Thông-Thiên-Học
thâm nhập vào Việt-nam từ năm 1923, và bắt đầu phổ biến vào năm 1928, tới nay nhiều
năm đã trôi qua. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người chưa biết Thông-Thiên-Học là
gì? Cứ đinh ninh là một Tôn-giáo mới và
hỏi nó có giải thoát cho con người được không?
Vậy tôi xin giải
đáp 3 nghi vấn.
1. Thông Thiên Học là gì?
2. Có phải là một Tôn giáo mới không?
3. Có giải thoát cho con người được không?
I. THÔNG-THIÊN-HỌC LÀ GÌ?
Thông-Thiên-Học
vốn dịch chữ Théosophie của pháp mà chữ Théosophie của pháp lại do chữ Hi-Lạp mà ra.
Chiết tự chữ
Théosophie thì:
Théos: Dieu: Thượng-Ðế
Sophia: Sagesse: Minh-Triết.
Théosophia: Sagesse de Dieu ou Sagesse divine
Minh-Triết của Thượng-Ðế hay là
Minh-Triết Thiêng-Liêng.
AI ÐẶT RA DANH TỪ THÉOSOPHIA? _ KHÔNG AI BIẾT CẢ.
AI DÙNG DANH TỪ THÉOSOPHIA ÐẦU TIÊN?
Con người dùng
danh từ Théosophia đầu tiên là nhà Ðại Hiền Triết Hi-Lạp tên Ammonius, tục gọi
là Saccas hay Ammonius Saccas ( Cuối thế kỷ thứ hai Tây lịch kỷ nguyên). Ngài dạy tại trường Alexandrie ( Ai-Cập) và
sáng lập ra phái Tân Triết học Platon. Ba
vị cao đồ của Ngài là: Plotin. Longin,
và Origene.
Nhưng mãi tới thế
kỷ thứ 13, danh từ Théosophia mới được thông dụng ở Tây phương, chớ không phải
bà Blavatsky đặt ra chữ Théosophia.
DANH TỪ MINH TRIẾT
THIÊNG LIÊNG ÐÃ CÓ TỪ NGÀN XƯA
Tuy nhiên danh từ
Minh Triết Thiêng-liêng đã có từ ngàn xưa bên Ấn-độ.
Trong những kinh
Ưu-bà-ni-sa-đà và Phệ Ðà (Upanishads et Védas) người ta thường gặp danh từ
Brahma Vidya.
Chiết tự ra thì:
Brahma : Dieu : Thượng-Ðế.
Vidya: Sagesse : Minh-Triết.
Brahma Vidya : Sagesse de Dieu ou
Sagesse divine.
Brahma Vidya là Minh Triết của Ðức
Thượng-Ðế hay là Minh-Triết Thiêng-Liêng.
Tới đây chắc chắn
quí bạn đã thấy mặc dầu danh từ Théosophia của Hi-Lạp đồng nghĩa với Brahma
Vidya của Ấn-Ðộ song nó sanh ra sau lâu lắm, sau cả chục ngàn năm. Bao nhiêu đây cũng đủ chứng minh rằng: Chơn
lý vẫn một và vị đặt ra danh từ Théosophia đã đắc đạo. Danh từ Thésophia dịch ra tiếng Việt là
Thông-thiên-học là một sự miễn cưỡng, mặc dầu Thông-thiên-học có nghĩa là thông
suốt lẽ trời.
Gọi nó là Ðạo,
đúng hơn.
MINH-TRIẾT
THIÊNG-LIÊNG LÀ GÌ?
Nói cho đúng
Minh-Triết Thiêng-Liêng là một trạng thái của Ngôi thứ nhì của Thượng-Ðế. Ðem dùng ở trần thế, nó có nghĩa là pháp môn
của các Ðấng Thiêng-Liêng cao cã đã dự phần vào việc sanh hóa Thái Dương Hệ nầy
dùng để đào tạo những vị phụ tá Thiên-cơ, những Ðấng Cứu-Thế mà tùy theo cấp bực
người đời gọi là Thánh-nhơn, Hiền-Triết, là Tiên là Phật là Bồ Tát, là Giáo-chủ
vân vân.
Các Ngài truyền
dạy lại các tín-đồ đã được chọn lựa vì hội đủ những điều kiện, trước nhứt là hạnh
kiểm, do Luật Trời đã qui định, cho tới chừng nào mấy vị đệ tử nầy đắc đạo
thành chánh quả như các Ngài vậy. Rồi cứ tiếp tục như thế từ hồi Thái-Dương-Hệ mới
sanh ra cho tới ngày nay và mai sau nữa.
Mối đạo không bao giờ dứt.
II. THÔNG-THIÊN-HỌC CÓ PHẢI LÀ TÔN-GIÁO MỚI
KHÔNG?
Không_
Thông-Thiên-Học không phải là tôn-giáo mới như nhiều người đã lầm tưởng, nó
không có một vị Giáo-chủ, không có những tín điều, không có những cách lễ bái,
thờ phượng như các Tôn-giáo.
Nó có trước thuở
khai thiên tịch-địa, vì nó là trạng thái cố hữu của Thượng-Ðế và Thái-Dương-Hệ
nầy do Ðức-Thượng-Ðế sanh ra. Nó là
Chơn-Lý Tuyệt-Ðối, cội rễ của Tôn-giáo, các Khoa-học và các Triết-học dưới trần.
THÔNG-THIÊN-HỌC
DẠY CÁI CHI?
Thông-Thiên-Học dạy 3 điều đại khái
sau đây :
Một là : Lý do sanh hóa một
Thái-Dương-Hệ.
Hai là : Bản tánh Thiêng-Liêng của
con người.
Ba là : Sự tương quan giữa con người và vũ-trụ.
A. LÝ DO SANH HÓA THÁI-DƯƠNG-HỆ
Thái-dương-Hệ của
chúng ta sanh ra đây chỉ có một mục đích mà thôi, là đưa các loài vật, trước nhất
là con người , lên tới bực siêu-phàm, toàn-năng , toàn thiện; được 5 lần điểm đạo, người mình gọi là
Chơn-tiên. Chơn-tiên không còn cái chi học hỏi và kinh-nghiệm trên dãy Ðịa-cầu
nầy nữa. Ngài đã hoàn toàn thoát khỏi
vòng nghiệp quả Luân-hồi của Trần-thế.
SỰ TIẾN HÓA CỦA
CON NGƯỜI
Sự tiến hóa của
con người từ bực thường nhơn cho tới địa vị siêu-phàm đòi hỏi một thời gian rất
dài và rất lâu, từ năm, sáu trăm triệu năm sắp lên và cũng có thể tới cả ngàn
triệu năm nếu con người bê tha không lo tu tỉnh.
Con người phải
lo học hỏi và kinh nghiệm những Luật-Trời hành động trong 5 cõi, bắt dưới kể
lên thì như vầy :
7.)Cõi thứ 7 là cõi
Trần hay là Hạ-giới (Plan physique).
6.)Cõi thứ 6 là
cõi Dục-giới hay là cõi Trung-giới (Plan Astral).
5.)Cõi thứ 5 là
cõi Trí-tuệ hay là cõi Thượng-giới cũng gọi là Thiên-Ðường(Plan mental).
4.)Cõi thứ 4 là
cõi Bồ-Ðề (Plan Bouddhique).
3.)Cõi thứ 3 là
cõi Niết-Bàn (Plan Nirvanique ou Nirvana).
Mà cũng phải con
người sanh ra tại quả Ðịa-cầu nầy mà
thôi, con người phải qua 6 bầu hành tinh khác thuộc về dãy Ðịa-cầu chúng ta đặng
mở mang sự hiểu biết về Luật sanh hóa và tiến hóa của vạn vật trên những thế
gian khác nhau.
Dãy Ðịa-cầu
chúng ta gồm 7 bầu hành tinh kể ra sau đây :
1.)Bầu thứ nhứt
A_ không có tên
2.)Bầu thứ nhì
B_ không có tên
3.)Bầu thứ ba C_
Hỏa-Tinh (Mars)
4.)Bầu thứ tư D_
Trái đất minh (Terre)
5.)Bầu thứ năm
E_ Thủy-tinh (Mercure)
6.)Bầu thứ sáu
F_ không có tên
7.)Bầu thứ bảy
G_ không có tên
Trước hết con
người sinh ra tại bầu thứ nhứt A đặng học hỏi kinh nghiệm. Hết bầu thứ nhứt A thì qua bầu thứ nhì B rồi
mới tới bầu thứ ba C, bầu thứ tư D, bầu thứ năm E, bầu thứ sáu F, và bầu thứ bảy
G. Trên mỗi bầu hành tinh đều có những
bài học khác nhau. Khi đi giáp một vòng
gồm bảy hành tinh thì gọi là trải qua một cuộc Tuần Huờn (Une Ronde).
