Trong tác phẩm "Trai nước Nam làm gì" của nhà nghiên cứu Hoàng Đạo Thuý, sau khi nhắc đến những tấm gương của tổ tiên như Triệu Vua Bà, Lê Phán Quan, Lê Thái Tổ, Vua tôi nhà Trần, Phạm Ngũ Lão, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Võ Tánh, Lê Trực, Phạm Tử Nghi, Lê Như Học, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Nguyễn Công Trứ..., tác giả viết:
Xem qua từ nay về trước ta có thể tự hào là người Nam, những tình huống lúc này ta nên tự ngẫm nghĩ mà tự sỉ "Biết xấu hổ đã là gần bậc mạnh".
Mình ta Ta hãy xét mình ta. Biết mình, biết người mới làm được việc. Mình có cái hay gì?
· Trí tuệ thì sáng nhanh.
· Học tài lắm, sáng dạ ham học, trọng học thức.
· Khéo tay chân.
· Bắt chước khéo.
· Nhớ lâu.
· Lễ phép.
· Trọng đạo đức.
· Giữ được liêm sỉ ở khu vực mình.
· Khí dân mạnh.
· Yêu gia đình.
· Quấn quýt làng mạc.
· Dám làm.
· Hay nhớ ơn.
· Biết thương người.
· Ưa hoà bình.
· Trên chiến trường có can đảm, kỷ luật.
· Cả giống nòi một tiếng nói
· Đàn bà đảm đang, tiết nghĩa, cần kiệm.
· Bền chí.
Nhưng,
Cũng nhiều thói xấu lắm:
· Trốn tránh trách nhiệm.
· Hay quên nước, việc chung
· Ra ngoài khu vực mình thì hay quên liêm sỉ.
· Khoe khoang.
· Dối trá quỷ quyệt.
· Cờ bạc.
· Không đúng giờ, đúng phân tấc.
· Không rõ ràng.
· Đến đâu hay đó, xong thì thôi.
· Làm việc thì ham mê, ít vì chí muốn.
· Bướng mà không quả quyết.
· Không lương tâm.
· Hay ghen ghét, không đồng lòng.
· Rượu.
· Không giữ mình.
· Bài bác chế nhạo.
· Xa hoa.
· Thanh sắc.
· Tham.
Phần hỏng cơ hồ lấn phần được. Xem kỹ hai tấm sổ trên này, thì đức - công có nhiều, đức - tư có ít, khi thường thì tình thường thắng, khi biến thì những tính mạnh mẽ di truyền vẫn phát ra được. Cái cốt vẫn có, nếu chịu chữa chạy bỏ những cái ham muốn một lúc thì có thể mong mỏi (trông mong) được".
Đó là những nhận xét vào thời điểm 1941-1943, nhưng nhiều điểm đến bây giờ vẫn còn ý nghĩa.