuyện trở nên hứng
thú về thời sự trên thế giới, và thấy họ hiểu biết rất nhiều về các đề tài ấy.
Họ chiếu phim cho tôi coi, mô tả những khu vườn nhà trong thung lũng này. Chúng
đẹp hơn bất cứ gì tôi đã thấy trước đây. Khi được cho thấy khu vườn để tự nhiên
không có tay người xếp đặt, tôi thấy tinh linh tí hon cao không quá 12-15cm, nhẩy
nhót trong và ngoài phim. Khi chúng đáp xuống một bông hoa, cành hoa khẽ rung
lên như có một con bướm lớn hay con ong đậu vào. Tinh linh có hình ảnh giống hệt
những tiên nữ vẽ trong chuyện mà trẻ con mọi lứa tuổi ưa thích, ngoại trừ một
khác biệt quan trọng là tuyệt nhiên chúng không có cánh. Điều này dễ hiểu vì
nói cho hợp lý thì cánh không cần thiết chút nào ở cảnh mà tinh linh cư ngụ.
Sang tối THỨ BA, tôi ra khỏi thể xác dự tính lên cảnh thứ ba
lần nữa, nhưng khi lơ lửng ngay trên giường nơi cơ thể đang nằm, chuyện đầu
tiên tôi nghe là giọng của Charles theo kiểu nói đặc biệt của nhà binh. Em bảo:
– Tới lúc anh phải đi với em. Kể từ đêm mà anh và ông bạn Ấn Độ
của anh đi London với em, em đã tới đây ít nhất ba lần, lần nào thì xác cũng có
đó mà anh đi đâu mất biệt. Em không biết anh bỏ đi đâu nên không thể theo. Lần
này em quyết định tới sớm để bảo đảm là bắt kịp anh.
Tôi nói.
– Charles này, anh xin lỗi. Anh không biết là chú tìm anh, tại
anh quá đỗi bận rộn và những gì được thấy làm anh thích quá.
– Mình lên phòng trên lầu nhỏ của anh đi, em nhớ nó là chỗ anh
thích nhất.
Charles bảo, rồi ta sẽ nói chuyện dài như ngày xưa.
– Chú nói phải đó, mình đi.
Thế rồi chúng tôi cùng đi lên phòng kín của tôi, chuyện vãn về
những ngày đã qua và tôi kể phần nào những chuyện đã xẩy ra cho tôi cho đến
ngày hôm nay.
Charles nói.
– Em rất mừng là anh may mắn gặp được Acharya, tại em lo lắng
sau khi qua đời, thấy anh vô cùng rầu rĩ và thiểu não. Em ráng hết sức mình để
nói chuyện với anh nhưng không làm cho anh nghe được. Hai chúng ta thân nhau biết
bao hồi còn nhỏ, dù rằng anh luôn luôn già khú đế hơn em. Em thương anh biết chừng
nào từ ngày anh chỉ em chơi đá banh, dạy cho em bài học đầu tiên cách nắm khúc
côn cầu. Cuộc đời mới ngộ làm sao ! Em thường nghĩ là sống để tìm thú vui và sống
hết mình càng nhiều càng tốt, rồi về sau cưới cô nàng xinh đẹp nào đó, sinh con
đẻ cái tạo gia đình. Hồi mới gặp Acharya ông làm em chú ý về sự kiện rằng người
ta vẫn y vậy sau khi chết, chỉ có cảnh sống là khác thôi và em thấy quả đúng
như vậy.
– Phải, tôi đáp. Anh nghe Acharya thuật là em không buồn cho lắm.
Ông nói em đã kết bạn với một cô vừa mới qua đời. Phải thế không ?
Hắn có đỏ mặt không hay là tôi tưởng tượng ?
– Đúng, có chuyện đó, Charles nói. Em nghĩ có cô bạn để đi
loanh quanh đó đây sẽ làm qua ngày giờ. Trong trường hợp cô này em chắc nó sẽ gợi
lòng kiêu hãnh của em vì cô tưởng em tài giỏi lắm, chỉ vì em biết vài điều hơn
cô. Hồi ở cõi trần đời cô không vui mấy nên em nghĩ đi rong chơi chỗ này chỗ nọ,
xem múa hát, ăn nhà hàng là chuyện thích thú lúc này.
– Ô, Charles. Tôi nói, có điều này anh muốn hỏi em. Khi bỏ thể
xác rồi và sang cảnh này thì có còn liên hệ tình dục được chăng ?
Lần này tôi tin chắc là hắn đỏ mặt nhưng hắn nói ngay:
– Có chứ, có việc đó và
em nghĩ có đa số người làm nhưng nó không giống như cõi trần. Chuyện này dẫn tới
chuyện kia y như vậy và trước kia lúc còn sống, nếu anh hỏi câu này em sẽ ngượng
ngùng kể cho anh nghe chuyện tình yêu thầm kín của em, thì bây giờ cũng vậy, em
vẫn cảm thấy ngượng ngùng khi nói về chuyện đó.
