Tam Quốc Diễn Nghĩa » Luận bàn Tam Quốc - Mao Tôn Cương
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
T. Đình Thục Hán
Đại chiến Xích Bích
Quan Vũ
Quan Vũ
Mã Siêu
Hoàng Trung
Chu Du
Mã Tốc
Lưu Bị
Quan Vũ
Trương Phi
Lã Bố
Khương Duy
Bàng Thống
Cam Ninh
Cam Ninh
Chu Du
Chu Du
Đại Kiều
Đặng Ngải
Đặng Ngải
Điển Vi
Điêu Thuyền
Điêu Thuyền
Đổng Trác
Gia Cát Lượng
Gia Cát Lượng
Hạ Hầu Đôn
Hạ Hầu Đôn
Hạ Hầu Uyên
Hoàng Trung
Hoàng Trung
Hứa Chử
Khương Duy
Khương Duy
Lã Bố
Lã Bố
Lã Mông
Lã Mông
Lăng Thống
Lục Tốn
Lục Tốn
Lưu Bị
Lưu Bị
Lưu Tôn
Mã Đại
Mã Siêu
Mã Siêu
Mạnh Hoạch
Ngụy Diên
Pháp Chính
Quách Gia
Quan Bình
Quan Hưng
Quan Vũ
Quan Vũ
Tào Hồng
Tào Nhân
Tào Phi
Tào Tháo
Tào Tháo
Thái Sử Từ
Tiểu Kiều
Tôn Càn
Tôn Kiên
Tôn Quyền
Tôn Quyền
Tôn Sách
Tôn Sách
Tôn Thượng Hương
Tôn Thượng Hương
Triệu Vân
Triệu Vân
Trình Dục
Trương Bào
Trương Cáp
Trương Cáp
Trương Chiêu
Trương Liêu
Trương Liêu
Trương Phi
Trương Phi
Từ Hoảng
Từ Hoảng
Tư Mã Sư
Tư Mã Viêm
Tư Mã Viêm
Tư Mã Ý
Tư Mã Ý
Từ Thứ
Tuân Úc
Tuân Úc
Viên Thiệu
Vu Cấm

Mao Tôn Cương

Người dịch: Phan Kế Bính

Hiệu đính: Bùi Kỷ


ĐỂ HIỂU TAM QUỐC CHÍ DIỄN NGHĨA ...

I
Tam quốc diễn nghĩa nguyên tên là Tam Quốc chí thông tục diễn nghĩa, là một bộ tiểu thuyết cổ điển dài, được nhân dân ưa thích nhất, và lưu truyền rộng rãi như truyện Thuỷ Hử, lại là bộ tiểu thuyết lịch sử thông tục độc đáo của Trung Quốc. Tác giả là La Quán Trung.

La Quán Trung tên là Bản, tên chữ là Quán Trung, lại có biệt hiệu là: "Hồ Hải tản nhân”, có thể là người Thái Nguyên (còn có những thuyết nói ông là người Lư Lăng, Tiền Đương, Đông Nguyên v.v...). Ông sinh vào cuối đời Nguyên, mất vào đầu đời Minh, ước chừng vào khoảng năm 1330 đến năm 1400 giữa thời thống trị của Nguyên Thuận Đế (Thoát Hoan Thiếp Mộc Nhĩ) và Minh Thái Tổ (Chu Nguyên Chương).

Ông rất có tài văn chương, rất giỏi về từ khúc câu đó, lại việt cả các loại kích, nhưng tổi tiếng nhất là về tiểu thuyết.

Về tiểu thuyết thì ngoài Tam Quốc ra, tương truyền có tất cả hơn mười bộ, như nay ta biết còn có: Tuỳ đường chí, Tần Đường ngũ đại sử diễn nghĩa, Tam Toại bình yêu truyện v.v... (Hiện nay những bản còn lưu truyền đã bị người đời sau sửa đổi, viết lại, không còn là nguyên bản của ông nữa); lại có truyền thuyết rằng: La Quán Trung cũng là một người tham gia soạn và chỉnh biện truyện Thuỷ Hử. Bạn của ông nói: tính tình ông "ít hoà hợp với mọi người” vì "thời thế nhiễu nhương nhiều biến cố” nên ông đi lang bạt các nơi, về sau "không biết đời ông kết cục ra sao”.