Con người phải
đi qua 7 lần như vậy, nghĩa là hết 7 cuộc Tuần-Huờn mới có thể thuộc hết những
bài phải học hỏi và trở nên một vị Siêu-phàm.
Tôi xin lưu ý bạn điều nầy là : Danh từ con người mà tôi dùng đây là ám
chỉ linh hồn hay là Chơn nhơn chớ không phải xác thân nầy hữu hình hữu hoại đâu. Khi con người qua ỡ bầu hành tinh nào thì xác
thân phải làm bằng chất khí đã cấu tạo ra bầu hành tinh đó, nhờ thế con người mới
sống và hoạt động tại bầu đó được.
LUÂN-HỒI
Vì thế con người
phải đầu thai đi, đầu thai lại không biết mấy muôn lần như vậy. Con người thay
hình đổi dạng mãi, có kiếp làm đàn ông, có kiếp làm đàn bà chớ không phải giữ
luôn một giống, hoặc nam, hoặc nữ, bỡi vì mỗi kiếp mỗi giống đều có những bài học
khác nhau, càng ngày càng khó khăn thêm, cũng như ban đầu ở ban Tiểu học, kế đó
ban Trung học rồi mới lên tới bực Ðại-học vậy.
NHÂN-QUẢ
Càng ngày càng
có nhiều kinh-nghiệm thì con người càng trở nên khôn ngoan hơn trước vì thấy rằng
mỗi khi con người chìu theo ý muốn của mình làm sái hoặc làm nghịch với Luật-Trời
hay là Luật Công-bình và nhân-ái thì có sự phản động lại làm cho con người phải
chịu đau khổ. Con người phải lảnh lấy
cái hậu quả không tốt đẹp của những hành động quấy quá của mình.
Người ta gọi là
gieo nhân thì gặt quả. Con người biết luật
trời rồi thì nương theo đó mà tiến tới.
Nói tóm lại luật
nhân quả là Luật thăng-bằng của Vũ-Trụ. Nó điều chỉnh công việc làm của chúng
ta cho đúng với Luật-trời.
BÊN KIA CỬA TỬ
Theo luật tiết-điệu,
hết ngày thì tới đêm, hết đêm thì trở lại ngày.
Hết lúc làm việc thì tới lúc nghĩ ngơi rồi làm việc lại. Mỗi kiếp sau khi làm xong nhiệm vụ hay là trả
quả xong rồi thì con người bỏ xác phàm tục gọi là chết.
Con người qua
cõi Trung-giới ở ít lâu rồi về Thiên-đường
nghĩ ngơi một thời gian đặng đồng hóa những điều đã học hỏi và kinh nghiệm hồi
còn ở thế gian trước khi xuống trần đầu thai một lần nữa đặng tiếp tục giai đoạn
tiến hóa kế tiếp.
Các nhà đạo đức
điều biết rằng : sự chết là một cái cửa mà mọi người phải đi qua đặng tiến lên
một bực.
Kiếp sống con
người tại thế gian chỉ là một ngày trong một xâu chuổi ngày, dài vô tận mà
thôi, cả thảy điều liên quan mật thiết với nhau.
Kiếp nầy là kiếp
trước và kiếp sau là kết quả của kiếp nầy.
Dẫu cho những Thái-dương-hệ trên không gian vô tận cũng thế. Cã thảy điều phải phục tùng Luật-nhân-quả củng
như kiếp sống cũa con người vậy.
B. BẢN TÁNH THIÊNG-LIÊNG CỦA CON NGƯỜI
Con người vốn là
Chơn-thần, một điểm linh quang của Ðức Thượng-đế, vì thế bổn tánh của con người
vốn thiêng-liêng.
C. SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA CON NGƯỜI VÀ VŨ-TRỤ
Muốn giải sự
tương quan giữa con người và vũ-trụ thì phải nói về :
a)
Trạng thái 3 ngôi của Thượng-đế và
b)
Những cỏi Trời và những thể của con người dùng đặng tiến hóa.
BA NGÔI CỦA THƯỢNG-ÐẾ
Ðức Thượng-đế
(Dieu ou Logos Cosmique) hay là Ðức Thái-dương Thương-đế (Logos d’un systeme
solaire) cũng phân làm 3 ngôi.
Muốn giải sự
tương quan giữa con người và vũ-trụ thì phải nói về
1. Ngôi thứ nhứt
Ấn-giáo gọi là
Shilva ( si-hoa)
Thiên-chúa-giáo
gọi là Ðức-chúa-cha(Dieu, le Pere)
2. Ngôi thứ nhì
Ấn-giáo gọi là
Vishnou ( Quích-nu )
Thiên-chúa-giáo
gọi là Ðức-chúa con ( Dieu, le Fils )
3. Ngôi thứ ba
Ấn-giáo gọi là
Brahma ( Phạn-vương )
Thiên-chúa-giáo
gọi là Ðức-chúa-thánh-thần (Dieu, le Saint-Esprit)
TRẠNG THÁI BA
NGÔI CỦA THƯỢNG-ÐẾ
Trạng thái của
ngôi thứ nhứt là : Ý-chí (Volonte)
Trạng thái của
ngôi thứ nhì là : Minh-triết, Bác-ái (Sagesse
Amour)
Trạng thái của
ngôi thứ ba là : Hoạt-động cũng gọi là Trí-tuệ sanh hóa (Activite ou
Intelligence creatrice)
Ngôi thứ nhì
phân chia âm-dương, tinh-thần và vật-chất, sự sống và hình thể.
BA NGÔI CỦA CON
NGƯỜI
Con người cũng
phân làm ba ngôi :
1) Ngôi thứ nhứt là Chơn-thần Monade.
2) Ngôi thứ nhì là Chơn-nhơn Soi Superieur Individualite-ego.
3) Ngôi thứ ba là Phàm-nhơn-personnalite-Soi
enferieur.
BA NGÔI CỦA
CHƠN-NHƠN
Chơn-nhơn cũng
phân làm 3 ngôi :
1) Ngôi thứ nhứt Atma Ắt-ma.
2) Ngôi thứ nhì Boud dhi
Bồ-đề.
3) Ngôi thứ ba
Manas Trí-tuệ.
TRẠNG TRÁI CỦA
BA NGÔI CỦA CHƠN-NHƠN
Trạng thái của
ngôi thứ nhứt Atma là Ý-chí ---Volonte.
Trạng thái của
ngôi thứ nhì Boudhi là Minh-triết_ Bác-Ái-Sagesse-Amour.
Trạng thái của
ngôi thứ ba là Manas là Hoạt-động ---Activite ou Intelligente creatrice hay là
Trí-tuệ sanh hóa.
NHỮNG CÕI TRỜI
VÀ NHỮNG THỂ CỦA CON NGƯỜI DÙNG ÐẶNG TIẾN-HÓA
Trong chu kỳ nầy
con người có 7 thể để học hỏi, kinh-nghiệm và hoạt động trong 5 cõi Trời, bắt dưới kể lên thì như vầy:
Thể thứ bảy là
xác-thân (Corps physique) và
Thể thứ sáu là
cái Phách (Double étherique) để dùng tại cõi Trần bởi vì chúng nó làm bằng chất
khí đã cấu tạo ra cõi Trần. Xác-thân để
hoạt-động, còn cái phách để thu hút sanh lực prana vô mình để kết hợp các tế
bào và nuôi dưỡng các cơ thể.
Thể thứ năm__Cái
Vía__(Corps Astral) để dùng tại cõi Trung-giới hay là Dục giới vì nó làm bằng
chất khí của cõi nầy.
Cái Vía cũng để
biểu hiện những ý muốn và tình-cảm.
Thể thứ tư là Hạ-Trí
(Corps mental inferieur).
Thể thứ ba là
Thượng-trí (Corps mental superieur). Hai
thể nầy dùng tại cõi Thượng giới hay là cõi Trí-tuệ bởi vì chúng nó làm bằng chất khí của cõi nầy.
Hạ-trí sanh ra
những tư-tưởng hữu hình, nó để học hỏi, phân biện, xét đoán, ghi nhớ, tưởng tượng.
Thượng-trí để
sanh ra những tư-tưởng thanh bai, trừu-tượng, vô hình.
Người ta gọi nó
là Nhân-thể (Corps causal) bởi vì nó chứa đựng những nguyên nhân, ngày sau sanh
ra những hậu quả.