Tôi bảo.
– Anh không có ý tò mò chuyện riêng tư, chỉ muốn có càng nhiều
chi tiết càng tốt về sự khác biệt giữa cảnh sống cõi trần và cõi tình cảm, và ở
những cảnh khác nhau của cõi sau. Anh có kể em nghe việc gặp lại Daphne ở cảnh
cao nơi cô đang học nhạc. Hồi cô còn sống anh rất quí mến cô, và hẳn sẽ hỏi cô
làm vợ ngay vừa khi đủ sức cưới vợ. Tuy Daphne và anh chưa thành hôn với nhau,
anh cảm thấy là tình thân trong sạch tiếp tục ở những cảnh cao này sẽ không những
kéo dài trong suốt quãng đời ở cõi tình cảm của cô với anh, mà còn tạo nhiều lợi
ích to lớn cho cả hai trong kiếp tới. Để tối nào đó em đi theo và anh sẽ giới
thiệu em với Daphne nhé ?
– Được, em thích lắm. Charles đáp.
Tôi đề nghị tối thứ năm và hắn ưng thuận.
Charles cho hay hắn vừa mới tiếp xúc được với ba của chúng
tôi lúc gần đây, ông qua đời mấy năm về trước. Theo lời mô tả của hắn tôi cho
là ba tôi đang sống ở cảnh thứ hai. Charles kể là hắn gặp ba ở chỗ trồng toàn
hoa hồng, tôi nhớ hồi tôi còn nhỏ tính của ba là vậy; hắn nói lần mới đây khi gặp
lại ông, ba tỏ ra buồn rầu vì con chó nhỏ tự nhiên đến ở với ông nay đột ngột
biến mất, ba cho là nó đi lạc. Tôi giải thích với Charles việc thực sự đã diễn
ra nhưng hắn không tỏ ra chú ý cho lắm. Hai chúng tôi tiếp tục trò chuyện cho tới
khi có một cảm giác bồn chồn lạ lùng đến với tôi. Tôi chỉ có giờ bảo Charles đừng
quên thứ năm và rồi tỉnh dậy trên giường, không nhớ mình đã về làm sao.
Tối THỨ TƯ tôi có kinh nghiệm đáng sợ nhất, có ác mộng với
Daphne có dự phần trong đó. Dường như Daphne và tôi ở trong một hang tối. Vì lý
do nào đó chúng tôi không thể thoát khỏi một con vật giống như con khỉ đột dữ dằn,
ngồi trên sàn gần chúng tôi, mắt long lên sòng sọc nhìn vào Daphhe, thấy rõ là
nàng hấp dẫn nó theo một cách ghê gớm nào đó. Tôi biết là trong giấc mơ tôi muốn
bảo vệ Daphne, nhưng con khỉ đột to lớn mạnh khủng khiếp làm tôi biết là không
sao chống cự lại. Có vẻ nó thấy ngộ nghĩnh chuyện chúng tôi muốn trốn chạy, vì nó
la rống và cười hăng hắc khi chúng tôi bỏ chạy cuống cuồng trong hang, tìm đường
thoát nạn.
Ngay cả trong giấc mơ tôi thấy mồ hôi trán nhỏ giọt và tôi
ráng nghĩ tới Achrya, với hy vọng là thầy sẽ đến cứu, nhưng chẳng có gì xẩy ra
và làm chúng tôi phải chịu trận. Một lúc sau con khỉ đột đứng dậy tiến lại
Daphne, đưa cánh tay lông lá chộp lấy nàng, và bắt đầu kéo nàng về phía đầu kia
của hang. Daphne la hét chống lại hết sức mình, trong cảnh tuyệt vọng tôi đâm bổ
vào con vật kinh khiếp và dù không có vũ khí, tôi cố gắng lấy tay bóp cổ nó với
hy vọng làm con vật quay sang chú tâm vào tôi. Cho tới bây giờ làm như tôi vẫn
còn ngửi được hơi thở hôi hám của nó, vì giữa chừng cuộc vật lộn thì tôi tỉnh dậy
trên giường, mồ hôi dầm dề với chăn mền quấn rối quanh thân. Tôi không hiểu
chút nào ý nghĩa của sự việc, tôi sẽ kiểm lại với Daphne càng sớm càng tốt với
hy vọng biết đôi chút về chuyện này.
Sang tối THỨ NĂM tôi bắt đầu công việc của người cứu trợ nơi
cõi trung giới. Đây là tối mà tôi đã xếp đặt để mang Charles lên cảnh thứ ba.
Charles tới trễ và khi đến thì lộ vẻ lo lắng, vì hắn bảo một người bạn của hắn
là Bill Fletcher bị bắn rơi, và tử nạn trong một vụ phi cơ địch thả bom ở
London. Em kêu tôi đi cùng với em để giúp đỡ, chúng tôi lập tức đi London ngay.
Charles biết chỗ để tìm Bill, và sự trợ giúp của chúng tôi được ba người cứu trợ
hăng hái mà thiếu kinh nghiệm ở cõi tình cảm hoan nghênh. Sau khi cả bọn cố
công hết sức trong hai tiếng đồng hồ, Bill chịu nghe và dùng ý chí thoát khỏi
thể sinh lực, lập tức trở thành một người khác hẳn. Charles và tôi lo cho anh
chàng, chúng tôi đi cùng với anh đến nhà và làm những gì có thể làm, để chuẩn bị
người vợ trẻ của anh với tin báo tử mà cô sẽ nhận vào sáng hôm sau.
Kế đó Charles muốn ở lại với Bill, nói rằng hắn biết rõ anh
ta đang đau khổ như thế nào, tôi quay trở lại chỗ thả bom để xem còn có thể
giúp điều gì khác nữa. Một xe cứu thương chạy ngang qua và tôi quyết định đi
theo nó. Xe chạy về một bệnh viện lớn của London và một cái cáng được cẩn thận
khiêng vào bệnh viện, trên đó một cô gái trẻ đang nằm. Cũng cô gái ấy nhưng
trong thể tình cảm đang đi bên cạnh cái cáng, với dáng điệu hớt hơ hớt hãi. Sau
khi khám nghiệm, thể xác của cô được mang tới một khu đã đầy bệnh nhân mới vào
lúc gần đây.
Việc diễn ra gọn gàng, không hối hả và thật là hữu hiệu khiến
tôi thán phục, cô gái được đặt vào giường và có thu xếp để tiếp máu cho cô. Cô
cuống cuồng tìm cách liên lạc với bác sĩ và y tá đang săn sóc thể xác bất tỉnh
của mình, nhưng sau một lúc ngắn cô chịu nghe tôi nói. Tôi nói cô sẽ không sao
đâu, vì trực giác tôi thấy vậy. Tôi bảo nếu cô bình tĩnh và đứng qua một bên
xem chuyện diễn ra thì có ích cho cô hơn, cùng lúc hãy dùng ý chí của mình để
phụ vào nỗ lực của bác sĩ và điều dưỡng viên. Bây giờ ngồi đây xem lại tôi
không biết tại sao mình lại đề nghị với cô như thế. Tôi không hề biết là nói vậy
sẽ có giúp gì được cho cô hay không, nhưng tôi thấy nên nói như vậy thế là tôi
làm ngay.
Tôi có thể thấy rõ là có một sợi dây mỏng bằng chất ether, nối
dài giữa thể tình cảm của cô với thể xác đang nằm trên giường ở bệnh viện, nên
biết là cô chưa chết và tin chắc là cô sẽ không bị thiệt mạng. Tôi ở lại với cô
nói chuyện suốt đêm, sau đó cô kể là căn nhà của mình nằm cạnh căn nhà bị trúng
bom, và cô hết sức lo âu về số phận của bà mẹ lớn tuổi. Tôi bắt đầu chỉ cô đôi
điều hiểu biết mà tôi vừa mới được dạy cho hay.
Có nhiều người cứu trợ cõi tình cảm đi lại trong khu, và một
người trong bọn tôi chưa gặp bao giờ cho biết anh tên Jim và khen ngợi nỗ lực của
tôi, anh bảo ước sao có thêm nhiều người có hiểu biết cần thiết để giúp trong
những vụ cấp cứu tương tự.
Sang tối THỨ SÁU tôi có kinh nghiệm thật độc đáo tới mức phải
tả lại chi tiết sinh hoạt trong đêm đó. Tôi gặp Daphne trong phòng của nàng ở Học
Viện. Chuyện đầu tiên tôi hỏi là việc thấy nàng trong ác mộng của tôi, nhưng
nàng đoan chắc là không có dự vào ác mộng đó. Hai chúng tôi quyết định thử tự
mình đi lên cảnh kế là cảnh thứ tư, nhưng chúng tôi gặp vấn đề là không ai
trong hai đứa tôi biết mốc điểm nào để tượng hình trong trí. Chúng tôi ngồi bên
ngoài học viện và tập trung tư tưởng, tôi ráng nghĩ đến một bệnh viện tâm thần
như Achrya đã nói mà không có gì xảy ra. Tôi ước sao có Acharya để giúp và hẳn
tôi đã tạo ra hình tư tưởng của ông, vì khi nỗ lực lần sau của chúng tôi bị thất
bại, tôi nghe có tiếng cười nhẹ sau lưng và thấy ông đứng ở đó. Ông bảo sẽ giúp
chúng tôi và cho chúng tôi những mốc điểm ở từng cảnh mà chúng tôi phải nhớ nằm
lòng.