Những truyền thuyết về sau này còn nhắc tới việc ông tham gia hoạt động trong cuộc khởi nghĩa của nông dân, từng có quan hệ với Trương Sĩ Thành, là một trong những người "có chí mưu đồ sự nghiệp bá vương”. Tiếc rằng tình hình tường tận thế nào nay không thể biết rõ được.

Tam Quốc diễn nghĩa tuy về phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, từ lâu, truyện Tam Quốc đã lưu truyền rộng rãi trong dân gian, nói cách khác, nhân dân quần chúng đã sớm sáng tạo ra những nhân vật điển hình và nhân vật lịch sử Tam Quốc. Đời nhà Đường có một nhà thơ, trong khi viết thơ tả về chuyện đùa giỡn của trẻ em đã ghi: "Hoặc giễu Trương Phi đen, hoặc cười Đặng Ngải nói lắp”, trong đó chẳng phải đã ẩn hiện hình tượng của một Trương Phi lỗ mãng đó sao? Có thể chứng minh rằng ở thời đó một số nhân vật và sự tích trong truyện Tam Quốc đã rất phổ biến tới mức độ mọi nhà đều biết, đàn bà trẻ con đều hay. Thời Bắc Tống có một nhà văn cũng ghi lại rằng ở thông quê, lúc trẻ con quấy, nghịch, người nhà thường cho tiền chúng tụ họp nhau lại ngồi nghe kể chuyện Tam Quốc. Đồng thời vì đời Tống nền kinh tế thương phẩm thành thị từ trước chưa bao giờ phát đạt như vậy, yêu cầu về sinh hoạt văn hoá của các tầng lớp của nhân dân thành thị ngày càng tăng lên, nên truyện Tam Quốc ngày càng thịnh hành. Cứ xem trong các môn, loại " chuyện kể” ở những đô thị lớn tới bấy giờ đã có riêng mục "kể chuyện Tam quốc” thì có thể biết rằng Tam Quốc cũng là một mục được quần chúng đô thị ưa thích nhất. Thời kỳ Nam Tống, lời ghi của nhà thơ, "Tào công đại chiến” (trận Xích Bích) là điển tích trang trí của đèn kéo quân trong dịp tết Nguyên Tiêu (tết rằm tháng giêng). Đến triều Nguyên đã có bản in "toàn tướng Tam Quốc chí bình thoại”, nửa tranh, nửa chữ, đây là dấu vết của "chuyện kể” bằng miệng dần dần được ghi chép lại bằng chữ, bản viết được hình thành cũng chứng tỏ rằng chuyện Tam Quốc đã rất được lưu hành và phát triển. Ngoài ra, đời Nguyên là thời kỳ kịch hát rất thịnh, cứ xem những tiết mục không được đầy đủ của người đời Nguyên còn giữ lại đến nay, chuyện Tam Quốc cũng như Thủy Hử đều được các nhà viết kịch lịch sử thường lấy làm đề tài.

Trong khi dân gian truyền miệng, các nghệ nhan kể chuyện, các nhà văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch không ngừng sáng tạo, làm cho những tình tiết câu chuyện và hình tượng nhân vật phong phú thêm.

Cuối đời Nguyên đầu đời MInh nhà tiểu thuyết La Quán Trung đã viết bộ Tam Quốc chí thông tục diễn nghĩa chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của quần chúng nhân dân. Dĩ nhiên trong khi viết, ông có tham khảo những bản ghi chép của các nhà viết sử và các nhà văn khác. nhưng quan trọng hơn, là phần thể nghiệm cuộc sống phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông. Một trong những bản Tam Quốc diễn nghĩa ra đời sớm nhất hiện nay còn giữ được bản in năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Trị đời Minh (1494), năm Nhâm ngọ Gia Tĩnh (1522) gồm 24 cuốn 240 tiết.

Từ đó về sau, đến đời Minh nhiều bản Tam Quốc (nội dung đều không có gì khác nhau lắm) đã lưu hành gần 300 năm. Đầu đời Thanh, hai cha con Mao Luận, Mao Tôn Cương (người Trần Châu, tình Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện Tam Quốc. Công việc tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18 (1679) hoặc sớm hơn một chút. Họ chỉ gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết nhỏ, và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi, lại đặt cho bộ Tam Quốc cái tên là " cuống sách đệ nhất tài tử”. Từ đó bản của Mao tôn Cương thay bản của La Quán Trung tiếp tục được lưu truyền rộng rãi.

Truyện Tam Quốc của La Quán Trung so với bản truyện kể của đời Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau:

1. Tước bớt một số phần mê tín, nhân quả báo ứng và những tình tiết "quá ư hoang đường”.
2. Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú lên rất nhiều, tô vẽ tính cách và hình tượng nhận vật cho sâu sắc, đậm nét hơn.

3. Nâng cao ngôn ngữ đến mức nghệ thuật, tăng cường thêm sức hấp dẫn của nghệ thuật.

4. Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và xu hướng tính văn học là yêu Lưu Bị, ghét Tào Tháo, hướng về Thục chống lại Ngụy trong toàn cuốn sách.

Nói tóm lại, La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện Tam Quốc mà quần chúng nhân dân và những nghệ nhân kể chuyên đã sáng tác ra, nâng cao lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng. Còn bản của Mao Tôn Cương chẳng qua có thêm bớt ít câu, ít chữ, sửa chữa một số chi tiết nhỏ trong truyện, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng hoặc những chỗ chưa thỏa đáng trong bản cũ. Mao Ton Cương đã tước bỏ rất nhiều những chương tấu, những bài bình luận, tán rộng trong phần chú thích, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần v.v... làm cho truyện càng hoàn chỉnh, văn vẻ, trong sáng, gọt giũa, trên một mức độ nào đó tcũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Vì vậy công việc tu đính đó có thể nói là có ích đối với bản cũ. Do đó, bản của Mao Tôn Cương có thể thay thế được bản cũ thịnh hành trong 300 năm và cũng vì thế ngày nay chỉnh lí ít lại trong bộ Tam Quốc, chúng tôi đã dựa vào bản của Mao Tôn Cương.

II
Trong lịch sử, việc chính thức dựng nước của ba nước (Tam Quốc) Ngụy, Thục, Ngô bắt đầu từ năm 220 công lịch. Tào Phi phế Hiến đế (Lưu Hiệp) nhà Đông Hán lên ngôi vua đổi tên nước là Ngụy. Năm 221 Lưu Bị lên ngôi vua đổi tên nước là Thục Hán. Năm 222 Tôn Quyền cũng đổi niên hiệu là Hoàng Vũ, bắt đấu chống Ngụy, đến năm 229 xứng đế ở Giang Đông( Ngô đại đế)\, lấy tên nước là Ngô.

Năm 263 công lịch, Ngụy diệt Thục Hán trước. Năm 265 Tư Mã Viêm phế Ngụy Tràn Lưu vương (Tào Hoán), tự xưng là nhà Tấn. Năm 280 Tấn lại diệt Ngô. Đến đó Tam Quốc đều bị Tấn tiêu diệt, trở lại thống nhất. Cho nên toàn bộ lịch trình của tam Quốc phải là lịch trình 60 năm, từ năm 220 đến 280. Chẳng qua từ năm 212 Tôn Quyền sang đóng đô ở Kiến Nghiệp, năm sau Tào Tháo tự xưng Ngụy Công. Lai đến năm sau Lưu Bị vào Thành Đô kẻ từ khi lĩnh chức Mục ở Ích Châu, cái thế chân vạc của Tam Quốc thực tế đã hình thành.

Dĩ nhiên muốn tìm rõ căn nguyên cội rễ của Tam Quốc, thì phải tìm ngược trở lên, phải nói từ cuộc khởi nghĩa lớn của quân Khăn Vàng cuối đời Hán, vì ba cái tập đoàn quân phiệt Ngụy, Thục, Nô đã hoài thai và trưởng thành trong suốt quá trình giai cấp thống trị phong kiến trấn áp quân khởi nghĩa. Quan Khăn Vàng khởi sự năm 184 công lịch (năm đầu niên hiệu Trung Bình đời Đông Hán Linh đế), vì vậy người ta quan niệm thời gian lịch sử Tam Quốc kể từ năm 184 đến gần 280 gần suốt cả thời gian một thế kỷ.

Bộ truyện hoàn toàn đúng như vậy viết thẳng một mạch từ khởi nghĩa Khăn Vàng đến Tư Mã Viêm thống nhất toàn Quốc. Cứ nhìn vào lịch sử đó là thời đại rất hỗn loạn, nhân dân chịu nhiêu tai nạn nặng nề.

Cuối đời Đông Hán, đến thời kỳ Hoàn Đế Lưu Chí, Linh đế Lưu Hoằng, tình hình đen tối thối nát đến cực điểm. Nhà vua cầm đầu công khai bán quan tước, tước tam công giá 10 triệu tiền. Ngoại tộc, hoạn quan tham tàn ngang ngược, bạc ác trăm bề, đánh lộn lẫn nhau, thành ra những "quan kẻ cướp”, ví dụ: người ngoại tộc Lương Kí trong nhà có tới 3 tỉ tiền. Hoạn quan Hầu Lãm cướp của người khác 100 khoảnh ruộng, hơn 280 ngôi nhà. Họ hàng thân thích của chúng rải rác khắp châu quận, chuyên môn vơ vét hút máu mủ của nhân dân. Đại đại chủ quan liêu thời ấy càng sẵn có thế lực hùng hậu, bọn tay chân dồ đệ kết thành những tập đoàn ra sức thôn tính đất đai, bóc lột nông dân thảm khốc, thường biến thành những bọn quân phiệt võ trang trực tiếp chém giết nhân dân.

Vì chính trị thối nát như vậy, để điều không sửa chữa, xảy ra lụt to, hạn hán lớn hết năm này qua năm khác, thường thường có đến mấy chụ vàn nhà đói khát lầm thân, thậm chí "có nhà chết đến 4,5 người, có nhà chết hết”. Thời kì chính trị thối nát ấy cũng là thời kì mâu thuẫn giai cấp sâu sắc nhất của xã hội phong kiên Đông Hán. Kết cục nông dân do Trương Giác lãnh đạo đã nổi lên chống cự với một quy mô rất lớn, các nơi hưởng ứng rầm rầm, tổng số quan khởi nghĩa lên rất nhanh tới mấy chục vạn người, thanh thế lừng lẫy, xưa nay chưa từng có. vì điều kiện lịch sử hạn chế, vì những cuộc đàn áp đẫm máu của giai cấp đại địa chủ và tập đoàn thống trị, nên quân khởi nghĩa Khăn Vàng anh dũng và những nghĩa quân nổi dậy sau đó đều liên tiếp bị thất bại. Nhan dân bị chém giết gần 20 vạn, nhưng chính quyền của nước Đông Hán cũng bị lung lay suy yếu nhiều, cuối cùng đi đến sụp đổ. Giai đoạn đầu là tình thế trung ương tập quyền bị tan vỡ, thế lực đại phương được hình thành, cũng chính là bắt đầu tình thế bọn quân phiệt đánh lẫn nhau, mỗi kẻ xưng hùng xưng bá chiếm cứ một phương.

Trước tiên là quân phiệt Lương Châu Đổng Trác, lợi dụng mâu thuẫn của các bộ tộc phía Tây và mâu thuẫn nội bộ của giai cấp thống trị, tổ chức ra quân hỗn hợp: Khương, Hồ, Hán, do những tên trùm thổ hảo người Khương, Hồ và những tên địa chủ người Hán cầm đầu, cực kì tàn nhẫn, quen thói phá hoại, chuyên nghề cướp bóc chém giết, đã hại dân Tây Khương và nghĩa quân Khăn Vàng. Đến năm 189 công lịch, cuộc đấu tranh giữa người ngoại tộc Hà Tiến và hoạn quan Kiển Thạc tạo cơ hội cho Đổng Trác vào Lạc Dương bèn phế Thiết Đế Lưu Biện, lập Hiến đế Lưu Hiệp, cướp lấy quyền lớn, mưu đồ khống chế các thế lực khác, và tiếp tục các hành vi cướp bóc chém giết của hắn. Vì vậy đã gây nên lòng căm thù tột độ trong nhân dân. bon quan liêu địa chủ quân phiệt vì lợi ích của bản thân cũng nhao nhao nổi dậy chống lại hắn. Rồi đến năm 190 công lịch mười mấy đạo quân địa phương lập thành " quân Quan Đông” do Viên Thiệu cầm đầu tiến đánh Đổng Trác. Từ đó chính thức bắt đầu cuộc giao tranh giữa bọn quân phiệt.

Từ năm 190 đến 196 cuộc đại hỗn loạn do Đổng Trác và bon dư đảng Tay sai: Lý Thôi, Quách Dĩ, v.v... gây ra mới kết thúc. Vì những việc cướp bóc, vơ vét, chém giết phá hoại cực kì hung ác của chúng là cho vùng đất đai rộng lớn giữa hai đô thành Lạc Dương và Tràng An hoàn toàn thành nơi vắng vẻ tiêu điều, gạch ngói tan tành, "trong thành không có dấu chân người”, ngay các quan từ thượng thư trở xuống đều "hoặc bị chết đói trong bốn bức tường”. Đổng Trác thì tích trữ được đủ lượng cho quan sĩ ăn trong 30 năm, mấy chục vạn cân vàng bạc và vô số vật quý giá, biến xương máu của nhân dân thành cái vốn cho hắn khiên tiến có thể tấn công, khi lùi có thể giữ được. Hắn lại phá hoại chế độ tiền cũ, huỷ khí cụ bằng đồng đúc tiền nhỏ cho hàng hoá lưu thông bành trướng; giá mười đấu gạo lên tới mấy chục vạn tiền. Rất dễ hiểu nhân dân khổ cực biết chừng nào. Đồng thời những di sản văn hoá quý báu đã được sáng tạo và tích luỹ lâu đời cũng bị phá huỷ hết sạch.
Trong quá trình quân Quan Đông dánh dẹp Đổng Trác, rất nhiều tập đoàn đại chủ phong kiến nhân cơ hội này, tăng cường thế lực của mình, mỗi kẻ hùng cứ một phương, lớn mạnh nhất có Viên Thiệu, Viên Thuật và Tào Tháo. Viện Thiệu là nhân vật đại biểu cho đại địa chủ đại quan liêu thời đó " bốn đời làm đến chức tam công, đồ đệ tay chân khắp thiên hạ”. Viện Thiệu chiếm cứ Kí Châu, lại thôn tính ba châu Thanh, Tinh, U, ...Viên Thiệu thì phát triển từ nam Dương đến vùng Hoài Nam. Sự tàn bạo xa xỉ của chúng và những chiến dịch hết năm này qua năm khác, cũng gây cho quần chúng bao nhiêu nỗi thống khổ; quân sĩ thậm chí phải ăn ốc và quả dâu mà sống. Năm 200, Viện Thiệu quyết chiến ở Quan Độ với Tào Tháo, tuy thế lực Tào Tháo còn yếu nhưng Viên Thiệu đã bị đánh bại. Trong khoảng 10 năm từ 197 đến 207, có thể nói lực lượng chủ yếu của Tào Tháo dùng vào việc tiêu diệt thế lực anh em cha con họ viên, cuối cùng thống nhất được phương Bác, chấm dựt được thế lực chiếm cứ thối nát của bọn quan liêu địa chủ thời đó, chuyển vào một tình thế mới, tức là cái thế chân vạc, xâu xé lẫn nhau giữa ba cái tập đoàn quân phiệt Tào, Lưu, tôn, địa vị xã hội còn thấp mới nổi lên.

Năm 207 Tào Tháo đánh tan Ô Hoàn ở phương bắc, tiêu diệt thế lực còn rớt lại của Viên Thiệu. Đồng thời Lưu bị gặp Gia Cát Lượng ở Long Trung. Năm sau Tào Tháo ỷ vào thực lực dần dà lớn mạnh của mình, cầm đầu hơn 10 vạn quân nam tiến đánh Lưu Biểu ở Kinh Châu, nuốt chửng binh lực của Kinh châu, định vượt qua sông Trường Giáng đánh Tôn Quyền, thực hiện cái chí lớn thốngnhất nam bắc. Kết quả, lực lượng của Tôn Quyền, Lưu Bị liên hiệp lại, đốt hết chiến thuyền, quân của Tào Tháo thua to. Đó là trận Xích Bích nổi tiếng trong lịch sử.

Trận này phá vỡ tan tành cái kế hoạc thống nhất toàn quốc của Tào Tháo, ổn định địa vị của Tôn quyền ở Giang Nam, đồng thời cũng lào cho Lưu Bị có khả năng từ Kinh Châu tiến vào Ích Châu, từ chỗ lâu nay vẫn đi nương nhờ người khác, đến chỗ có một thế độc lập rất lớn. Trận Xích bích thực là cái then chốt cho sự hình thành của cái thế "chia ba” chân vạc.

Sau trận Xích Bích, Tào Tháo lui về Trung Nguyên mở đồn điền, luyện quân lính, chuẩn bị các cuộc chiến tranh sau. Từ năm 211, đầu tiên chuẩn bị tấn công Trương Lