CHƯƠNG TÁM
Hẳn phải là 11 giờ, trong mười phút qua tôi ngồi ở bàn giấy
xem lại bài ghi chép về chuyện xẩy ra tối hôm trước khi giọng nói dễ nghe mà
nay rất quen thuộc, bất thình lình phá vỡ cơn mộng mơ của tôi.
– Nào, anh bạn Henry, chót hết rồi anh cũng đã làm được việc
đáng kể đó. Nay có lẽ anh sẽ nhìn nhận là có thể tự chứng thực những điều tôi
nói với anh hồi đầu rằng chúng là sự kiện thật đối với tôi.
Ấy là Acharya vào phòng tôi theo cách lặng lẽ bình thường của
ông.
– Vâng, Acharya, tôi phải nhìn nhận việc đó. Tôi bắt đầu ý thức
là ngay cả những việc mà thầy dạy tôi hồi trước và tôi chưa thể chứng minh rõ
ràng, hẳn sẽ chứng tỏ được khi tôi có thêm kinh nghiệm. Tôi nghĩ thầy đã biết
rõ chuyện gì xẩy ra tối qua và tôi không cần đưa thầy coi bài tường thuật của
mình, nhưng tôi muốn thầy đọc nó để xem tôi có quên điều gì quan trọng chăng.
Acharya trả lời rằng ông rất sẵn lòng đọc bài viết, và cũng
muốn xem bài ghi lại cuộc du hành lần thứ hai ở cõi trung giới của hai chúng
tôi. Ông thêm rằng ông muốn nói về chúng một lát trước khi sang chỉ dẫn mới.
Sau khi xem xong những bài này, gương mặt ông lộ vẻ khen ngợi nỗ lực của tôi,
thấy rõ là ông rất vui với việc tôi có thể thực hành vài chỉ dạy mà ông đã kiên
nhẫn giảng cho tôi trong hai tuần qua. Tôi bảo mình mang ơn ông biết chừng nào
với sự trợ giúp rất cần và không ích kỷ của ông, nhưng ông trấn an, bảo tôi
không cần phải thấy chịu ơn gì cả, vì phần việc của ông là đáp ứng lại những
trường hợp trong đời như tôi, cũng như ông được đáp lại rất hậu nếu ai mà ông
chỉ dạy nhờ đó có lợi một cách thực tế và đúng nghĩa.
Rồi ông bắt đầu nhận xét về hai tối qua, còn tôi lắng nghe hết
sức chăm chú. Ông nói như vầy:
– Trước tiên tôi phải giải thích tại sao tôi mang anh lên cảnh
thứ ba của cõi tình cảm từ London, vì anh biết nó không cần thiết chút nào. Lý
do là để anh ý thức rằng bất cứ thành phố nào mà anh đi tới bằng thể tình cảm sẽ
thấy y hệt như thành phố mà anh quen thuộc ở cõi trần, tuy cái anh thấy không
phải là vật chất mà là phần tương ứng bằng chất liệu tình cảm của đô thị vật chất,
nằm ở cảnh thứ nhất của cõi trung giới. Trong tương lai tốt hơn là anh bắt đầu
du hành từ Colombo. Anh sẽ thấy đi lên những cảnh cao hơn cảnh thứ ba cũng dễ
dàng y thế, nơi mà anh tiếp xúc với Daphne, vì nguyên tắc làm việc giống nhau,
nhưng muốn làm vậy anh cần phải có một nơi chốn rõ ràng ở mỗi cảnh, cho anh tượng
hình nó trong trí và thể tình cảm của anh sẽ được mang lên tới đó chỉ vài giây
theo cách tính ở cõi trần.
"Tôi hơi ngại là anh có thể e sợ một chút khi khung cảnh
chung quanh mờ dần và anh có cảm giác di chuyển. Tôi phải khen anh là đã không
thất bại lần đầu, chuyện tôi để ý thấy đôi khi xẩy ra cho học trò của tôi. Họ bị
hoảng vía và gần như thức dậy tức khắc trong thể xác, tim đập muốn tung khỏi lồng
ngực vì sợ hãi. Anh cảm thấy điều ấy thực vì đêm rồi anh quay trở về thể xác mà
không chủ đích làm vậy, khi hăng hái quá mức trong lúc nỗ lực đi gặp Daphne và
không cần tôi trợ giúp.
"Không có gì cần để nói về cảnh thứ hai của cõi trung giới
vì nó rất giống với cảnh thứ nhất, chỉ có điều bớt đông đảo hơn và ít ồn hơn.
Trong hai cảnh gần cõi trần nhất, dân cư thường trú nơi ấy sống đời sống luôn
luôn có hấp dẫn họ ít nhiều khi còn ở cõi trần. Trong đa số trường hợp người
như vậy không ở đó trọn cuộc sống ở cõi trung giới, tuy có ngoại lệ cho ai có
ràng buộc quá nhiều vào cuộc sống vật chất.
"Họ không muốn tiến lên những cảnh cao hơn của cõi tình
cảm, nhưng họ bắt buộc phải làm vậy sau một thời gian chừng hai ba trăm năm.
Lúc đó chân nhân thúc giục họ 'chết lần thứ hai' để lên cõi trí. Phương pháp tiến
bước này không phải là điều thường áp dụng, và không phải là cách của anh khi
ngày giờ đến cho anh sang cõi trung giới. Anh đã ý thức khi thấy sinh hoạt của
một số người sống ở cảnh thứ ba, là đời sống ở đó lôi cuốn anh nhiều lần hơn
chuyện đi ăn nhà hàng rồi xem hát hay xi nê.