Chúng tôi nắm tay thầy và khi mở mắt ra, thấy khung cảnh mà
tôi không sao tả xiết, vì nó là một trong những thung lũng tuyệt đẹp mà tôi được
biết. Một phần nơi ấy là rừng, đất phủ cỏ dầy nhiều mầu xinh đẹp như ở Nam Phi,
sờ vào êm tay; mọc lẫn với cỏ là hoa dại tràn lan rực rỡ. Lẫn lộn vào có hoa
chuông xanh, hồng đất, thủy tiên, uất kim hương, hồng dại, lưu ly, hoa anh túc
(poppies) mầu đỏ hết sức tươi khó mà tưởng tượng được. Tôi không biết có còn
thiếu loại hoa dại nào chăng, vì mặt đất khắp nơi là một tấm thảm đầy màu sắc,
diễm lệ tới độ làm ta nín thở sững người kinh ngạc.
– Tôi nghĩ hai bạn sẽ hài lòng với mốc điểm này. Acharya nói,
vì nó có tên là Vườn Tiên (The Fairy Glen). Có thể tả nó như là cái nôi của thế
giới thiên thần vì thung lũng này là nơi cư dân của đường tiến hoá đó trở về,
sau khi làm xong phận sự giao phó cho chúng. Tôi đề nghị trong tương lai khi có
dịp hai bạn lên xem xét thung lũng này một cách yên lặng và kín đáo, vì thiên
thần có cách riêng của các ngài để giữ không cho người thiếu hiểu biết vào. Các
ngài tạo nên bức tường dầy bằng chất liệu cõi trung giới khiến cho không ai có
thể nhìn xuyên qua, ngay cả khi họ biết là có chỗ như thế. Ở cảnh này tường như
vậy có tác dụng giống như tường gạch ở cõi trần.
Chúng tôi lại nắm tay nhau lần nữa và dùng ý chí sang cảnh kế,
cảnh thứ năm. Khi mở mắt tôi thấy hết sức lạ lùng là đứng ở giữa nơi như sa mạc,
chỉ có điều cỏ mọc khắp nơi thay vì cát. Đằng xa là một thành phố vĩ đại có nhiều
tháp nhọn và tháp canh, chung quanh tường cao lớn bao bọc. Bên trên thành phố
có cái gì rọi xuống giống như mặt trời, vì nó tỏa ra ánh sáng cho mọi tòa nhà làm
chúng chiếu rực rỡ một cách vàng óng.
– Này hai bạn, đó là Kim Đô (Golden City), vị thầy hướng dẫn
nói, và tôi khuyên các bạn nên tới thăm, tìm hiểu về nó. Bạn sẽ thấy trong đó
có tất cả những gì mà người ta đã nghĩ ra, hay tưởng tượng về Thiên đàng theo sự
hiểu biết của dân gian, và được các giáo sĩ, mục sư của Thiên Chúa giáo nói tới
nhiều. Trọn cả đô thị là một hình tư tưởng vĩ đại, và bạn sẽ gặp trong đó hình
tư tưởng của Thượng đế Chúa Cha, của Đức Chúa và 12 tông đồ của ngài, cùng nhiều
vị thánh mà giáo hội giảng dạy.
Kế tiếp chúng tôi nắm tay nhau và dùng ý chí đi lên cảnh thứ
sáu. Chỉ trong tích tắc chúng tôi đứng ở bờ hồ có tường đá cao bao bọc. Đằng xa
bên trái có một khe thông rất nhỏ, tôi tự hỏi nó sẽ dẫn tới đâu.
– Hãy nhớ kỹ trong đầu hình ảnh này, Acharya khuyên. Hồ này được
dùng chính yếu cho người muốn có sự yên tĩnh tuyệt đối để làm việc đặc biệt của
họ. Có một môn phái trên thế giới tiến hóa hoàn toàn nhờ tham thiền. Trong lúc
sống họ được dạy dỗ là có nơi này, tương tự như người Thiên Chúa giáo được dạy
có chỗ gọi là Thiên đàng. Những thuyền con mà bạn thấy được người tới đây dùng,
khi thuyền đi trên hồ thì chúng không qua mặt được nhau. Ấy là vì có những dòng
nước ngầm bên dưới khiến thuyền đi vòng hết trọn hồ, mỗi thuyền trôi 24 tiếng đồng
hồ (theo giờ cõi trần) thì quay về chỗ cũ, và cuộc tham thiền của những người
này cần đúng bấy nhiêu thời gian để hoàn tất.
"Tôi thấy bạn để ý đến khe thông bên trái, nó dẫn tới một
hồ tương tự nhưng nhỏ hơn, cũng có vách đá cao bao quanh. Hồ đó do một người tới
đây ngụ tạo ra. Một hôm buổi tham thiền của họ bị phá rối vì nhiều người khác
dùng hồ này cùng lúc. Hình tư tưởng mà họ sinh ra mạnh đến nỗi tạo thành một
cái hồ cho riêng mình. Ở đây tôi nói khẽ với các bạn gần như là thì thầm, vì nếu
nói với giọng bình thường bạn sẽ nghe nó vang dội quanh hồ như tiếng sấm. Người
chung quanh biết về đặc tính này nên cẩn thận không hề gây ra tiếng động nào.
Vì tính chất lạ lùng ấy người ta gọi hồ là The Waters of Perpetual Silence. Giờ
tôi phải rời các bạn, bạn có thể quay trở lại và không cần tôi giúp mà chẳng sợ
gặp khó khăn nào."
Như ông tiên đoán, Daphne và tôi trở lại những chặng đã qua
không chút khó khăn, nhưng khi về cảnh thứ tư và thấy lại Vườn Tiên lần nữa,
hai tôi quyết định nán lại chơi một lúc. Chúng tôi để ý thấy có dấu hiệu hoạt động
rộn rịp trong thung lũng, làm như sắp có buổi lễ diễn ra. Dường như có đến hàng
ngàn dân cư tụ tập trong thung lũng. Chúng tôi ngồi xuống nhìn, có vài 'viên chức'
để ý đến chúng tôi và khi một người trong bọn tiến về hướng chúng tôi, chúng
tôi nghĩ chắc là sẽ bị mời ra khỏi nơi đây, nhất là Acharya đã báo trước rằng
loài người không phải lúc nào cũng được hoan nghênh tới chỗ này.
Một vị với dáng điệu thong thả và thật đường hoàng bay từ từ
đến chúng tôi, ông có cái đầu thanh nhã rất trí thức và lộ phẩm cách tinh thần,
làm chúng tôi tự động đứng dậy khi ông bay tới. Y phục của ông trông lạ mắt, nó
giống như của một quan chức triều đình Trung Hoa. Mầu sắc của chiếc áo khoác
dài hết sức tuyệt mỹ, còn hình thêu trên áo thì rõ ràng là hình nhiều bông hoa
dại nở trong thung lũng. Nét mặt ông không tỏ vẻ là chúng tôi sẽ gặp rắc rối
nên hai tôi mỉm cười đáp lại, hy vọng là thái độ của mình sẽ trấn an ông. Việc
xẩy ra sau đó có hơi lạ lùng một chút vì nó là cuộc trò chuyện diễn ra mà không
lời nào thốt lên, câu hỏi và câu trả lời theo nhau, cái nọ sau cái kia, mau lẹ
hơn là khi phải dùng lời để diễn tả.
Tôi cảm nhận là ông hỏi có thể làm gì được cho hai tôi. Tôi
đáp lại chỉ bằng cách tư tưởng tự nó lộ ra trong trí, rằng Daphne là người thường
trú ở cõi tình cảm còn tôi vẫn còn thể xác ở côi trần, và có mặt ở đây vào lúc
thể xác ngủ yên. Có vẻ như ông hiểu hoàn toàn, và nói là ông được vị Chủ Lễ
(Chief) sai mời gọi chúng tôi đi gặp ngài. Chúng tôi tỏ ý rất sẵn lòng theo ông
và lập tức tiến về lễ đài ở trung tâm. Khi đến gần, tôi thấy là dân cư đứng ngồi
chung quanh một khoảng trống lớn hình tròn. Hoa dại xỏ xâu lại với nhau thành
dây được giăng ra để ngăn đám đông, và tôi không khỏi so sánh nét mỹ lệ của
'hàng rào' loại này với hàng rào ta dùng dưới thế.
Bên trong vòng tròn có một khán đài được dựng nên, làm hoàn
toàn bằng những cụm rêu lớn mầu lục với cây cột lớn ở mỗi góc, cột làm bằng hoa
dại đủ màu đủ cỡ đan quấn vào nhau; ngay cả mái bên trên khán đài cũng làm bằng
một loại dương xỉ rất thanh nhã, giống loại dương xỉ mỏng manh (maiden-hair) mọc
ở cõi trần. Trọn cảnh cho ra hình ảnh hết sức thanh tú, rêu trên sàn của khán
đài được sắp xếp thành nhiều ghế có lưng, trông rất dễ chịu làm người ta lập tức
muốn ngồi vào. Phía trước có hai ghế lớn gần giống như hai cái ngai và tuy
chúng cũng làm bằng rêu, nhưng lại có nét tinh xảo khéo léo hơn những ghế khác.
Trong khi chúng tôi chờ vị 'Chủ Lễ' xuất hiện, người hướng dẫn
là ông vừa nói, cho hay vài chuyện sắp xẩy ra. Ý chính của những chuyện này là
đám đông tụ tập nơi đây để chứng kiến một lễ tốt nghiệp. Ông giải thích rằng
ngày giờ tới cho một nhóm tinh linh tiến sang giai đoạn kế trong cuộc tiến hóa
của chúng là trở thành thiên thần, chúng phải chứng tỏ về khả năng thông thạo của
mình tại một trong những buổi lễ như thế này. Khi 'Hội đồng Giám Khảo' hài lòng
với sinh vật thì chúng biến đổi từ tinh linh sang thiên thần với nhiều trách
nhiệm hơn. Ông cho hay các linh hồn trẻ tiến hóa theo một trong ba đường làm việc
đặc biệt:
1– Đường quyền lực,
làm việc bằng Âm nhạc và Màu sắc.