Thể thứ nhì là
thể Bồ-Ðề (Corps Bouđhique) cũng gọi là Kim-thân, hay là thể Trực-giác.
Nó để dùng tại
cõi Bồ Ðề bởi vì nó làm bằng chất khí của cõi nầy.
Thể thứ nhứt là
thể của Atma cũng gọi là Tiên-thể hay là Thể Thiêng-liêng (Corps Atmique). Nó để
dùng tại cõi Niết-Bàn. Bởi vì nó làm bằng
chất khí của cõi nầy.
Còn hai thể nữa
để dùng tại cõi Ðại-Niết-Bàn (Paranirvana) và Tối Ðại-Niết-Bàn
(Mahaparanirvana), phải tu hành tới bực Chơn-Tiên mới biết được.
CON NGƯỜI LÀ TIỂU-THIÊN-ÐỊA
Bởi con người là
Chơn-Thần, có đủ quyền năng của Ðức-Thượng-Ðế mặc dầu chưa hoàn toàn khai mở và
xử dụng và cũng bởi những thể của con người dùng đều làm bằng chất khí đã cấu tạo
ra những cõi của Thái-dương-hệ cho nên các Thánh kinh trên Ðịa-Cầu mới gọi con người
là Tiểu-Thiên-Ðịa và đồng công nhận rằng: có sự tương quan giữa con người và
Vũ-trụ. Thật đúng như vậy.
III.
THÔNG-THIÊN-HỌC CÓ GIẢI THOÁT CHO CON NGƯỜI ÐƯỢC KHÔNG?
Các nhà Ðạo học
uyên-thâm đều biết rằng có hai con đường đắt đến mục tiêu của Ðức Thái-Dương
Thượng-Ðế đã định sẳn cho con người trong Tiểu Vũ-trụ của chúng ta, nhiều kinh
sách đã nói bóng dáng về hai con đường nầy.
CON ÐƯỜNG THỨ NHỨT
Con đường thứ nhứt
đi vòng quanh khu ốc 7 lần như vậy mới tới chót núi, nơi đó có một tòa Thánh-Ðiện
ngày đêm chiếu ra muôn Ðạo Kim-Quang.
Con đường nầy rộng
thinh thinh, rất mát mẽ và êm dịu vô cùng.
Hai bên tòng bá sum-sê, cỏ hoa tươi tốt phô bày hương sắc để quyến rủ
khách lữ hành. Những người hành hương đều
dừng chơn lại để thưởng thức những thú vui vô tận. Họ trửng giởn, nô-đùa, hái bông, bắt bướm, nằm
dài trên những bải cỏ xanh, thả hồn theo mộng, chớ không thiết tha với sự tiến
bộ của họ. Họ thích nghỉ ngơi hơn là bước
đi.
Trong một thời
gian mấy trăm triệu năm, trải qua muôn kiếp luân-hồi mà họ chưa đi tới Tòa
Thánh-Ðiện ở mút con đường.
CON ÐƯỜNG THỨ
NHÌ
Con đường thứ
nhì rất chật hẹp, gồ-ghề, dốc đứng, đầy những đá lởm chởm bén như lưỡi dao cạo;
hai bên thì vực sâu hố thẩm, nếu không khéo bước thì đứt chơn và té lên, té xuống.
Con đường nầy rất
vắng-vẻ, từ thế-hệ nầy qua thế-hệ kia, người ta chỉ thấy vài ba nhóm người hành
hương đi lai rai trên những chặng đường trống trơn. Họ cố gắng leo trèo mệt nhọc, nhưng không bao
giờ nãn lòng.
Trong một thời
gian sau, lối ba bốn chục kiếp, họ đi tới Tòa Thánh Ðiện trước chúng bạn đồng
hành chọn lựa con đường thứ nhứt êm đẹp hơn.
Hai con đường nầy
là hai con đường nào?
Thông-Thiên-Học
dạy rằng:
Con đường thứ nhứt
là con đường Ðời, con đường tấn hóa bình thường của nhơn-loại, tràn ngập những
khách hành-hương. Nó dài lắm. Dường như chạy tới tận chơn trời. Ði theo con đường nầy rất dễ dàng nhưng thường
bị thất bại.
Con đường thứ
nhì là con đường tắt, dắt dẫn đến cửa Ðiểm-Ðạo, người ta gọi là con đường Ðạo. Ít ai muốn đi theo con đường nầy, vì nó bắt
buộc khách lữ hành phải trường trai, khổ hạnh, tu tâm, khắc kỷ, giờ phút nào
cũng phải chiến đấu với bản thân cho tới chừng nào được hoàn toàn tự chủ. Cứ cho ra mãi mà không thâu vô, chỉ lo phụng
sự mà không đòi hỏi công đức hay cầu xin lợi lộc cho mình.
Con đường nầy là
con đường hy sanh. Bãn ngã thấp hèn, dứt
bỏ hạnh phúc phù du, giả tạo, cái mà tất cả người đều quí chuộng, triều mến, đặng
bước vào cửa Ðạo.
TẠI SAO PHẢI BƯỚC
VÀO CỬA ÐẠO
Phải bước vào cửa
Ðạo bởi vì trong đó mới có sự dạy dỗ về Cơ Tiến-hóa đúng với sự thật. Người ta giải cho sanh-viên biết lần lần tất
cả những sự bí mật của Tạo-công về sự sanh hóa các loài vật trên dãy Ðịa-cầu. Có những phương pháp luyện tập đặng mở mang
và xử dụng những quyền-năng còn tiềm tàng trong mình. Những quyền-năng nầy biến đổi con người thành
ra một vị Tiểu-Thượng-Ðế, toàn năng, toàn thiện, toàn giác để phụ-tá Thiên-cơ,
trong một thời gian ngắn ngủi chín, mười ngàn năm, thay vì phải chờ đợi năm,
sáu trăm triệu năm như người thường mới phát triển tột bực được. Bước vào cửa Ðạo tức là thâu ngắn con đường
hành-hương của mình.
MUỐN BƯỚC VÀO CỬA
ÐẠO PHẢI HỘI ÐỦ NHỮNG ÐIỀU KIỆN NÀO
Muốn bước vào cửa
Ðạo, kẻ chí-nguyện phải hội đủ bốn đức tánh đã giải rành rẽ trong hai quyển:
Dưới Chơn-Thầy
(Aux pieds du Maitre) và
Con đường của
người Ðệ-Tử (Le sentier du disciple ấy là:
1) Ðức tánh thứ nhất: Phân-biện
2) Ðức tánh thứ nhì: Ðoạn-tuyệt
3) Ðức tánh thứ ba: Hạnh-kiểm tốt. Ấn-giáo gọi là Shatsampatti (6 tánh tốt)
4) Ðức tánh thứ tư: Lòng từ-ái. Ấn-giáo gọi là Moumouksha: muốn được giải-thoát.
ÐIỂM ÐẠO LẦN THỨ
NHỨT (1ere Initiation)
Thí sanh phải
phát triển bốn đức tánh nầy tới một mức độ do Luật-Trời qui định mới được điểm
đạo lần thứ nhứt.
Vị đệ-tử được điểm-đạo
lần thứ nhứt, Phật-giáo gọi là Sotapanna- Tu-đà-Huờn có nghĩa là nhập-lưu, tiếng
pháp là Entre dans le courant. Anh đã
vào dòng tiến hóa của những bực siêu-phạm.
Ấn-giáo gọi anh
là Parivrajaka- Người đi ta bà, Vô trú.
ÐIỂM ÐẠO LẦN THỨ
NHÌ (2e Initiation)
Vị Tu-Ðà-Huờn phải
chặt đứt 3 xiềng xích hay là 3 chướng ngại sau nầy mới được điểm-đạo lần thứ
nhì
Chướng ngại thứ
nhứt-- Phàm nhơn là ảo ảnh.
Chướng ngại thứ
nhì-- Hoài nghi hay là mơ hồ (không tin có Luân-Hồi Nhân-quả),
Chướng ngại thứ
ba-- Mê-tín Dị-đoan.
Vị Ðệ-tử được điểm-đạo
lần thứ nhì, Phật-giáo gọi là Sakridagamin Tư-đà-hàm hay là Nhứt Lai. Anh chỉ trở lại thế gian một lần nữa mà thôi,
bởi vì kiếp sau anh lên tới địa vị La-Hán và được quyền ở lại cõi Bồ-Ðề tu luyện,
khỏi xuống trần đầu thai nữa.
Ấn-giáo gọi anh
là Koutichaka, nghĩa là người đã dựng được một túp lều.
ÐIỂM-ÐẠO LẦN THỨ
BA (3e Initiation)
Giữa hai kỳ điểm-đạo,
lần thứ nhì và lần thứ ba không có chướng ngại nào phải dứt bỏ. Tuy nhiên vị Tu-đà-hàm phải lo phát triển những
đức tánh đả có càng ngày càng thêm rộng lớn, nhứt là tánh Khiêm-tốn. Phải tận tâm, tận lực giúp đời và sống một đời
sống tinh-thần nghĩa là biết mình chẵng những là một với Thượng-Ðế mà cũng còn
là một với chúng sanh, từ loài kim thạch, thảo mộc, cầm thú, cho tới con người. Ðúng công phu rồi thì anh được điểm-đạo lần
thứ Ba.
Phật-giáo gọi vị
đệ-tử được điểm đạo lần thứ Ba là Anagamin-A-na-hàm--- Bất Lai, nghĩa là anh
không trở lại thế gian nữa.
Nội kiếp nầy anh
lên tới địa vị La-Hán khỏi phải tái sanh.
Ấn-giáo gọi anh
là Hamsa Thiên-Hạc. Tục truyền rằng đứng
trước một chậu đựng sữa pha nước, con Hạc biết phân-biệt cái nào là sữa, cái
nào là nước.
ÐIỂM-ÐẠO LẦN THỨ
TƯ (4e Initiation)
Vị A-na-hàm phải
chặt đứt hai chướng ngại sau nầy mới được điểm-đạo lần thứ tư,
4 Chướng ngại thứ tư Dục tình do giác quan
sanh ra hay là Dục vọng Hồng-trần.
5 Chướng ngại thứ năm Oán-ghét, thù hận.
Mới nghe qua thì
ta lấy làm lạ lắm. Tu hành tới bực nầy rồi
mà còn oán ghét, giận hờn, đắm mê sắc dục ư ?
Nhưng vật-chất có quyền-năng quyến rủ lạ thường, nếu ơ hờ thì sẽ sa vào
cạm bẩy. Phải đề phòng từ chút mới được.
Vị đệ-tử được 4
lần điểm-đạo, Phật-giáo gọi là Arhat La-Hán có nghĩa là Ðại-Ðức Tôn-giả.
ÐIỂM-ÐẠO LẦN THỨ
NĂM (5e Initiation)
Vị La-Hán mới đi
có phân nữa Ðường-Ðạo Ngài còn phải lo chặt đứt 5 chướng ngại chót là:
Chướng ngại thứ sáu Muốn sống
trong cõi hữu hình.
Chướng ngại thứ bảy Muốn sống
trong cõi vô hình.
Chướng ngại thứ tám
Kiêu-căng.
Chướng ngại thứ chín Tâm trí
còn xao động.
Chướng ngại thứ mười Vô-minh.
Mười chướng ngại
nầy Phật-Giáo gọi là Samyo Jana. Phá tan
bức màn vô-minh rồi vị La-Hán trở nên hoàn toàn sáng suốt. Ngài không còn cái chi học hỏi trong dãy địa-cầu
nầy nữa.
Ngài được 5 lần
Ðiểm-Ðạo làm một vị Siêu-phàm. Phật-giáo
gọi Ngài là A-sơ-ca (Aseka). Aseka có
nghĩa là không còn làm đệ-tử nữa.
Ấn-giáo gọi là
Jivanmoukta, nghĩa là Linh-hồn đã được giải-thoát.
Bực trung vị
Tu-đà-hườn phải đầu thai 7 kiếp mới lên tới bực La-Hán và vị La-Hán cũng phải
tu luyện trong 7 kiếp nữa mới làm được một vị Chơn-Tiên. Tất cả là mười bốn kiếp, song thời gian nầy
có thể thâu ngắn lại.
Ở đây, tôi chỉ
nói một cách tổng quát mà thôi, còn nhiều chi tiết khác nữa, phải vào cữa Ðạo rồi
mới hiểu. Tuy nhiên muốn làm sáng tỏ vấn
đề tôi cũng phải nói vài lời về câu chuyện:
Ðiểm-đạo là gì?
Ðiểm-đạo tại đâu?
Ai điểm-đạo?
ÐIỂM-ÐẠO LÀ GÌ?
Ðiểm đạo là chỉ
máy huyền-vi, nói một cách bóng dáng là giao chìa khóa mở cửa cõi Trời. Ðiểm-đạo cũng có nghĩa là khởi đầu một cuộc đời
mới trong đó Phàm-nhơn lần lần trở nên phản ảnh của Chơn-nhơn và Chơn-nhơn bắt
đầu vận dụng những quyền-năng của Chơn-thần.
Sau mỗi kỳ Ðiểm-đạo
tâm thức đều mở rộng hơn trước rất nhiều, vị đệ-tử thành một người mới.
ÐIỂM-ÐẠO TẠI
ÐÂU?
Ðiểm-đạo lần thứ
nhứt tại cõi Trung-giới.
Ðiểm-đạo lần thứ
nhì tại cõi Hạ-Thiên gồm 4 cảnh thấp của cõi Thượng-giới hay là cõi Trí-Tuệ.
Ðiểm-đạo lần thứ
ba tại cõi Thượng-Thiên gồm 3 cảnh cao của Thượng-giới hay là cõi Trí-Tuệ.
Ðiểm-đạo lần thứ
tư tại cõi Bồ-đề.
Ðiểm-đạo lần thứ
năm tại cõi Niết-Bàn.
Ðiểm-đạo lần thứ
sáu, thứ bảy, thứ tám ở mấy thế giới khác ngoài Ðịa-cầu của chúng ta.
AI ÐIỂM-ÐẠO?
Tại quả địa-cầu
của chúng ta chỉ có một Ðấng Chí-Tôn được phép Ðiểm-đạo mà thôi, ấy là Ðức Ngọc-Ðế. Ngài là vua của quả Ðịa-Cầu nầy và chủ tể của
Quần-Tiên-Hội. Ngài thay mặt cho Ðức
Thái-Dương Thượng-Ðế đặng cai trị và coi sóc sự sanh hóa và sự tiến hóa của các
loài vật cho đúng với cơ-Trời.
Hào quang của
các Ngài bao trùm quả Ðịa-cầu, không có một con kiến nào chết hay là một sự bất
công nào xảy ra mà Ngài không hay biết.
Nhưng Ngài để cho Luật Nhân-Quả định đoạt.
Ngài là Ðấng Duy
Nhứt Chí-Tôn cầm quyền Ðiểm-đạo. Không
có sự ưng thuận của Ngài, không một ai được thâu nhận vào Quần-Tiên-Hội. Nhưng trong hai kỳ điểm-đạo đầu tiên, lần thứ
nhứt và lần thứ nhì, luôn luôn Ngài cậy Ðức Bồ-Tát hay là một vị Ðế-quân thay mặt
Ngài, nhơn danh Ngài đặng Ðiểm-đạo.
BẢY ÐƯỜNG TIẾN
HÓA TRƯỚC MẶT CHƠN-TIÊN
Sự tiến hóa chấm
dứt ở 5 lần Ðiểm đạo hay sao?
Không. Trước mặt Chơn-Tiên có 7
đường tiến hóa khác nhau. Ngài được quyền
chọn lựa con đường nào hạp với Ngài.
1) Hoặc Nhập Niết
Bàn ở vào một trạng thái thiêng-liêng gọi là mặc áo Sam-bô-ga-cai-da
(Sambhogakaya) không biết là cái chi vì có nhiều nghĩa.
2) Hoặc Nhập vào
Niết-Bàn rồi vài tỷ năm sau làm một vị Avatar hay là Hiện thân của Ðức Thượng-Ðế
trong một Vủ-trụ khác, người ta gọi là mặc áo Ðạt-ma-Cai-da (Dharmakaya). Phải chăng Phật-giáo gọi là Pháp-Thân.
3) Hoặc Vào hàng
những vị Nirmanakaya (Niệt-ma-na-Cai-da) sanh ra thần-lực để cho Quần Tiên Hội
dùng đặng độ đời.
4) Hoặc Dự vào
việc thành lập dãy Hành-Tinh thứ năm để sau thay thế cho dãy Ðịa-Cầu chúng ta
là dãy Hành-Tinh thứ tư.
5) Hoặc Vào Hàng
các vị Ðại-Thiên-Thần.
6) Hoặc Giữ xác phàm
ở lại Trần lãnh một nhiệm vụ trong Quần-Tiên-Hội đặng coi sóc sự tiến hóa của
các loài vật.
7) Hoặc Vào Bộ
Tham-Mưu của Ðức Thái-Dương-Thượng-Ðế đem chỉ dụ của Ngài khắp các dãy
Hành-Tinh.
