Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một
cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
Những lời dạy đó được gọi là Pháp. Pháp để tôn trang cho tâm. Pháp cũng là
phương tiện để phát triển các chức năng của tâm. Bài Pháp này dựa trên
Patimokkha (Giới Luật Tỳ kheo), nói về những bổn phận mà các vị tăng sĩ xuất
gia theo Phật phải tuân giữ, nhưng chúng cũng áp dụng cho hàng cư sĩ. Cư sĩ tại
gia có thể tu tập, gìn giữ các giới luật này để rèn luyện thành người tốt hơn,
để có thể trở thành tai, mắt, chân, tay, trong việc gìn giữ đạo pháp, giúp đạo
pháp được phát triển.
Những giới luật này, áp dụng cho tất cả mọi người, có thể
chia làm các phần chính như sau:
1. Thứ nhất: Anupavado. Đừng tìm lỗi người khác.
Có nghĩa là đừng nói xấu về người khác, đừng xuyên tạc, đừng
nói điều gì gây chia rẽ. Đừng nói sai trái về người khác, hay khuyến khích người
khác làm điều đó. Đừng trách móc, la mắng nhau. Thay vì tìm lỗi người, ta hãy tự
thấy lỗi mình. Đó là giới luật. Dầu là hàng tu sĩ hay cư sĩ đều có thể gìn giữ
theo giới luật này ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào.
2. Thứ hai: Anupaghato: Đừng ghét bỏ lẫn nhau.
Thường khi chung sống, không phải mọi người đều cư xử giống
nhau. Có người biết cách cư xử khéo léo, người khác lại cư xử thô lỗ - chứ
không phải là do ác ý, hãy nhớ điều đó. Về thể chất cũng thế, có người siêng
năng, đầy sinh lực; kẻ khác thì yếu đuối, hay bệnh hoạn. Về lời nói thì có người
khéo léo, người không. Người nói nhiều, kẻ lại rất kiệm lời; kẻ thì ba hoa đủ
chuyện trên trời dưới đất, người chỉ thích bàn chuyện Phật pháp; kẻ thì thường
nói sai, người hay nói đúng. Đó được coi là sự không tương ưng. Khi điều này xảy
ra, tất nhiên sẽ có mâu thuẫn, xung đột ở một mức độ nào đó. Nếu có những điều
này xảy ra trong chúng, khi chúng ta cùng sống trong Pháp, chúng ta không nên để
tâm. Chúng ta cần tha thứ cho nhau, cần rửa sạch những tỳ vết khỏi tâm ta. Vì
sao? Vì nếu không, ta sẽ trở thành ganh tỵ, soi mói, thù hằn nhau. Hành động
tha thứ được coi là quà tặng của tâm từ. Nó khiến ta không chấp giữ điều chi,
không canh cánh bên lòng điều gì, không bị thứ chi gây phiền não – đó là những
người không mang lòng hằn thù. Dầu đôi khi có sai trái, có lầm lỗi, chúng ta vẫn
tha thứ lẫn nhau. Chúng ta cần nên có lòng thương yêu, tử tế, cảm thông với tất
cả mọi người quanh ta, càng nhiều càng tốt. Đó được gọi là anupaghato. Đó là một
phần trong quá trình tu tập làm người Phật tử, dầu ở tại gia hay chốn thiền
môn.
3. Thứ ba: Patimokkha samvara: Hành động như thế nào để giúp
ta đến gần cửa vào Niết Bàn hơn.
Cửa vào Niết Bàn là gì? Patimokkha. Mukha có nghĩa là cửa
vào. Mokkha nghĩa là giải thoát. Hãy ngồi gần đồ ăn để miệng ta được ăn. Đừng
ngồi xa quá, ta sẽ khó ăn được. Ngồi đủ gần để sự giải thoát ở trong tầm tay, để
ta có thể với tới thực phẩm. Nói cách khác, bất cứ hành động gì giúp ta đến gần
hơn với đạo pháp, thì ta cần phải hành động như thế. Gần với đạo pháp có nghĩa
là đi theo con đường đạo. Người cư sĩ cũng có con đường đạo của mình, giống như
hàng xuất gia có con đường đạo của họ.