2– Hướng dẫn loài thảo mộc, cây cỏ biến đổi và tiến bộ nhờ
thiên thần thí nghiệm ở cõi trung giới; và
3– Làm việc với loài người.
Ông giải thích là tinh linh chung đụng rất thường với người,
nhất là với trẻ con. Chúng thường chơi đùa với trẻ nhỏ qua đời và lên cõi trung
giới, dạy các em cách sử dụng chất liệu mềm dẻo ở cõi trung giới để giống như
cho chúng sống với chuyện thần tiên của các em, bằng cách nếu các em muốn có
hình ảnh của bất cứ nhân vật tưởng tượng nào, và hình này hiện hữu bao lâu mà
tư tưởng của người dự chuyện vẫn duy trì vào đó.
Tôi được làm cho hiểu rằng cảnh này ở cõi trung giới là dành
cho thiên thần, giống như cõi trần dành cho loài người. Chim chóc trở về nơi
đây trong khoảng thời gian giữa hai kiếp sống, y như thú vật sau khi chết cư ngụ
ở cảnh thứ sáu và thứ bẩy, lúc chúng chờ đợi tái sinh xuống trần. Chim cũng như
cá, bướm và nhiều sinh vật có cánh khác, cuối cùng chuyển sang làm tinh linh và
là một phần của đường tiến hoá thiên thần. Chúng không hề là một phần của đường
tiến hoá nhân loại.
Tới đây có một nhóm từ bìa rừng đi ra, nếu tôi có tưởng tượng
về chiếc thảm thần trong chuyện thần tiên ra sao thì đây chính là nó ! Nhóm gồm
hai nhân vật chính, cả hai ngồi xếp bằng trên vật chỉ có thể tả là chiếc thảm
nghi lễ, bay cách mặt đất chừng một thước, ở mỗi góc phía trước thảm những con
chim ngậm trong mỏ nhiều sợi dây kết hoa đủ mầu sắc tưởng tượng, và trong khi chúng
bay đằng trước làm như kéo chiếc thảm đi, những thiên thần dự vào cuộc diễn
hành bay uy nghi hai bên thảm. Nhiều con chim nhỏ hơn bay tới lui, thả rơi cánh
hoa hồng trên đường mà đoàn diễn hành vừa đi qua; mỗi con chim bay sà xuống mặt
đất, dùng mỏ nhón lấy cánh hoa hồng từ những bụi hồng mọc khắp nơi, rồi lập tức
bay về vị trí của nó ở đàng trước cuộc diễn hành và từ đó thả cánh hoa rơi xuống.
Trong lúc cuộc diễn hành chậm rãi tiến bước, bầu không khí tràn ngập tiếng ca
hát véo von từ cổ họng của hàng ngàn con chim đủ mọi loại.
Đoàn diễn hành tới chỗ, hai nhân vật chính yếu được tiền hô hậu
ủng bước lên hai chiếc ngai dành sẵn cho họ trên khán đài, vị đầu tiên là vị Chủ
Lễ, ngài tỏ ý muốn hai tôi cũng ngồi tại khán đài. Daphne được cho một ghế bên
tay phải của ngài, còn tôi ngồi một ghế ngay bên trái của Vị Đạo Trưởng. Trước
khi nghi lễ thực sự bắt đầy, một dàn hoà tấu lớn gồm toàn là thiên thần chơi nhạc,
bản nhạc hết sức vui tươi và cung điệu nhịp nhàng. Khi ban hoà tấu chơi xong
thì có yên lặng trở lại, ngay cả vô số chim cũng không phát ra bất cứ tiếng ríu
rít nào.
Thiên thần xướng thanh tiến vào vòng trong và với chiếc kèn
nhỏ bằng bạc, loan báo phần đầu của buổi lễ. Một nhóm nhỏ gồm các tinh linh đi
vào khu lễ đài, và tuy không một lời nào thốt ra, câu hỏi đưa ra được đi từ vị
chánh chủ khảo sang nhóm này. Nó liên hệ đến việc biểu lộ của âm thanh, tượng
trưng bằng dòng sông lững lờ trôi, chậm rãi chảy qua rừng với cây cao ở hai bên
bờ sông. Lập tức nhóm lấy ra các loại sáo, tiêu và một loại cây guitar trông lạ
mắt. Chúng bắt đầu chơi và tôi thấy tư tưởng chậm chạp thành hình, vẽ ra chính
xác điều chúng nỗ lực mô tả bằng âm thanh. Ngay sau phần này là một lệnh khác
muốn chúng tạo ra nhạc diễn tả thời tiết. Tức khắc nhạc cụ thay đổi, chúng mang
ra nhiều cái trống, một bộ chập chõa và hai cái tiêu hay sáo lớn trông rất lạ,
gần giống như kèn oboe.