"Tôi đã cho anh thấy cả họa sĩ và nhạc sĩ làm việc ở cảnh
thứ ba, nhưng anh cần nhận thức là cảnh này không chỉ giới hạn cho họa sĩ hay
nhạc sĩ. Cho anh thấy các kỹ sư tài giỏi, kỹ thuật viên chăm chú vào công việc
mà họ ưa thích là chuyện rất dễ dàng, tức bất cứ loại người nào mà sở thích sâu
đậm hồi còn sống không kết chặt với trò vui vật chất hay theo đuổi cái thuần vật
chất.
"Khi lắng nghe nhóm chơi nhạc dưới sự điều khiển của
Johann Strauss anh đã thấy vài cá nhân thuộc thế giới thiên thần có sự tiến hóa
song song với loài người. Sau này khi có kinh nghiệm với những cảnh cao hơn cảnh
thứ ba, anh sẽ nhận thấy là không những thiên thần đông hơn mà họ hợp tác càng
nhiều hơn với con người khi ta càng vượt xa cảnh đời vật chất. Anh có thể thích
lối sống của họ hơn của chúng ta, và muốn tiến hóa từ cá, bướm, chim sang tinh
linh, tiên nữ rồi chót hết là hàng ngũ thiên thần như anh thấy, kể luôn cả ban
nhạc chơi trong rừng. Chúng ta không thể thay đường tiến hoá của mình trừ một số
trường hợp rất đặc biệt. (Ghi chú: một số nghệ sĩ tài danh môn vũ được cho là từ
đường tiến hóa thiên thần chuyển qua người, thí dụ cho vũ ballet là Anna
Pavlova và Nijinsky người Nga hồi đầu thế kỷ 20).
Có thể anh tự hỏi tại sao tôi dành nhiều thì giờ ở Học Viện,
chỉ cho anh thấy việc diễn ra trong những toà nhà loại ấy. Tôi làm thế vì hai
lý do:
– Cái thứ nhất để anh ý thức rằng nơi đó là một trong nhiều
trường hiện hữu ở cõi trung giới, chỗ người ta có thể học về ngành nghệ thuật
mà họ ưa thích. Việc học tập này khiến cho khi tái sinh lần tới, họ có mong ước
tiếp tục theo đuổi ngành ấy để ít nhất một số người có thể trở thành bậc thầy
trong nghệ thuật của họ, và giúp cõi trần tiến bộ về cả văn hoá và học hỏi.
– Lý do thứ hai thì anh phải tự suy ra. Nhờ có hình ảnh thật
rõ ràng của Học Viện trong trí sau khi trở về thể xác ở Colombo, anh có thể
quay lại chỗ ấy rất dễ mà không cần phải cố gắng nhiều; từ đó tiếp xúc được với
Daphne và tiếp tục kinh nghiệm về cõi trung giới. Trong tương lai đừng quên việc
ấy. Hãy chấm một tòa nhà hay nhìn ngắm nó trong trí, rồi anh có thể dùng nó như
hình tư tưởng để định tâm vào, khi muốn đi lên tới cảnh giới đó.
"Tôi hy vọng anh đã ý thức sâu sắc nhu cầu phải biết
cách mà thời giờ ảnh hưởng đến việc du hành của anh ở cõi trung giới. Tôi đã đi
vào chi tiết về điểm quan trọng này để anh có thể hiểu cách xem xét nó khi có
cơ hội.
"Về chuyến đi tới chỗ diễn ra nghi lễ ở cõi trung giới
thì không có gì phải bàn. Anh nhớ là sau khi chúng ta đến nơi, ngồi lên rễ cây
mọc ở bìa khoảng trống, tôi dặn anh giữ yên lặng hết mức. Lý do là cho dù người
thuộc thế giới thiên thần không thực sự phản đối việc loài người xem họ làm việc,
họ không thích có bất cứ gián đoạn nào. Hẳn anh còn nhớ sự nghiêm trọng của mục
đích bao trùm mạnh mẽ trọn buổi lễ ra sao. Những chú lùn từ trong rừng bước ra ở
hồi đầu và khởi sự nghi thức với giọng hát, tiếng trống của họ, có mức tiến hóa
thấp hơn cả anh và thành viên ban hòa tấu rất xa.
"Tuy nhiên một điều thấy được rõ ràng là tất cả bọn tập
trung hết sức mình vào việc làm của họ. Không có đùa giỡn, pha trò cười cợt như
ta hay thấy trong buổi hoà nhạc ở cõi trần. Sự khác biệt đáng nói ấy là điều
tôi muốn anh chú ý, vì nếu muốn thấu hiểu thế giới thiên thần và – tôi
tin – khi ngày giờ tới làm việc chung với
họ, anh phải ý thức rằng sự sống là chuyện rất nghiêm trọng đối với họ, và việc
đùa cợt thường không có trong cung cách họ hành sự. Không phải là họ không thể
cười to, thiên thần thực ra rất đỗi hạnh phúc, biết thưởng thức những niềm vui
đơn sơ của thiên nhiên, nhưng họ không để cho ảnh hưởng bên ngoài gây xáo trộn
sự hoàn hảo của công việc họ làm.