Tuy nhiên người cư sĩ có thể thực hành con đường đạo của mình
theo hai cách. Cách đầu tiên là gìn giữ năm giới: không giết hại; không trộm cắp;
không tà dâm – đây là điều giúp ta sống đạo đức; không nói dối; và không sử dụng
những chất làm say. Đó là một cách sống đưa ta đến gần với Niết Bàn. Cách sống
đạo thứ hai đối với người cư sĩ là giữ tám giới luật.
Còn đối với các sa di và các vị tỳ kheo thì phải giữ mười hay
227 giới luật. Ngoài ra, họ cũng không được bỏ qua bất cứ hành động tốt lành
nào mà họ có thể làm được. Đó được gọi là acara-gocara-sampanno. Đừng đi ra
ngoài những giới luật đó, làm tổn hại chính bản thân mình. Nói cách khác, đừng
để thân, lời nói, ý của mình phạm vào các giới luật đó. Đừng thân cận với kẻ
ác, những người hành động không kiềm chế. Đừng nghe theo những người không có
phẩm hạnh. Đừng để tâm vướng bận vì họ. Hãy nghĩ đến những thiện hữu, những người
mà hành động hợp với những điều tốt đẹp mà ta đang muốn phát triển. Đó là con
đường đạo. Bất cứ ai hành động như thế được gọi là đã sống theo Patimokkha, gần
ngay cửa Niết Bàn.
4. Thứ tư Mattaññuta ca bhattasmim: Ăn uống điều độ.
Ở đây chúng ta chỉ nói đến thực phẩm vật chất. Có ba cách ăn
uống thông thường.
- Trước hết là tham ăn. Dầu bụng đã no, nhưng tâm còn đói. Miệng
đã no, không thể nuốt trôi nữa, nhưng tâm vẫn muốn ăn nữa. Đó được gọi là tham
ăn. Đừng đế tánh tham ăn làm chủ bạn.
- Cách thứ hai là ăn uống một cách tự tại. Bạn nhận lãnh những
gì có trong bát của mình, và không ăn gì ở ngoài bình bát. Hay bạn chỉ ăn những
gì có trước mặt, trong tầm tay. Không đòi hỏi những gì ở xa tầm tay. Không biểu
lộ băng cử chỉ, bằng mắt, hay bằng nét mặt rằng bạn muốn ăn thêm nữa. Chỉ ăn những
gì trong dĩa, hay trong bát của bạn. Đó được gọi là ăn uống một cách tự tại.
- Cách thứ ba là ăn uống tiết độ. Đó là một cách ăn uống nền
nếp, tốt đẹp trong đạo và cả ngoài đời. Một ví dụ điển hình là Đại đức Sivali.
Sư luôn ăn uống tiết độ. Sư thường nhận được rất nhiều vật phẩm cúng dường. Sư
có nhiều của cải. Của cải đó có được là nhờ sự tiết độ. Đại đức Sivali đã làm
như thế này. Khi Sư được cúng dường vải vóc, Sư không hề mặc những vải vóc đó,
mà Sư đem tặng cho người khác. Khi được cúng dường thực phẩm, Sư cũng không
dùng chúng, cho đến khi Sư có thể cúng dường lại cho ai đó. Bất cứ tứ vật dụng
nào mà Sư được nhận - thực phẩm, quần áo, chỗ ở, hay thuốc men, không kể ít hay
nhiều - một khi đã thuộc sở hữu của Sư, Sư sẽ không sử dụng cho đến khi Sư đã
có thể chia sẻ chúng với những người chung quanh. Khi nhận nhiều, Sư chia sẻ với
nhiều người. Khi nhận ít, sư vẫn cố gắng chia sẻ. Kết quả đem đến cho Sư bao điều
lợi ích. Thân hữu yêu mến sư, các chúng quý trọng sư, ân cần với sư. Đó là lý
do tại sao người ta nói rằng sự rộng rãi kết nối thân hữu, và xóa bỏ bạn thù.