Chúng chơi đàn và dù không nhìn vào hình tư tưởng với đường
nét thật rõ ràng trước mặt, ta nhận ra không khó chủ đề của bài nhạc đang chơi
là một trận bão biển. Ta gần như có thể nghe được tiếng răng rắc của cột buồm
và dây buồm, căng cứng lên vì sức gió. Sấm chớp cũng có phần của nó và khi nhóm
này chơi xong, đám đông nhất loạt đứng dậy như một khối, giơ tay lên trời thay
vì vỗ tay và reo hò như con người thường làm. Đó là tất cả những việc mà nhóm đầu
được yêu cầu biểu diễn, và tôi tin chắc là chúng qua được kỳ thi.
Nhóm thứ hai này được loan báo vào sân, chỉ có năm người
trong bọn. Chúng được yêu cầu trưng ra cho thấy kết quả của việc ghép cây, áp dụng
cho cả hoa, bụi cây nhỏ và những loại trái cây khác nhau. Câu trả lời lập tức
hiện ra như là hình tư tưởng, cho thấy rõ ràng sự thay đổi về kích thước và màu
sắc. Chúng cũng được hỏi những loại hoa nào có thể được trồng chung với nhau
trong một luống, và những loại nào diệt trừ một hay nhiều loại khác. Rồi câu hỏi
liên quan đến việc luân canh (trồng hoa mầu này sau hoa mầu kia trong năm sao
cho có lợi nhất) và tại sao nó lại cần thiết. Xem ra nhóm thứ hai này cũng làm
vừa lòng cả ban giám khảo và đám đông.
Chiếc kèn bạc vang lên lần nữa, khi ấy nhóm thứ ba gồm một số
tinh linh rất nhỏ tiến vào vòng tròn, và các vị giám khảo tạo ra hình tư tưởng
là ba trẻ nhỏ. Chúng là hình tiêu biểu của trẻ con người Anh khoảng 5 cho tới 7
tuổi, liến thoắng với nhau về câu chuyện thần tiên Cô bé Lọ Lem. Lập tức các
tinh linh nhập cuộc với ba em nhỏ, tranh cãi ai sẽ đóng vai chính, khi việc này
được giải quyết xong tôi để ý là các tinh linh đóng những vai mà trẻ con thường
không thích chơi, chúng trở thành hai cô chị xấu xí và ông bố khó chịu, nhường
vai Cô bé Lọ Lem, bà tiên là mẹ đỡ đầu và hoàng tử lại cho các em nhỏ. Câu chuyện
thần tiên được diễn ra một cách ngắn gọn, nhưng khúc mà bà tiên hóa phép ra chiếc
xe ngựa và y phục của Lọ Lem biến đổi thì diễn ra rất thực, thực hơn bất cứ cái
gì đã từng diễn ra ở cõi trần. Tôi tưởng tượng là lòng không ích kỷ mà tinh
linh biểu lộ là điều làm cho chúng đậu hay rớt kỳ thi.
Sau một lúc nghỉ ngắn với nhạc vui tươi, tất cả thành viên của
ba nhóm dự thi được gọi trở vào sân, thiên thần xướng thanh báo hiệu việc này với
chiếc kèn bằng bạc của mình. Các giám khảo tụ lại quanh vị Chủ Lễ và vị Đạo Trưởng
để họp với nhau như thể bàn bạc về điều họ vừa chứng kiến, và sau vài phút vị
chánh chủ khảo đứng trước mặt vị Chủ Lễ, được ngài ưng thuận cho các tinh linh
thăng chức vào hàng ngũ thiên thần.
Kế đó vị Đạo Trưởng đứng dậy, cúi chào vị Chủ Lễ và trịnh trọng
đi ra sân nơi các tinh linh đang đứng. Đây là lần đầu tiên lời nói được dùng, vị
Đạo Trưởng giơ hai tay lên khỏi đầu, khấn nguyện bằng ngôn ngữ lạ tai mà tôi đã
nghe ở sân cỏ thuộc cảnh thứ ba. Thiên thần xướng thanh khi đó trao cho ngài một
thanh kiếm lớn, lưỡi chiếu sáng chói trong ánh sáng trong trẻo của cõi trung giới.
Nâng kiếm lên trời, ngài nói thêm đôi lời và chậm rãi đi về tinh linh đầu tiên
đứng trong một hàng dài trước mặt. Vị này đặt thanh gươm lên đầu tinh linh đó
và nói hai chữ dường như có nghĩa 'Thượng Đế phù hộ cho con' (tại sao tôi nghĩ
như vậy thì tôi không biết ). Trong lúc tôi ngắm nhìn, hình dáng của tinh linh
khi ấy như là một ông lão nhỏ bé biến thành hình một cô gái trẻ. Chuyện y vậy
cũng xảy ra cho tất cả những tinh linh tốt nghiệp. Vài tinh linh nam trở thành
nam thiên thần trong khi những kẻ khác đổi phái tính. Tất cả những hình hài mới
tạo đều có bề ngoài non trẻ.