"Để anh hiểu chuyện hơn sau đây tôi phải ra ngoài đề một
chút. Chắc anh đã nghe tới các vị Đạo đồ (Initiates), La hán (Arhats) và Đạo sư
(Adepts) trong đường tiến hoá của chúng ta. Những danh hiệu này ta hay thấy
trong sách huyền bí nhưng không có mấy điều được viết về chúng. Lúc này tôi có
thể nói vắn tắt cho anh hay như sau. Khi con người tiến hóa theo đường vạch ra
cho họ, cuối cùng họ sẽ được các Đạo sư kiểm soát và hướng dẫn, các ngài là người
toàn thiện nhưng ở mức tiến hóa giống anh cách đây hằng ngàn năm về trước.
"Những Vị này đã hoàn tất cuộc sống phải trải qua ở cõi
vật chất, vì họ đã học trọn những bài học có ở cõi trần. Do lòng từ đối với
toàn thể nhân loại, họ đã chọn ở lại thế gian (đây là một hy sinh cho các ngài
như anh sẽ rõ về sau) trên quả địa cầu, để giúp nó tiến và trợ lực cho sự phát
triển của nó. Các vị Đạo sư này đôi khi được gọi là các Chân Sư (Masters) vì một
số Vị nhận đệ tử tức người sống trong đời nhưng chưa toàn thiện, để phụ lực với
các ngài trong việc phải làm. Những đệ tử này được cho nhiều cơ hội phát triển
mà nói chung người thường không có, nhưng anh có thể tin chắc là họ đã phải ra
công mới được cho cơ hội như thế, mà không phải là thiên vị riêng tư khiến họ
được chọn trong khối đông nhân loại cho công việc đặc biệt này.
Đó là công tác khó nhọc và thường có nghĩa là ai như vậy phải
từ bỏ nhiều điều thường làm ở đời, để dành trọn con người học cách phụng sự
nhân loại mà không nhận lãnh lợi lộc vật chất đáp lại cho việc ấy. Họ thực hiện
việc phụng sự vô ngã, và phần thưởng duy nhất là họ được phép tiếp xúc với những
đấng toàn thiện họ đã thuận phục vụ, trong lúc ngủ khi dùng thể tình cảm của
mình.
"Các đệ tử ấy sau nhiều kiếp làm việc và có huấn luyện đặc
biệt, được chuẩn bị cho các lễ Chứng Đạo (Initiation, thường được dịch là Điểm
Đạo). Nghi lễ ấy cho họ quyền năng làm họ khác biệt với người thường, như chỉ dạy
họ cách đọc được tâm trí con người bởi khi một ai phát triển đến mức này, họ sẽ
không hề dùng quyền năng ấy cho việc gì ngoài việc giúp đỡ kẻ khác. Họ được dạy
cách giữ tâm thức liên tục ở mọi cảnh giới –
như tôi chỉ dẫn anh có tâm thức liên tục ở cõi trung giới và cõi trần mà
thôi, vào lúc này sự việc có hơi khó hiểu cho anh một chút.
"Khi cần, những người như vậy có thể làm điều mà thế
gian gọi là phép lạ nhưng họ không hề làm nó, trừ phi theo lệnh của một trong
các vị đạo sư giúp quản trị thế giới. Có năm giai đoạn hay năm lần chứng đạo,
chỉ khi đạt tới lần thứ năm con người mới trở nên toàn thiện và không phải tái
sinh trở lại cõi hồng trần. Đôi khi đời sống của vị đạo đồ được kéo dài lâu hơn
mức trung bình, nhưng họ chỉ làm vậy cho mục đích đặc biệt hay vì họ cần đến ở
một quốc gia nào trong thế giới, nhằm tạo ảnh hưởng cần thiết cho các thế hệ
mai sau.
"Trong nghi lễ của thiên thần mà anh có mặt, anh để ý thấy
thiếu nữ trẻ tuổi giữ phần đơn ca trong bản hoà tấu, ngồi trên ngọn của một
trong nhưng cây cao nhất ở bìa rừng mà không hề lại gần các thành viên của ban
nhạc, hay đi xuống mặt đất. Lý do của nó như sau. Những cô gái ấy được huấn luyện
đặc biệt cho việc họ làm, họ sống tách rời khỏi khối thiên thần nói chung và
trên thực tế, hiến dâng mình cho công chuyện đặc biệt của họ. Muốn vậy họ phải
phát triển để có những thể hết sức nhậy cảm, cùng tâm trí có thể hòa nhịp với
phần việc chuyên biệt đang được thực hiện. Lấy thí dụ thì cô gái ấy là nhân vật
tiến hóa cao, cô là một vị đạo đồ theo đường tiến hóa của thiên thần, và tới mức
có quyền năng lẫn hiểu biết vượt xa hẳn các thiên thần loại trung bình mà anh
thỉnh thoảng sẽ gặp.
"Rồi còn vị giáo sĩ hoàn tất nghi lễ và triệu thỉnh các
Đấng kiểm soát vũ trụ để giúp cho việc đang làm. Ông cũng là một nhân vật tiến
hoá cao nhưng chưa phải là một đạo đồ, và có lẽ cũng chưa phải là đệ tử của một
trong những vị toàn thiện. Vai trò của ông là giáo sĩ, được chỉ dạy để thâu
năng lực do âm nhạc có định lực và tư tưởng chú mục của người tham dự tạo ra,
cùng chuyển nó đi nhờ quyền năng tư tưởng đến hội nghị đang diễn ra trên trái đất.