Đó là công đức mà Đại đức Visali đã tạo nên. Khi ngài qua đời và được tái sinh
trong một đời sống đầy đủ, sung túc, không bao giờ ngài phải chịu đói khổ. Ngay
cả khi ngài đi đến những nơi hoang vu, nơi khó có thực phẩm, ngài cũng không phải
chịu đựng thiếu thốn, vất vả.
Câu chuyện này dạy chúng ta rằng, bất cứ chúng ta có gì, chỉ
nên sử dụng một phần ba của cải đó, và hãy cho đi hai phần ba còn lại. Những gì
có thể cho thú vật, ta cho chúng, những gì có thể chia sẻ với người, ta dành
cho người. Phần mà chúng ta có thể chia sẻ với bạn đạo, hãy cúng dường với trái
tim trong sáng. Đó là ý nghĩa của việc sử dụng một cách tiết độ. Chúng ta sẽ cảm
thấy thân tâm nhẹ nhàng khi làm được như thế. Khi tái sinh, chúng ta sẽ không
phải chịu đói nghèo.
Cách sống này không chỉ làm tốt đẹp cho đạo, mà đối với xã hội
nói chung cũng thế. Đó là phương tiện hữu hiệu nhất để chống khủng bố. Nó giúp
chống khủng bố như thế nào? Khi người ta không còn nghèo khổ, người ta không dễ
bị khích động. Nguyên nhân đưa đến khủng bố là gì? Một phần do người ta đói
nghèo, không nơi nương tựa, không ai chăm sóc. Khi đó, con người dễ suy nghĩ rằng,
"Tôi khổ, thì mọi người khác cũng phải khổ theo…” Cách suy nghĩ đó là do con
người còn nghèo đói và thiếu thốn. Nhưng tại sao họ đói nghèo? Vì còn có những
người chỉ biết lo cho bản thân. Họ không biết chia sẻ với đám đông. Do đó số
đông nghèo khó sẽ nổi giận, sẽ trở thành khủng bố.
Như thế khủng bố là do lòng tham lam, ích kỷ, không biết chia
sẻ những gì ta có.
Nếu có mười đồng, chúng ta có thể cho chín, và chỉ ăn những
gì mà đồng tiền còn lại có thể mua. Được thế, ta sẽ có biết bao bạn bè. Sẽ có
tình thương, hòa bình và phát triển. Tại sao? Vì khi con người có đủ ăn, có nơi
trú ngụ, có thể an tâm thì tại sao họ lại phải dấn thân vào những lập trường
chính trị phức tạp?
Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy chúng ta rằng tiết độ trong
sự hưởng thụ là việc tốt lành, cao thượng, đáng trân quý. Khi chúng ta thực
hành được như thế là chúng ta đã sống đúng theo tinh thần của mattaññuta ca
bhattasmim. Đó là chúng ta đã tu đúng, đã thực hành đúng, để đem lại lợi ích
cho bản thân và cho người khác.
5. Thứ năm, Pantañca sayanasanam: Đừng làm người lăng xăng.
Bất cứ bạn sống ở đâu, hãy sống tĩnh lặng, an bình. Đừng gây
chuyện hay, ‘hùa theo’ với những người khác trong nhóm. Đừng dây vào những vấn
đề phải tranh cãi, trừ khi đó là việc chẳng đặng đừng. Khi bạn đã tu tập, hiểu
được bổn phận của mình rồi, thì hãy tìm nơi vắng vẻ, yên tĩnh để sống, để hành
thiền. Nếu sống trong chúng, thì hãy thân cận với các chúng thích tĩnh lặng.