Tôi sắp nói lời cám ơn vị Chủ Lễ đã cho chúng tôi cơ hội tuyệt
diệu này thì bỗng nhiên, tôi cảm biết cơ thể gọi về và cảm thấy mình tỉnh dậy
trên giường ở Colombo.
Sang tối THỨ BẨY khi ra khỏi thân xác, tôi thấy Jim, người cứu
trợ ở cõi tình cảm mà tôi đã gặp ở bịnh viện tại London, đang chờ tôi. Anh tới
để nhờ trợ giúp. Anh kể rằng anh rất thán phục cách tôi đối phó với trường hợp
của cô gái tên Mary hồi tối ngày thứ năm, và nghĩ tôi có thể giúp nhiều hơn. Cô
gái này nghe một người khách vô ý tứ khi đến thăm nói mẹ cô đã thiệt mạng trong
trận dội bom, cô sầu não quá tới mức không ai an ủi được. Bởi cô còn một em gái
nhỏ tên Irene mới 7 tuổi, nếu Mary cũng qua đời nữa thì quả là thảm kịch. Tôi rất
mừng được cho cơ hội này để thực hành những gì vừa mới biết. Khi chúng tôi đến
bịnh viện, tôi thấy cơ thể nóng sốt của Mary lăn lộn qua lại trên giường, còn
chính cô thì đi tới đi lui trong khu, hai tay vò đầu như đang suy nghĩ nát óc.
Thấy tôi đến cô mừng rỡ và khi tôi dỗ dành an ủi, cô bình
tĩnh lại. Tôi dùng tư tưởng tạo ra cái ghế salon thoải mái và trong lúc hai
chúng tôi ngồi ở đó, tôi giúp cô theo những gì tôi biết được nhờ Acharya chỉ dạy
trước đây. Tôi hướng dẫn câu chuyện về Irene, và vạch ra là đứa bé sẽ bị đau khổ
rất nhiều nếu cả mẹ và chị cùng mất đi. Tôi nói chắc với Mary – với thẩm quyền
mà tôi không có – là cô sống sót nếu có nỗ lực, và nếu chịu làm vậy cô vẫn có
thể tiếp xúc được với mẹ cô trong lúc ngủ. Cô hỏi là tôi sẽ giúp cô chăng, tôi
hứa sẽ làm như lời và thế là nhận phần nào trách nhiệm vào người. Tôi bảo sẽ trở
lại vào tối hôm sau.
Sang tối CHỦ NHẬT, Mary ngồi chờ tôi và rất bình tĩnh. Tôi đề
nghị đi thăm mẹ cô. Tôi chỉ cho cô thấy việc di chuyển dễ dàng ra sao ở cõi
trung giới và chẳng mấy chốc, cách đi lại này làm cô thắc mắc cũng như thích
thú. Cô dẫn tôi tới toà nhà nhiều căn là chỗ cô cư ngụ. Chúng tôi thấy Irene
trong một căn nhà của hàng xóm, bên cạnh giường em là bà mẹ đang ngồi, tìm cách
dỗ dành đứa trẻ khóc nức nở không thể thấy được bà. Mới đầu bà mẹ thảng thốt tưởng
Mary cũng đã thiệt mạng, nhưng khi bà ý thức là chuyện không phải như thế và cô
có thể săn sóc cho Irene, bà bình tĩnh trở lại. Tôi để ba mẹ con nói chuyện và
sau khi dàn xếp để có thể gặp lại về sau này, tôi quay trở lại bệnh viện. Tôi
nhìn Jim và những bạn đồng sự của anh làm việc, ghi nhớ cách thức của họ.
Khi Mary, mẹ cô và Irene đi vào, tôi dành trọn buổi tối ráng
giúp họ theo cách mà Acharya đã giúp tôi. Bà mẹ là người chưa tiến hoá lắm, tôi
nghe một người cứu trợ cõi trung giới nói là phải mất hai ngày mới thuyết phục
được bà dùng ý chí tách mình ra khỏi thể sinh lực. Cuối cùng có vẻ như bà hiểu
rằng dây ràng buộc với gia đình không bị cắt đứt, và bà vẫn có thể gặp các con
vào buổi tối. Điều này làm bà vui vẻ nhiều hơn. Tôi nghĩ bà sẽ hài lòng trong một
thời gian với cuộc sống ở cảnh thứ nhất. Chuyện chót tôi làm trước khi quay về
thể xác, là dùng quyền năng ý chí mà tôi có để gây ấn tượng cho Irene rằng khi
thức dậy em sẽ nhớ đôi điều về những gì được chỉ dẫn trong khi ngủ.