Có thể anh không tin là chuyện như thế khả hữu và anh không cần phải tin, nhưng
nói 'Làm sao có chuyện ấy xảy raa' thì cũng dại khờ y như tin nó chỉ vì ai đó bảo
đảm với anh rằng cái này hay kia là chuyện có thật.
"Tôi mừng khi Daphne cho chúng ta cơ hội đến thăm nhà
cô, vì biết rằng có những lúc cô không có mặt trong phòng của Học Viện. Mà tôi
cũng mừng cho anh được dịp thấy có nhiều người sống trong thung lũng chỗ nhà của
Daphne, vì muốn anh gặp và nói chuyện với vài người ấy. Chuyện của anh và nỗ lực
anh làm để sống một đời sống khác bên ngoài thể xác trong khi vẫn sốn ở cõi trần,
chẳng những sẽ khiến vài người trong bọn chú ý mà còn giúp cho họ nữa.
"Một số chưa tiến như anh và trong những kiếp qua không
có cơ hội để tiến như anh có, chuyện khiến anh được chỉ dạy đặc biệt trong kiếp
này. Vì hưởng đặc ân được chỉ dạy anh cũng phải sẵn sàng và mau mắn truyền bất
cứ kiến thức nào mà anh có cho người khác. Ý định xuất bản thành sách những bài
nói chuyện của tôi với anh và việc anh ra khỏi thể xác đi du hành là chuyện rất
hay, không phải nó chỉ giúp những ai còn đang sống trong thế giới mà thôi. Điều
tôi nói với anh bây giờ và những câu chuyện ta sẽ có về sau, thì không phải chỉ
nói riêng cho anh nghe mà còn cho những ai quan tâm đủ tới mức muốn tìm hiểu
thêm về chuyện. Khi anh được cho hay những điều cần giữ kín thì thường là vì việc
có hiểu biết loại ấy sẽ cho phép người ta gây hại cho kẻ khác, nếu hiểu biết
đem dùng vào mục đích ích kỷ, nhưng tôi có thể bảo đảm là anh không có gì phải
nghi ngờ về những chuyện đó, khi tới mức phát triển khiến được truyền loại hiểu
biết như vậy.
"Nay nói về đoạn cuối của bài anh viết về chuyến du hành
lần thứ hai sang cõi tình cảm, tôi phải khen ngợi về những chi tiết anh nhớ được
để ghi lại. Lòng quyết tâm muốn nhớ là lý do khiến anh thành công, và nếu biết
được rằng năng lực ý chí phần lớn là thần chú dọn đường cho đa số những khó
khăn của mình, anh sẽ tiếp tục được thành công trong tương lai.
"Chi tiết quan trọng duy nhất có vẻ như anh không nhớ,
và chắc anh không nhận ra lúc ấy, là khi nghi lễ diễn ra ở khoảng đất trống
trong rừng, có hằng trăm thiên thần bay lượn nhẹ nhàng, vờn qua vờn lại ít nhiều
ngay trên đó, chừng 5-7 thước bên trên những ngọn cây bao quanh khoảng đất. Họ
không phải chỉ là khán giả hay đám đông tụ hội như ta thấy trong thánh đường lớn
ngoài đời, mà họ là người tham dự nghi lễ tích cực nhất, nhờ nỗ lực của họ mà lực
cần thiết tôi đã nói được sinh ra. Nếu anh thấy được họ thì hay biết mấy, vì
anh sẽ để ý là vào cuối bài kinh cầu mà giáo sĩ xướng lên, có vẻ như họ thu lấy
lực thiện sinh ra và sau đó lập tức kéo đi thành một đoàn, hẳn là để bảo đảm
cho kết quả được như ý. Đừng bận tâm là đã quên chi tiết ấy, tôi có thể đoan chắc
với anh là bài viết rất khá.
"Cái thúc giục anh tự làm thử lấy chuyện vào tối hôm sau
là điều hết sức tự nhiên, trong tương lai khi có thúc đẩy tương tự đến hãy luôn
luôn hành động ngay tức thì. Động lực ấy đến từ linh hồn là chính anh và linh hồn
luôn mong mỏi anh có được thêm hiểu biết loại này. Hoạt động ở những cõi cao
hơn cõi trần tỏ ra thú vị hơn đối với chân nhân, khi so với giải trí phù phiếm
và sinh hoạt thường lệ ta phải làm trong đời. Dĩ nhiên chân nhân ý thức rằng cuộc
sống ở cõi trần cần thiết cho sự tiến hoá của ta, nhưng mục tiêu của ý muốn này
luôn luôn giữ nguyên là để con người thăng hoa chính mình, học càng mau càng tốt
những bài học mà vô số kiếp sống là nhằm để dạy ta. Khi làm vậy ta sẽ mau lẹ
thoát khỏi việc phải tái sinh lần nữa, và có thể có cuộc sống khác thú vị hơn
nhiều, việc chỉ có thể xẩy ra cho ai đã học hết tất cả những bài học cần thiết
nhờ sống dưới thế.