Khi sống một mình, ở nơi vắng vẻ, hãy là người trầm lắng. Khi sống trong chúng,
hãy là người tĩnh lặng. Chỉ thâu nhận những gì tốt đẹp, an lành mà chúng bạn đạo
có thể mang đến cho bạn. Khi sống một mình, đừng lăng xăng, bận rộn. Hãy trầm lắng
trong hành động, lời nói và tâm ý. Khi sống với nhóm - dù hai hay ba người - đừng
dây vào những việc tranh cãi, vì ở đâu có tranh cãi, ở đó không có an tĩnh.
Hành động của bạn lúc ấy khó thể tự tại, vì bạn phải náo động. Lời nói của bạn
sẽ không được êm dịu. Tâm ý của bạn - đầy những ý nghĩ giận hờn, oán trách -
thì không thể an bình. Và điều đó sẽ là nguyên nhân dẫn ta đến bao nghiệp xấu.
Khi bạn sống trong một cộng đồng - khoảng từ 4 đến 99 người trở lên - bạn phải
biết chắc đó là một cộng đồng hòa hợp, không có tranh chấp, cãi vả, không ai muốn
làm tốn thương hay gây đau đớn cho ai. Cộng đồng đó phải hòa hợp để tu tập giới
luật và Phật pháp. Một cộng đồng có kỷ luật, văn minh, nhắm đến việc phát triển
cho tất cả mọi thành viên. Đó là bổn phận của người con Phật, phải sống theo lời
Phật dạy. Đó được gọi là patañca sayanasanam: tạo ra nơi thanh vắng để sống, để
thân tâm được an lạc.
6. Thứ sáu, Adhicitte ca ayogo: Đừng dễ duôi.
Hãy tinh tấn trong việc hành thiền để đạt được định. Hãy thường
xuyên định tâm, hành thiền, để làm gương tốt cho chúng noi theo. Khi tham vấn đạo,
hãy tìm những lời dạy làm thế nào để phát triển chủ đề thiền quán. Hãy trao đổi
về những lợi ích của việc hành thiền. Thực tập tẩy sạch những uế nhiễm trong
tâm. Làm được như thế, là bạn đang đi trên con đường tiến tới trạng thái tâm
cao thượng.
Sâu xa hơn nữa là khi tâm đã được giải thoát khỏi mọi chướng
ngại, đã vào được định, không còn dao động lên xuống. Tâm đã ổn định, kiên cố,
mạnh mẽ, không còn gì có thể làm uế nhiễm nó. Đó được gọi là adhicitte ca
ayogo, nguyện đạt được tâm giải thoát. Vì thế đừng dễ duôi. Hãy luôn tu hành
miên mật.
Etam buddhanasasanam: Khi bạn làm được những điều này, là bạn
đã sống theo lời Phật dạy. Đây là những lời Phật đã dạy, từ kim khẩu Phật. Vì
thế tất cả chúng ta đều phải cố gắng để thực hành những lời ấy nơi bản thân. Nếu
bạn đã thấm nhuần những lời dạy này, bằng tâm chân thật, trọn lành, thì dù bạn
chưa thể giải thoát tâm hoàn toàn khỏi khổ đau, thì ít nhất bạn cũng đang tự
vun trồng, phát triển tâm theo đúng hướng. Những hành động bất thiện của bạn sẽ
ngày càng bớt, và những tánh thiện mà bạn chưa có được sẽ phát khởi thay vào
đó. Trong khi các tánh thiện bạn đã có, sẽ ngày càng tăng trưởng, nở hoa.
Giờ bạn đã được nghe bài Pháp này, hãy chiêm nghiệm và thực hành. Hãy
rèn luyện bản thân để sống đúng theo lời Phật dạy. Làm được như thế rồi, thì bạn
sẽ được hạnh phúc, thịnh vượng, tâm bạn ngày càng tăng trưởng trong lời Phật dạy.