CHƠN-TIÊN NHỮNG
VỊ Ở LẠI CỎI TRẦN
Những vị ở lại
cõi Trần một mặt thì lo thi hành nhiệm-vụ của mình, một mặt thì lo tu luyện
thêm.
Khi được 6 lần
điểm đạo thì làm một vị Ðế-Quân (Chohan) cai quản một cung, hoặc lãnh một nhiệm-vụ
khác.
Ðược 7 lần điểm-đạo
thì làm.
a) Hoặc một vị
Bàn-Cổ (Manou) coi sóc sự sanh hóa một giống dân.
b) Hoặc một vị Bồ-Tát
(Bodhisatva) lo giáo hóa một giống dân và lập những tôn-giáo mới.
c) Hoặc một vị
Văn-Minh Ðại-Ðế (Maha Chalam) coi sóc sự văn-minh tiến bộ (hoặc lảnh một nhiệm-vụ
mới).
Ðược 8 lần điểm-đạo
thì làm một vị Phật.
a) Hoặc Ðộc-Giác-Phật
(Pratyeka Bouddha)
b) Hoặc Phật-Ðạo-Ðức.
Ðược 9 lần Ðiểm
Ðạo thì làm một vị Ngọc-Ðế cai quản một bầu Hành-Tinh, vân vân.
Càng ngày càng
lên cao, rồi tới một ngày kia, không biết mấy tỷ năm nữa, mỗi vị Chơn-Tiên sẽ
thành một vị Thái-Dương Thượng-Ðế và sẽ chọn lựa trên không gian vô tận một chỗ
riêng biệt đặng sanh hóa một Thái-Dương-Hệ giống như Thái-Dương-Hệ của chúng ta
vậy
TẠI SAO KHOA
MINH-TRIẾT THIÊNG-LIÊNG ÐEM RA PHỔ BIẾN.
Từ ngàn xưa, các
vị Huấn sư dạy khoa Minh-Triết Thiêng-Liêng cũng gọi là Thông-Thiên-Học hay là
Huyền-bí Học, một cách kín đáo trong các tu viện ở Trung-Hoa, Ấn-Ðộ, Tây-Tạng,
Ba-Tư, Ai-Cập, Hi-Lạp. Nó là Khoa-Mật hay là Khoa-Bí-Truyền (Enseignement
ésoterique) của các Tôn-Giáo lớn. Nhưng
Thiên-đình sai hai vị Ðệ Tử là Bà Blavatsky và Ðại-Tá Olcott lập Hội
Thông-Thiên-Học tại Nhiêu-Do (New York) ngày 17 tháng 11 năm 1875 dặng phổ biến
vài chương đầu của khoa Minh-Triết Thiêng-Liêng thuộc về Hạ bí Pháp (Mysteres
mineurs) vì 3 lý do sau đây:
LÝ DO THỨ NHỨT
Phải mau thức tỉnh
quần chúng đặng cho ai nấy đều biết bản tánh Thiêng-Liêng của mình hầu quay về
đường ngay nẻo thẳng, biết thương yêu nhau, vùa giúp nhau và cùng nắm tay nhau
đặng bước lên đài giác.
Bởi vì bắt đầu từ
thế kỷ thứ 19 tới nay, thiên hạ quá say mê những sự phát minh kỳ diệu của khoa
học vật chất vô-thần cho nên không tin có Trời, Phật, Thánh, Thần, Luân-Hồi,
Nhân-Quả. Cứ đinh ninh rằng con người là
xác thân nầy, thác rồi thì tiêu tan ra tro bụi chớ không có linh-hồn đi đầu
thai từ kiếp nầy qua kiếp kia và phải lãnh lấy hậu quả những việc không hay của
mình đã làm. Vì thế mà nuôi mãi tánh ích-kỹ chia rẻ, càng ngày càng thêm rộng lớn. Tranh nhau vì miếng ăn, lấn nhau vì đất ở,
đánh nhau vì chỗ đứng, giết nhau vì nơi ngồi.
Dựa vào sức mạnh của cơ khí gây ra những chiến-tranh giặc giả, bắt những
kẻ yếu đuối cô thế làm tôi mọi đặng phục vụ những quyền lợi của cá nhận. Cang
thường đảo ngược, đạo đức suy đồi, con sống nghịch-luân ầm-ầm nổi dậy, tà khí
xông đến sao Ngưu-Ðẫu làm cho Trời giận đất hờn.
Nếu không cứu vản
tình thế cho kịp thì hai châu Âu-Mỹ sẽ bị lửa Trời thiêu đốt cũng như 80,000
năm trước châu Át-Lăng-Tích bị nhận chìm xuống đáy biển Ðại-Tây-Dương. Luật Nhân-Quả không dung tha những ai đã làm
nghịch với Thiên-ý. Lưới Trời tuy thưa lắm
song không ai lọt khỏi được.
LÝ DO THỨ NHÌ
Năm 1975 một kỷ
nguyên mới, Kỷ nguyên Huyền-bí Học hay là kỷ nguyên Tinh-thần sẽ mở màn, phải
chuẩn bị ít nhứt là một thế-kỷ trước. Tưởng
phải nói trắng ra là Thiên-Ðình đã sắp sẳn một chương trình ghi trước những
công việc phải thực hành trong một thời kỳ 10,000 năm và mỗi thế-kỷ đều có sự
thay đổi mới cho hạp với cơ-Trời và giúp nhân loại tiến lên một bực.
LÝ DO THỨ BA
Lối 6 hay 700
năm nữa, một giống dân mới, giống dân chánh thứ sáu (sixieme Race mère) sẽ ra đời.
Giống dân nầy sẽ mở Bồ-đề-tâm hay là Trực
giác.
Vì thế phải gấp
rút vén lên một gốc màn vô-minh, đem ánh sáng chơn-lý dọi khắp hang cùng ngỏ hẻm
đặng cứu vớt quần sanh còn đương chìm đắm nơi bến-mê sông khổ.
Hội
Thông-Thiên-Học đã thành công trong sứ mạng thiêng-liêng của nó. Từ năm 1875 tới nay năm 1970, còn năm năm nữa,
năm 1975 thì đúng một thế kỷ, Thông-Thiên-Học đã giúp cho hàng triệu người bắt
đầu tự biết mình. Họ sửa đổi cách sanh sống
hàng ngày lần lần ra tốt đẹp, tình thương mở rộng và hướng về đường tinh thần
nhiều hơn trước mặc dầu họ chưa xin gia nhập vào Hội Thông-Thiên-Học.
SỰ KHẢO CỨU
THÔNG-THIÊN-HỌC ÐEM LẠI CHO QUÍ BẠN NHIỀU ÐIỀU HỬU ÍCH.
Sự hảo cứu
Thông-Thiên-Học đem lại cho quí bạn nhiều điều hửu ích, đại khái như sau đây:
Một là: Biết được Cơ Trời là Luật Tiến-Hóa.
Hai là: Thật con người là Chơn-Thần,
bản tánh vốn thiêng-liêng.
Ba là: Sanh ra cỏi Trần, con người có
nhiệm-vụ mở khai Tâm-Trí cho điều hòa đặng tiến mau đến mục tiêu đã định sẳn
cho con người trong Thái-Dương-Hệ nầy tức là làm một vị siêu-phàm.
Bốn là: Xác thân; ý muốn, tư tưởng
không phải thật là con người. Chúng nó
là những khí cụ của con người dùng đặng học hỏi, kinh nghiệm và Phụng-Sự.
Năm là: Có những phương pháp tinh luyện
chúng nó, làm chủ chúng nó, thay vì đồng hóa với chúng nó sai khiến như bấy lâu
nay.
Rồi lần lần xử dụng được những quyền
năng còn tiềm tàng trong mình, như Thần-nhãn, Thiên-nhãn, Tiên-nhãn và Phật-nhãn
đặng quan sát những cõi Trời.
Sáu là: Về phương diện tuyệt đối, tất
cả các giống dân tộc trên địa cầu, dầu cho sắc da khác nhau, đen hay đỏ, vàng
hay trắng cũng vậy, đều là anh em bởi vì cả thảy đồng là con Ðức Thượng-Ðế.
Bảy là: Hiểu được ý nghĩa của các
Thánh Kinh và biết rằng các Tôn-Giáo lớn đều do Ðức-Bồ-Tát lập ra. Chúng nó trình bày Chơn-Lý một cách khác nhau
tùy theo tánh tình, phong tục và trình độ tiến hóa về phương diện-trí-thức và
tinh-thần của dân chúng trong một thời đại.
Thế nên chúng nó là anh em vì đồng chung một gốc.