"Anh có thể thấy là bây giờ tôi giải thích sự việc dễ
dàng hơn ra sao, vì anh đã có đôi chút ý niệm về cuộc sống của người ở cảnh thứ
nhất, thứ hai và thứ ba sống ở cõi trung giới, ngay bên trên cõi trần. Cảnh thứ
ba như anh biết có đa số các trường để dạy học viên những ngành nghệ thuật khác
nhau, không lâu đâu tôi sẽ cho anh thấy cảnh thứ tư là cảnh nối tiếp của cảnh
thứ ba. Cảnh thứ nhất và hai tạo thành mức một, cảnh thứ ba và tư tạo thành mức
hai, cảnh thứ năm và sáu tạo thành mức ba, và cảnh thứ bảy là ranh giới giữa
cõi tình cảm và cõi trí.
"Ở cảnh thứ tư có nhiều nhạc sĩ và họa sĩ, họ làm việc một
mình và không muốn dạy ai hay lúc này đã dạy xong rồi. Ta cũng có y sĩ nghiên cứu
với một số những cách trị bệnh mới được khám phá ở cõi tình cảm. Nhiều nhóm các
nhà nghiên cứu tụ lại với nhau trao đổi ý kiến, tuy họ không có thú vật để thí
nghiệm nhưng lý thuyết của họ tới ngày giờ sẽ kiện toàn và thâm nhập vào trí tuệ
cùng não bộ của y sĩ làm việc tương tự dưới trần. Nếu anh hỏi ai chuyên nghiên
cứu về y khoa trong thế giới là có bao giờ họ thức dậy buổi sáng và nẩy ra ý
hay – điều họ có thể mất nhiều tháng để kiện toàn và đem thực hành, và sẽ thành
một trong nhiều tiến bộ mới của y khoa – thì có lẽ họ nhìn nhận rằng có chuyện
đó.
"Rồi có những tòa nhà, cả nhỏ và lớn, có vẻ là bệnh viện
tâm thần. Tuy đời sống ở cõi tình cảm làm cho người bình thường nào cũng có thể
hoàn toàn hạnh phúc, vẫn có một số đông người ao ước chuyện bất khả, muốn có mặt
trời mặt trăng. Họ lo lắng, như đã lo lắng trong đời, và kết quả thường thấy là
bệnh tâm thần. Thể tình cảm có cái tương ứng với não bộ xác thân mà còn chứa đựng
thể trí. Người ta có thể bị rắc rối trí não sau khi qua đời, như hối hận về
hành động hay lời nói nông nổi trong kiếp đã qua, chuyện mà nay họ ý thức là
không bao giờ xóa bỏ hoàn toàn được. Cái đó làm họ đau khổ nhiều hay ít tùy
theo mức nhậy cảm của mỗi người. Những trường hợp như thế thường được y sĩ
chuyên về tâm thần chữa trị, mang lại lợi ích cho cả y sĩ và bệnh nhân.
"Ở cảnh thứ năm và sáu, anh sẽ thấy nhiều người nữa
nghiên cứu, chẳng hạn như các nhà phân tâm học, hay các chuyên gia về tim, não
v..v.. Chuyện thường xẩy ra là y sĩ và các chuyên gia thuộc những ngành khoa học
khác nhau, có nhiều kiếp liên tục làm cùng một loại công việc, anh có thể tưởng
tượng chuyện sẽ có giá trị biết bao khi người như vậy gặp bạn đồng ngành ở cõi
tình cảm, nơi mà tất cả kiến thức được tụ lại vì lợi ích của nhân loại. Có các
nhóm triết gia muốn giúp đỡ thế giới theo cách riêng của họ, họ cảm thấy nếu
khuynh hướng tư tưởng trên thế giới được thay đổi, theo đường tiến bộ hơn là
chiến tranh và sự thống trị của quốc gia, thì cuộc sống sẽ thoải mái hơn rất
nhiều và đáng ao ước hơn.
"Có những nhà thần bí tin rằng nhân loại có thể được
giúp tốt nhất bằng cách tham thiền theo những đề tài như "Tính Duy Nhất của
Sự Sống". Rồi có người khác đầy lòng tín ngưỡng cảm thấy rằng con người chỉ
tiến bộ được nếu tin vào tín điều này hay kia, người như thế nỗ lực tạo nên một
tôn giáo toàn thiện, bằng cách lấy những điểm giáo lý trong tất cả những tôn
giáo lớn từ xưa đến nay, trộn lại thành một triết lý mới. Các thiên thần quan
tâm rất nhiều về tất cả những hoạt động này như anh sẽ thấy về sau.
"Ở những cõi đó các vấn đề kinh tế thế giới được thảo luận
và xem xét nhiều tháng nhiều năm. Khi các chuyên gia ấy đi tới một kết luận
nào, giải pháp được thử nghiệm bằng cách gây ấn tượng trong não bộ người trần về
kết luận này, cho những ai ở trong vị thế mà lời cố vấn của họ được quốc gia
hay các nhóm cải cách đầy thế lực nghe theo, vì nhân loại phải được trợ giúp
khi có khủng hoảng quá lớn lao và quá nghiêm trọng không thể giải quyết được với
nỗ lực của riêng mình.
"Trong những phút nguy biến các nhà lãnh đạo tài ba của
thế giới có vẻ như đứng trên đài cao và sáng chói, thường khi ai đó trước đây
chỉ là chính trị gia hay nhà lãnh đạo ít tiếng tăm của một chính đảng, nay trở
thành nhân vật nổi bật trong chính trường thế giới; kết quả ai cũng thấy là họ
có sự khôn ngoan và tài lãnh đạo vượt mức bình thường mà người ta tưởng chính
khách ấy có. Khi cơn khủng hoảng qua rồi và làm xong phần việc lớn lao, có vẻ
như họ trở lại vị trí không tiếng tăm trước đây của họ.
"Những người ấy được chọn và được một trong các đấng Cao
Cả trợ giúp, những Vị luôn chăm chút trông nom thế giới và lo lắng cho con người.
Trong khoảng thời gian được ảnh hưởng thì chính khách quả là siêu nhân, nhưng
khi nguy biến giảm đi thì sự trợ lực phải rút về, vì mỗi người có tự do ý chí
và chỉ có thể được giúp đỡ tới mức ấy mà không thể đi xa hơn. (Winston
Churchill biết về điều này và nói như sau vào năm 1942: 'Thỉnh thoảng tôi có cảm
tưởng rất mạnh mẽ là có sự can thiệp. Tôi muốn nhấn mạnh là đôi khi tôi cảm thấy
có bàn tay hướng dẫn đã can thiệp vào. Tôi có cảm tưởng là chúng ta có người hộ
mạng vì chúng ta phục vụ cho chính nghĩa lớn lao, và chúng ta sẽ có được vị hộ
mạng này bao lâu mà chúng ta phục vụ trung thành cho chính nghĩa ấy.')
"Cũng ở nơi đây có những người quan tâm đến việc thực phẩm
cho nhân loại bị thiếu hụt, vì dân số địa cầu tăng hằng triệu mỗi năm. Thiên thần
giúp vấn đề này bằng cách gợi ý những phương pháp canh tác mới, các đề nghị đó
được gieo vào trí não của người sống trên trái đất, cho những ai có trách nhiệm
về vấn đề này trong khu vực của họ. Bằng cách này, ý tưởng và phương pháp mới
xuất hiện và dần dần được nhân loại dùng. Anh có thể dự vài hội nghị diễn ra ở
những cảnh trên và tự chứng minh những gì tôi nói với anh là đúng, nhưng không
chắc là anh có thể tiếp tục dự đến khi họ đi tới kết luận, vì chúng thường kéo
dài nhiều tuần hay nhiều tháng tính theo ngày giờ cõi trần, và lẽ tự nhiên là
anh phải trở về thân xác sau vài giờ thoát ra. Nhiều tiến bộ vĩ đại thường có
được ở những hội nghị như vậy, và đề nghị được đưa ra cho người sống trên đời,
cho phép nhân loại tiến triển về mọi mặt khác nhau.
"Có lẽ anh tự hỏi tại sao thế giới tiến bộ trong thế kỷ
này hơn là thế kỷ kia. Được như vậy là vì không những ngày nay ta có phương tiện
hàng không, vô tuyến, mà cũng là vì, nói chung nhân loại quả chậm chạp, họ đang
chú tâm dần đến việc giải quyết những vấn đề hiện có, và nhờ giải quyết ấy mà
khối đông được hưởng lợi. Nói khác đi, nhân loại càng tiến hóa hơn thì càng bớt
ích kỷ dần, nó chứng tỏ là ít nhất họ đã học được vài bài học mà cuộc sống dưới
cõi trần là nhằm để dạy cho tất cả chúng ta.
"Khó mà giải thích việc làm của thế giới thiên thần, vì
phương pháp họ dùng rất khác biệt với điều anh đã quen. Muốn hiểu nó anh phải
nhớ rằng thế giới thiên thần nắm quyền kiểm soát cái phần của sự sống ta gọi là
Thiên Nhiên như biển cả, gió mưa, việc dùng ánh sáng mặt trời trong canh nông,
và những chuyện như ngày giờ thích hợp trong năm để gieo các loại hạt khác
nhau. Tất cả đều thuộc về việc quản trị của thiên thần. Họ dự vào những cuộc thảo
luận với loài người khi hiểu biết chuyên môn và kinh nghiệm của họ có thể được
xử dụng. Thường thường họ truyền tư tưởng theo cách suy nghĩ của trí não mà
không bằng lời – nhưng họ có thể dùng lời khi cần phài làm vậy.
"Thỉnh thoảng anh nghe là giông bão, cuồng phong và động
đất làm bao nhiêu người thiệt mạng, tàn phá lớn lao và hằng triệu người mất nhà
cửa. Anh có thể tự hỏi làm sao ông Trời tốt lành lại để cho chuyện như vậy xẩy
ra, nhưng anh có thể tìm hiểu về nguyên nhân có thể có của những thảm nạn ấy
không ? Không phải là trước khi có tàn phá như vậy người ở các nơi ấy sống
trong điều kiện dễ sinh ra tội phạm hơn là tiến bộ ? Thảm nạn như tôi nói tới
có thể dễ dàng là phương tiện để làm một chính phủ lười biếng thức tỉnh trước
trách nhiệm của mình, và thường thì một kế hoạch tái xây cất được bắt đầu ngay
lập tức, để ai sống sót có thể được cư ngụ trong điều kiện thích hợp hơn trước.
"Thiên thần kiểm soát bão tố, động đất và theo kinh nghiệm
riêng tôi biết các ngài xót thương nhân loại rất nhiều, do sự mù quáng của nhân
loại mà khiến phải có tai hoạ như thế. Các ngài phân bố một số lớn thiên thần để
rước những người không may bị tử nạn trong các thiên tai đó, lúc họ chuyển từ
cõi trần sang cõi trung giới, làm những gì thiên thần có thể làm để giảm bớt nỗi
kinh hoàng của người bị thiệt mạng, và giúp họ làm quen với tình trạng mới.
"Chuyện cũng y vậy khi các thế chiến xẩy ra, vô số linh
hồn bị thảm tử vì vũ khí tối tân. Không có đủ người thuộc hàng ngũ nhân loại ở
cõi trung giới để đối phó với mức độ tàn sát khi hai đoàn quân quyết chiến với
nhau, thế nên hàng ngũ thiên thần sát cánh với người, làm tận lực trong quyền hạn
của họ để giúp ai bị sợ hãi khủng khiếp vào lúc qua đời. Quả thực có những lúc
người và thiên thần sánh vai nhau họp lực, mỗi bên phục vụ Thượng Đế theo hết
khả năng của họ.
"Nay tôi phải nói cho anh hay một chút về sự sống ở cảnh
thứ bẩy và là cảnh cuối cùng, cảnh cao nhất của cõi trung giới. Việc đầu tiên đập
vào mắt anh khi đến thăm nơi ấy là hoàn toàn không có nhà cửa, dinh thự. Không
có dấu hiệu nào là có ai cư ngụ, nhưng anh sẽ thấy có người sống thường trực ở
đó tuy họ làm đủ mọi cách trong vòng khả năng của mình để xua đuổi khi có ai
khác đến gần. Người như vậy tin rằng việc tiến hóa của họ chỉ có thể làm được bằng
cách ở ẩn hoàn toàn và sống đời thinh lặng. Khi ở dưới trần họ là đạo sĩ, sống
xa lánh người đời ở nơi thâm sơn cùng cốc, hay trên đỉnh núi chơ vơ ít có ai
lên tới. Những người này dành trọn cả đời để tham thiền, nhịn đói và sống đời
mà thế gian gọi là khổ hạnh.
"Người như vậy vẫn y thế ấy sau khi chết, và tới ngày giờ
thì họ lên đến cảnh thứ bẩy của cõi tình cảm, tiếp tục đời tham thiền ở đó. Anh
thấy họ trong kiếp dưới trần là tu sĩ thuộc những dòng tu tịnh khẩu hoàn toàn
giữ im lặng, và sống đời tách biệt với người thường. Những người này đã quen với
cảnh sống một mình, cầu nguyện nhiều giờ trong ngày để giúp nhân loại nên sau
khi chết muốn có sự tĩnh lặng ấy bằng cách tiếp tục lối sống họ đã theo nhiều
năm trên đời. Ở cõi trung giới họ không cần phải đi tìm hang hốc hay cất nhà để
ở, cũng không cần thực phẩm để sống nên thường là họ sống giữa khoảng không,
trong rừng và nơi xa xôi khuất nẻo, chỗ dễ dàng cho họ được ở yên không bị quấy
rầy.
"Cộng thêm với người thuộc nhân loại, ở cảnh giới này
anh sẽ gặp vô số thiên thần tiến hoá cao làm việc nơi đây, nhưng không có tiếp
xúc chút nào với nhân loại. Anh cũng sẽ gặp những người mà thời gian sống ở cõi
trung giới đã xong, họ cần đi ngang qua
cảnh thứ bẩy để lên cõi trí, trên đường trở về phần cao cả trong người họ là
chân nhân hay linh hồn, nó cư ngụ ở những cảnh cao của cõi trí gọi là cõi thượng
trí (tức ba cảnh cao của cõi trí). Những người này thường có người hướng dẫn đi
cùng với mình lên cảnh thứ bẩy, hướng dẫn viên cũng là người như họ nhưng tiến
hóa hơn và là linh hồn già dặn hơn; phần việc đặc biệt của các hướng dẫn viên
là giải thích chi tiết chuyện "Chết lần Thứ Hai' nghĩa là gì.
"Con đường từ cõi tình cảm sang cõi trí hoàn toàn không
có gì đau đớn mà chỉ là việc bỏ rơi một lớp vỏ. Người hướng dẫn có phần việc là
trình bầy để những người này không có chút sợ hãi nào trong trí, vì tuy tất cả
chúng ta đi cùng đường này nhiều lần trước đó mỗi khi xong một kiếp ở cõi trần,
nhưng ta không nhớ lại đoạn đường đã qua, bởi mỗi lần tái sanh dưới trần ta có
thể xác, tình cảm và trí hoàn toàn mới, chúng không mang theo ký ức chi tiết của
những kiếp trước. Việc đi từ cõi tình cảm sang cõi trí là chuyện nằm ngoài tầm
kiểm soát của người trung bình và khi tới lúc phải làm vậy, họ bắt buộc phải bỏ
lại thể tình cảm vì lẽ giản dị là họ không còn kinh nghiệm nào phải học thêm ở
cõi đó. Khi ấy họ bắt buộc phải sang cõi trí để củng cố sự phát triển trí năng
mà họ đã hoàn tất trong kiếp dưới trần, và thêm nó vào khối hiểu biết chứa
trong hạt nguyên tử trường tồn (Permanent Atom), tượng trưng cho tất cả những
kiếp đã qua của họ.
"Sau khi nhận được tất cả chỉ dẫn cần thiết về việc đi
sang cõi mới, người ta dần dần thiếp ngủ và gần như tỉnh giấc ngay tức thì ở
cõi trí, và trong giấc ngủ ngắn ngủi họ thải bỏ hẳn thể tình cảm của mình. Bạn
bè chào đón họ bên cõi trí y như khi bạn bè tiếp rước họ lúc qua đời và từ cõi
trần bước sang cõi tình cảm. Họ bắt đầu cảnh sống hoàn toàn mới lạ, trong trường
hợp người trung bình thì cảnh sống này thường ngắn hơn nhiều so với thời gian ở
cõi trung giới, tuy ai tiến hóa thì sống ở cõi trí lâu hơn.