Tám là: Vài công việc của các Tiểu-Thần.
Hiểu được 8 điểm đạo đại khái nầy thì
quí bạn cầm vận-mạng của quí bạn trong tay.
Quí bạn tiến mau hay chậm tùy theo quí bạn cố gắng nhiều hay ít mà
thôi. Sự thành công là vấn đề thời gian.
XIN HÃY THÍ NGHIỆM
Chúng tôi không
hề bảo quí bạn hảy tin chắc những giáo lý Thông-Thiên-Học, nhưng chúng tôi nói:
quí bạn đả từng quan sát cuộc đời, quí bạn hãy đọc những sách Thông-Thiên-Học rồi
quí bạn suy nghĩ coi những giáo-lý Thông-Thiên-Học có đúng với sự thật phần nào
chăng? Nhưng trước hết tôi xin hiến cho quí bạn ba sự thí nghiệm sau đây:
I
Quí bạn hãy ngồi
yên lặng, đừng suy nghĩ chi hết trong hai phút thôi, chưa đầy một phút sau quí
bạn đã nghe trong lòng có tiếng nhắc nhở quí bạn làm việc nầy, việc kia, năm,
sáu chuyện không ăn nhập vào nhau. Vậy
thì Tiếng nói đó của ai? chắc chắn nó
không phải là của quí bạn, bởi vì quí bạn không tưởng nhớ cái chi cã. Mà nó cũng, không phải là tiếng nói của ngoại
nhơn, bởi vì nó ở trong lòng quí bạn mà.Tiếng nói đó là tiếng nói của cái Trí của
quí bạn Mà tại sao cái Trí làm như vậy? ấy
tại cái Trí tánh rất lao chao, nó tưởng cái nầy rồi bắt qua cái kia, liền liền
không ngớt. Nay quí bạn không tưởng chi
hết tức là bắt nó định lại một chỗ, nó đâu có chịu ở yên, nó phải tìm lối thoát
ra bằng cách dục quí bạn nhớ lại quá khứ.
Có thí nghiệm nầy
quí bạn mới biết quí bạn không phải là cái Trí và nhờ đó quí bạn mới hiểu muốn
thành công trong sự Tham-Thiền thì trước hết phải tập định Trí. Chưa làm chủ được cái Trí thì không khi nào
Tham-Thiền mà có hiệu quả tốt đẹp.
II SỰ THÍ NGHIỆM
THỨ NHÌ
Sự thí nghiệm thứ
nhì là: Những làn sóng-rung động truyền nhiễm và sự thí nghiệm thứ ba là Ðào
luyện tánh nết.
Tôi xin chép lại
những lời của Bà A. Besant dạy về 2 điểm đó như say đây.
NHỮNG LÀN SÓNG
RUNG-ÐỘNG TRUYỀN-NHIỄM
Chư huynh hãy nhớ lại những kinh nghiệm của mình. Chư huynh gặp
một người vui vẻ sung-sướng chư huyn liền nói:
Khi người nầy bước vào thật giống như một tia sáng mặt trời chiếu rạng. Một người khác đến gần chư huynh, mang theo
mình một đám mây u-uất buồn chán. Tất cả
chúng ta đều phát buồn và chán nản. Tại
sao vậy? Tất cả những điều nầy đều có một
lý do. Sự vui hay sự buồn đều hay lây,
chúng tăng tiến giống như một mầm bệnh hay một sức khỏe cường tráng. Tất cả những gì khiến cho vật chất rung động
thì đều có tính cách hay lây vì những sự rung-động của vật-chất vẫn được tái diển
và làm nổi dậy những cảm xúc tương tự nơi khác.
Ðây là một thí dụ
cuối cùng. Chư
huynh gặp một người có tánh xấu hay tức giận.
Trong trường hợp nầy, chư huynh có bao giờ để ý thấy rằng mình bị lây,
chư huynh cũng tức giận, tuy rằng trước đó chư huynh rất thơ thới và đầy thiện
chí hay không? Những làn rung động của
cái vía của người nầy đả truyền sang chư huynh và khiến chư huynh tức giận nổi
cáu.
TẠI SAO PHẢI LẤY
ÂN ÐÁP OÁN
Vì thế cho nên
những vị Ðại-Giáo-Chủ thường khuyên chư huynh lấy ân đáp oán, lấy tình thương
yêu mà đáp lại lòng thù-hận. Nếu một con
người kia tới chư huynh mà trong lòng rất thù-hận chư huynh, và nếu chư huynh
cũng rất thù-hận y, thì những làn sống thù-hận nầy vì giống nhau nên trợ sức
cho nhau và trở nên mảnh liệt tàn bạo. Sự
tức giận khêu gợi sự tức giận, lòng thù-hận nầy sanh lòng thù-hận, hai người sẽ
cải lộn với nhau và có thể trở thành những kẻ thù địch đời đời. Bởi thế cho nên mỗi vị Ðại Giáo-Chủ khuyên ta
rằng: Các con đừng đem cái ác mà trả lại cho cái ác, các con hãy đem cái lành
mà đáp lại cái ác Ðức-Phật có nói Lấy
oán trả oán thì oán không dứt, lấy ơn trả oán thì oán mới tiêu. Ðức Chúa Ki-Tô dạy chư huynh phải chúc phước
lành cho những kẻ oán ghét chư huynh.
Ấy đó thánh huấn
của các vị Ðại Minh-Triết, Giáo-chủ nhân loại ban ra vốn có lý do khoa học. Vừa
mới đây một người có tánh hoài nghi nói với tôi rằng: Tại sao tôi lại lấy ân đáp
oán. Như vậy thật là phi lý. Tôi không bàn cải với y trên quan điểm Ðạo đức. Tôi chỉ trình bày cho y thấy cái kết quả cụ
thể, khiến cho y chú ý đến những làn rung động của sự tức giận và những làn
rung-động đối lập phát sinh tự lòng thương yêu; tôi cắt nghĩa cho y rõ vì làm
sao những làn sóng yêu thương dập tắt được những làn sóng thù hận, tránh được
những sự cải vả và mang lại niềm hòa khí.
Lúc đó y trả lời rằng: Ơi bây giờ Bà nói đúng lý, tôi mới hiểu rõ tại
sao tôi phải dĩ ơn báo oán.
Vậy phải nhớ điều
nầy, chư huynh có thể tự ý mình mở mang những cảm tình tốt đẹp, thanh cao và do
đó mà giúp những kẻ khác chiến thắng được những cảm tình xấu xa thấp hèn của họ.
Chư huynh có thể trở thành một nguồn ân huệ, làm cho người tức giận nguôi
ngoai, người quạu quọ dịu giọng, chư huynh ban rải xung quanh mình sự hài lòng
an phận, nhiều hạnh phúc, nỗi vui mừng bằng cách tuân theo định-luật thiên
nhiên vửng vàng và không bị vi phản. Trước
khi chấm dứt đề tài nầy, tôi phải nói cho chư huynh biết cái trách nhiệm của
chư huynh đối với kẻ khác. Không những một
mối cảm xúc tốt lành làm nổi dậy nơi chư huynh một làn rung-động của thanh khí
mà nó còn lan ra chung quanh và cảm đến cái vía của kẻ khác. Mối cảm xúc xấu xa cũng tác động như vậy. Vậy thì không phải tự chủ ở bề ngoài mà thôi
dằn xuống, không ngó, không nhìn một cách giận dữ, không ăn nói quạu quọ, không
phát sanh một cử chỉ đe dọa, cũng chưa đủ đâu, chư huynh phải trừ tận gốc rể
cái tánh giận dữ hảy còn tiềm tàng mặc dầu không thấy được. Do những dục vọng, những sự đấm mê của chư
huynh, chư huynh nhiểm xã hội và ngay lúc đó chư huynh phải chịu trách nhiệm về
cái ảnh hưởng mà chư huynh ban rải ra.
(Trích trong quyễn Ðời Sống Huyền bí của Con Người trương 38 39-40.)
III SỰ THÍ NGHIỆM
THỨ BA - TẬP RÈN TÁNH NẾT
Theo một định-luật
Thiên-Nhiên, khi trí khôn chú ý vào một đức tính nào thì đức tánh đó sẽ dần dần
thành một phần tử của tánh nết mình; về sau đức tánh nầy biểu lộ ra một cách tự
động, không khó nhọc chút nào. Vậy một
người có thể tự ý mình mà xây dựng tánh nết mình một cách thích đáng chỉ cần phải
hành động đúng với luật đó, tuân theo nó và kiên tâm trì chí tùy theo những sự
kinh nghiệm đòi hỏi.
Ðây là phương
pháp phải theo. Chư huynh hảy tìm hiểu
tánh nết mình, và chư huynh hảy ngưng lại ở một nhược điểm của mình như thiếu
thành thực, hèn nhát, hay nóng giận, hoặc một tật xấu hay là một thói xấu tệ hại
nào đó. Khi chư huynh thấy rằng mình thường
sa ngã trước tật xấu xa đó, thí dụ nếu một người làm trái ý chư huynh thì chư
huynh nổi giận, nếu chư huynh phải đương đầu với một sự nguy hiểm, thì chư
huynh tỏ ra hèn nhát, nếu gặp sự khó khăn thì chư huynh lại nói dối để thoát
thân; chư huynh hảy dẹp tất cả mọi việc ấy qua một bên và đừng nghĩ đến chúng nữa. Chư huynh
hãy nhấn mạnh vào cái tánh tốt đối lập là đừng bao giờ nghĩ đến tật xấu nữa. Mỗi khi cái Trí trụ vào một nhược điểm nào
thì nhược điểm đó sẽ tăng trưởng, vì tư tưởng đã thêm sức cho nó; nó còn mãi;
thay vì biến mất đi. Dẫu chư huynh chỉ hối
tiếc thôi thì sinh lực của tư tưởng cũng khiến cho nhược điểm hóa ra mạnh mẽ; sự
hối tiếc của chư huynh tăng cường cho nhược điểm và làm cho nó bám chặt vào
tánh nết mình. Hãy để nó ở lại phía
sau. Ðừng bao giờ chư huynh để cho Trí
mình ngưng lại nơi đó cả, dù chỉ trong một lát thôi, nhưng chư huynh hãy nghĩ đến
tánh tốt đối lập lại. Chỉ thình lình
nghĩ đến tánh tốt thì không đủ đâu. Mỗi
sáng khi ngủ dậy, trước khi đi ra ngoài và xen lẫn với người đời, chư huynh hãy
định trí trong năm ba phút vào tánh tốt mà chư huynh muốn xây dựng, tùy theo
cái sức chú ý của mình.
TẬP TÁNH KIÊN NHẨN
Mỗi sáng chư
huynh hãy làm như vậy một cách kiên nhẫn, đừng nghỉ một ngày nào cả; nếu không
thì hình tư tưởng mà chư huynh muốn có sẽ tan ra và hườn lại chất Thượng thanh
khí (1. Thượng thanh khí là chất khí làm cỏi Trí tuệ hay là Thượng giới) như
trước. Rồi mỗi ngày, một cách tự nhiên,
chư huynh lại phạm vào cái lỗi mà chư huynh đang tìm cách sửa chửa; chư huynh đừng
lo chi điều đó, chư huynh cứ tiếp tục định trí mỗi buổi sáng chư huynh hãy tập
trung tư tưởng vào tánh tốt mà chư huynh muốn có. Thí dụ chư huynh đang tìm cách hoạch đắc tánh
kiên nhẫn, buỗi sáng chư huynh nghĩ đến tánh đó, nếu có ai làm cho chư huynh bực
mình, chư huynh sẽ đáp lại một cách quạu quọ, nhưng khi đang trả lời, chư huynh
bổng nghĩ rằng: Ôi, tôi muốn được kiên nhẫn biết bao. Ðiều nầy không quan hệ gì cả. Khi nào chư huynh đả tham-thiền về tánh
kiên-nhẫn được bốn năm ngày, thì ngay khi lời nói tức giận tự miệng chư huynh sắp
thốt ra, chư huynh tự nhủ: Tôi muốn kiên nhẫn.
Chư huynh cứ tiếp tục một cách bền chí,
và chẳng bao lâu, cái tư tưởng kiên-nhẫn, sẽ hiện ra trước khi câu trả lời sắc
bén được thốt ra. Cứ bền chí mà tiếp tục
như thế đi, kết quả sẽ thu thập được nhanh hay chậm là tùy theo sự chú ý của
chư huynh, tùy theo quyền lực của tư-tưởng chư huynh, nhưng chẳng sớm thì muộn
tánh hay tức giận sẽ biến mất và sẽ có tánh kiên-nhẫn thay thế vào. Chư huynh sẽ
nhận thấy rằng chư huynh tự động lấy sự kiên-nhẫn mà đáp lại, sự khiêu khích, lấy
sự dịu dàng mà đáp lại sự tức giận. Chư huynh đã xây dựng nơi mình tánh tốt mong muốn. Chư huynh có
thể tham thiền nhiều cách, chư huynh tùy theo sự khéo léo của mình mà tự phát họa
cho mình một chương trình. Khi còn trẻ,
tôi rất hay tức giận nên một trong những phương-pháp ưa thích của tôi là cố gắng
làm tượng trưng cho tánh kiên-nhẫn; trong khi tôi tham-thiền, chư huynh không
bao giờ gặp một vị Thánh-Mẫu nào như tôi vậy.
Dù ở ngoài giờ tham-thiền ra, tánh tôi như thế nào đi nữa, nhưng trong
giờ tham-thiền đó, tôi là một người hoàn toàn triệt để, tuyệt đối kiên-nhẫn. Trong trí, tôi tưởng tượng xung quanh tôi có
đủ những hạng người đáng ghét, những người đáng bực mình nhứt mà tôi đã biết; rồi
trong trí tưởng tượng tôi phát họa một cách quá đáng những cử chỉ khiêu khích của
họ; và cùng một lúc tôi cũng tìm cách tăng tưởng tánh kiên-nhẫn của tôi theo
cái đà đó. Tôi tưởng tượng trong trí một
tấn bi kịch nhỏ trong đó người ta làm hết cách để chọc giận tôi, tôi trả lời những
sự khiêu khích đó như là một Griselda (1. Griselda là người đàn bà gương mẫu về
đức kiên nhẫn và vâng lời chìu lụy chồng.
Bà là vợ của hẩu tước Saluzzio. Hẩu
tước bắt bà làm những công việc khổ sở mệt nhọc, Bà luôn luôn tuân theo không
bao giờ than van hay oán trách. Trong cuốn
Decameron của Boccacio và cuốn Canterbury Tales của nhà văn hào Chaucer cũng có
thuật lại chuyện nầy. Giang sơn dễ ÐỔI- tánh nết khó THAY. Nếu không biết phương pháp rèn luyện thì e
cho trọn một đời người cũng chưa tập được một tánh tốt, mà cũng trọn một đời
người chưa bỏ được một tánh xấu. Ta nên
suy nghĩ về điều nầy cho lắm, kẻo tới già thì đã muộn rồi, không còn ngày giờ đặng
sửa đổi nữa. Chớ đợi tới già mới niệm Phật, Thiếu chi mồ trẻ đã qua đời.) kim
thời. Sau một thời gian, tôi nhận thấy rằng
khi tôi gặp những người đó, họ không còn có thể làm cho tôi nổi giận được nữa. Tôi tự hỏi rằng: Sao trước kia tôi lại cho rằng
họ là những người đáng ghét. Một cách vô tâm, nhờ những cố gắng của tôi, tánh
kiên-nhẫn đã trở thành một phần tử cố hữu
cữa hạnh kiểm tôi rồi. Mỗi người trong
chư huynh đều có thể làm như vậy. Chư huynh hãy làm thử coi, vì một kinh nghiệm bé nhỏ do
chư huynh làm còn có giá trị bằng một trăm bài diển thuyết được nghe trong sự
ngờ vực, không tin là đúng. Vì định luật
là bất di bất dịch thì lẽ tự nhiên thế nào chư huynh cũng thành công. Theo lối đó chư huynh có thể hoạch đắc hết
tánh tốt này đến tánh tốt nọ, cứ chú ý đến mổi nét đặc biệt cho đến khi chư
huynh thấy rằng mình giống với lý tưởng của mình thêm được đôi chút; tuy bây giờ
chư huynh hãy còn xa lý tưởng nhưng rồi chư huynh cũng biết rằng mình đang leo
lên núi, lý tưởng ở trên đỉnh núi đang chiếu sáng rực rở và vì thế cho nên chư
huynh không chịu dừng bước ở chân núi.
Tôi không đủ thời giờ để đưa ra những thí dụ khác nữa. (Trích trong quyển
Ðời Sống Huyền Bí của Con Người, trương 61 62-63-64).
Trong quyển Con
đường của Người Ðệ-Tử, Bà A. Besant có nói về cách tinh luyện những sự dục vọng
thấp hèn của con người. Bà có đưa ra ba
thí dụ như:
1) Sự nóng giận
2) Tình yêu
3) Sự tham lam.