Thể tình cảm mà người ta bỏ lại khi sang cõi trí sẽ tan rã
sau một thời gian, hoàn trở về khối vật chất ở cõi tình cảm. Trong giai đoạn
tan rã đó, thể có hình giống y như chủ nhân sử dụng nó trước đó. Anh cần hiểu rằng
nó chỉ là cái vỏ nhưng bởi chất liệu cõi tình cảm rất uyển chuyển, nó có thể di
động tới lui và với ai chưa kinh nghiệm thì dường như nó còn sự sống. Tôi đã thấy
người còn ở dưới trần mà lên thăm cảnh thứ bẩy, ngạc nhiên khi thấy mình không
thể bắt chuyện với mấy cái vỏ trôi vật vờ. Vỏ không phải là xác loại bỏ theo
nghĩa thân thể là tử thi sau khi chết, bởi tuy cái vỏ không còn nối kết chút gì
với con người thật hay chủ nhân đã bỏ nó, nhưng vỏ vẫn còn giữ lại một ít sức sống.
Thực vậy bao lâu vỏ chưa tan rã hoàn toàn thì cái vỏ vẫn nghĩ nó là người đó,
chỉ vì nó là một phần hay cái bóng của người đã đi khỏi.
"Trong những buổi cầu hồn đôi khi chúng ta thấy có hiện
hình đủ loại, sự thực là thay vì người đồng tiếp xúc được với chính một ai, họ
chỉ tiếp xúc được với cái vỏ của người ấy – điều này có thể xảy ra khi người ấy
đã qua đời nhiều năm. Bạn của khách trong buổi cầu hồn có vẻ như trở lại cõi trần
và nói chuyện với họ, nhưng về nhiều mặt không thấy bạn khôn ngoan như hồi còn
sống, thấy như họ suy sụp. Ấy là chuyện bất khả, người ta không thể thoái hoá
mà tiến bộ hơn khi sang cõi bên kia, vì vậy bất cứ khi nào gặp trường hợp như
trên, có thể tin chắc rằng đó không phải là chính người ấy mà chỉ là cái vỏ, phần
bị con người thật bỏ lại sau.
"Tuy cái vỏ không linh hoạt nhưng rất có thể là các sinh
vật khác nhập vào đó, dùng nó làm thể tạm thời và giả dạng là chủ nhân hợp
pháp. Ai quá vãng đang sống ở cõi tình cảm thường làm việc ấy để đùa cợt gạt gẫm
người khác, hay các tinh linh rắn mắc ưa phá khuấy, chiếm lấy một vỏ, tròng vào
người như ta tròng áo khoác và giả dạng là chính họ. Ai giả dạng bên trong cái
vỏ rất dễ đưa bằng chứng rằng mình là chủ, bởi những gì chứa trong não bộ của
chủ nhân chính hiệu lúc còn sống sẽ truyền qua phần tương ứng của thể tình cảm,
và sẽ được giữ lại trong đó cho bất cứ thực thể nào tới chiếm và giả dạng chủ
nhân của vỏ lấy dùng. Có nhiều trường hợp người nghiên cứu có thông nhãn
(clairvoyance) đủ để thấy đằng sau cái vỏ có thể khẳng định, nhưng bất cứ ai
nghiên cứu phải hết sức cẩn thận, vì tuy cái vỏ không còn sự sống của chủ nhưng
nó có thể được làm sinh động bên trong hào quang của người đồng. Anh có thể tiếp
xúc với vỏ sau này, và có một điều anh biết chắc được là chúng không có gì nguy
hiểm và không thể gây hại cho anh.
"Tới đây chấm dứt câu chuyện hôm nay của tôi. Chắc hẳn
anh ý thức rằng nó hoàn tất việc trình bầy rất ngắn ngủi của tôi về sự sống
trong những cảnh khác nhau của thế giới kế cõi trần. Tôi muốn anh chuẩn bị một
số câu hỏi để tôi trả lời vào sáng mai. Sau đó khi anh tự mình thí nghiệm nhiều
ngày, tôi sẽ trở lại và cho anh hay đôi điều về cảnh sống nơi cõi trí. Tôi
không thể cho nhiều chi tiết về cõi này giống như đã nói về cõi tình cảm, vì
khó mà nói về những chuyện xảy ra ở cõi trí và so sánh chúng với cái giống vậy ở
cõi trần.
"Sự sống ở cõi đó rất khác biệt so với đây vì mọi việc
có liên hệ đến tư tưởng. Ở đây anh có bàn ghế, nhà cửa, ở cõi trí tư tưởng là
bàn ghế, nhà cửa– thực vậy không có gì ở đó ngoài tư tưởng – nên anh có thể thấy
rõ khó khăn của tôi. Chắc tôi cũng sẽ đưa anh đi một chuyến ngắn để thăm cõi
trí, với hy vọng anh có thể nhớ đôi chút về điều cảm nhận hơn là thấy ở đó,
nhưng sau này tôi sẽ nói nhiều hơn.
"Mai tôi sẽ trở lại vào giờ thường lệ và hy vọng bản câu
hỏi của anh sẽ sẵn sàng."