Tưởng quí bạn
cũng nên xem qua, nhưng chỉ đọc xuông, chưa phải là đủ. Muốn thí nghiệm phải thực
thi những lời của Bà chỉ dạy trong một thời gian, đừng gián đoạn, đặng coi cái
kết quả thế nào, rồi sẽ tin. Những sự thí nghiệm nầy không có hại, chúng đem
cái lợi ích lại cho quí bạn là quí bạn trau dồi tánh nết ra tốt đẹp làm cho kẻ
khác cãm mến mà quí bạn chỉ tốn công, mỗi ngày chừng chín mười phút thôi, chớ
không tiêu hao tiền bạc chi cả.
NHỮNG SÁCH
THÔNG-THIÊN-HỌC NÊN XEM
Muốn khảo cứu
Thông-Thiên-Học, bạn hãy lựa chọn những sách sau đây tùy theo sở thích của quí
bạn.
A. VỀ PHƯƠNG DIỆN
TỔNG-QUÁT NHỮNG SÁCH CHỬ PHÁP
Muốn hiểu sự
thành lập Hội Thông-Thiên-Học Quốc-Tế-Histoire authentique de la Societe
Théosophique-Olcott (3 volumes)
ÐẠI CƯƠNG
1.—Cle de la
Theosophie—H.P. Blavatsky
2.—La Sagesse
antique—Annie Besant
3.—Lois
fondamentales de la Theosophie—Annie Besant.
4.—La vie
occulte de l’homme. ----
5.—Le secret de
la vie. ----
6. – Karma
Réincarnation ----
7.—Precis de
Theosophie. Leadbeater.
8. Evolution occulte
de l’humanite. Jinarajadasa- trước kia quyển nầy đề tên là Principes de la
Theosophie rồi sau không biết vì lẽ nào đổi lại là Evolution occulte de
l’humanite.
9.—En son nom --
10.—Vous ---
Arundale.
B. BÊN KIA CỬA TỬ
1. L’autre côte
de la mort. Leadbeater
2. Le Plan
astral
---
3.-Le monde
céleste
C. LUYỆN TẬP YÔ
GA
1.—Introduction
au Yoga
A. Besant
2.—Le Pouvoir de
la pensee. ---
D. HỌC CÁCH
THAM-THIỀN
1. La Méditation
à l’usage des commencants Wedgwood.
Ð. MUỐN BIẾT HÓA
HỌC HUYỀN BÍ
1.—La Chimie
occulte. A. Besant et Leadbeater
E. CÁC TÔN-GIÁO
ÐỐI CHIẾU VỚI NHAU
1.—Precis
universel de religion et de morale. A.
Besant.
2.—Les grandes
religions pratiquees dans l’Inde.
3.—Bhagavad
Gita. A. Besant.
4.—Neuf
Upanishads.
F. HUYỀN BÍ HỌC
TRONG THIÊN-NHIÊN
1.—L’occultisme
dans le nature. 2 tomes—Leadbeater
2.-Le côte cache
des choses. 2 tomes-- ----
G. LUYỆN TẬP
TÁNH TÌNH ÐẶNG BƯỚC VÀO CỬA ÐẠO
1. —Aux Pieds du
Maitre
2.—La voix du
Silence
3.—La Lumiere
sur le Sentier
4.—Commentaires
sur Aux Pieds du Maitre.
5.—Commentaires
sur la Voix du silence,
6.—Commentaires
sur la Lumiere sur le Sentier.
7.—Vers le Temple. A.Besant.
8.—Le sentier du
disciole. A. Besant.
9.—Les Maitres
et le Sentier. Leadbeater.
10.—Le
serviteur. Lazenby.
H. MUỐN BIẾT THẦN
NHÃN LÀ GÌ?
1.—De la
Clirvoyance.
Leadbeater
2.—La science de
la voyance. G. Hodson.
I. MUỐN HIỂU NHIỀU
VỀ 4 THỂ PHÁCH, VÍA, HẠ-TRÍ, THƯỢNG-TRÍ VÀ THÁI-DƯƠNG-HỆ
5 Quyển của A E.
Powel
1.- Le double
étherique
2.—Le corps
astral.
3.—Le corps
mental
4.—Le corps
causal.
5.—Le systeme
solaire.
Quí bạn giỏi Anh
văn xin đọc những quyển nầy viết bằng Anh văn bản chánh. Những quyển chữ Pháp
là bản dịch.
II. NHỮNG SÁCH VIỆT VĂN ( SÁCH DỊCH)
1.Trước thềm
Thánh-Ðiện. (Vers le Temple) A. Besant
2.Con đường của
Người Ðệ-Tử (Le Sentier du disciple).
A. Besant
3.Ðời sống Huyền
Bí của Con Người (La vie occulte de l’homme)
4. Bí quyết của
nhơn sanh (le secret de la Vie)
5. Vài điều khó
khăn của đời sống nội tâm (Quelques difficltes de la vie interieure)
6. Quyền năng tư
tưởng (le pouvoir de la pensee)---A. Besant
7.Thông-Thiên-Học
khái lược. (Une esquisse de la
Théosophie) Leadbeater.
8. Chơn nhơn và
phàm nhơn (L’Ego et la Personnalite)
9. Chơn-Sư và
Thánh-Ðạo. (Les Maitres et le
Sentier) Leadbeater
10. Nhơn danh
Sư-Phụ (En son nom) Jinarajadasa.
11. Hoa và Vườn
(Fleurs et Jardins) -----
12. Dưới Chơn Thầy.
13. Tiếng nói vô thinh (La voix du silence)
14. Ánh sáng trên đường Ðạo (La Lumiere sur le
Sentier)
15. Những lời
vàng ngọc (Trích dịch những diễn văn của Ðức Sri-Ram)
16. Tư tưởng
dành cho kẻ chí nguyện (Thoughts for aspirants) Sri-Ram
17. Tiên mắc Ðọa (Dieux en exil) Van der Lew
18. Ánh Ðạo
Phương-Ðông (La Lumiere de l’Asie)
Edwin Arnold
19. Muốn được
vào Hàng Ðệ-Tử Chơn Sư.
Krishnamurti.
20. Người Phụng
Sự (Le Serviteur). ---Lazenby
21. Con Ðường đi
đến Chơn Tiên
22. Chơn Sư và
Thánh-Thể
23. Ðức Thầy
thâu nhận Ðệ-Tử
24. Lời dạy của
Chơn-Sư
III. NHỮNG SÁCH VIỆT
1. Minh Triết
Thiêng-Thiêng 5 quyển toát yếu
Quyển I: Con người
là ai? Từ đâu đến? 7 cõi của Thái Dương hệ - 4 thể: Xác thân, Phách, Vía, và
Trí.
Quyển II: Bên
kia của Tử.
Quyển III:
Luân-Hồi
Quyển IV:
Nhân-Quả
Quyển V: Sự sanh
hóa các giống dân trên dãy Ðịa cầu
2. Con người
thác rồi về đâu?
3. Nhân-Quả
4. Ðạo Lý thực
hành (phương pháp luyện mình đặng làm một vị Thiện nhân) Ðịnh trí-tham thiền và 12 đức tánh.
5. Nói chuyện với
Ma (Chuyện Hồn Ma cô Katie King và nhà Bác-học William Crookes (Chuyện hồn ma
30 thủy thủ Nhựt ở Ma Lai. Chuyện hồn ma ở trường Quốc Học Huế)
6. Tại sao chúng
tôi lập Hội Thông-Thiên-Học Việt-Nam.
7. Người
Thông-Thiên-Học tiến tới cách nào?
8. Nhân-Quả và Ðời
Người
9. Ðại Tá Olcott và sự Phục hưng của Phật Giáo.
10. Bí quyết của
Tình Huynh Ðệ
Nói tóm lại Thông-Thiên-Học
là Khoa-học Tâm-Hồn, nó tiết lộ cho con người ba điều tối quan trọng như sau
đây:
Một là: Trời có một cái Cơ, Cơ đó là sự tiến hóa
Hai là: Con người là Chơn Thần, một điểm Linh-Quang của
Ðức Thượng-Ðế, sự phát triển của con người sẽ vô cùng tận, vô biên.
Ba là: Có một con đường vắn tắt dắt dẫn con người đến
mục tiêu của Ðức Thái-Dương Thượng-Ðế đã định sẵn cho con người trong Tiểu
Vũ-Trụ nầy: Ấy là con Ðường Ðạo.
Vậy xin cầu những
quyển kể ra trên đây giúp ích được quí bạn phần nào trong công việc tìm hiểu lý
do sanh hóa con người trên Ðịa-Cầu và tầm kiếm con Ðường Giải-Thoát.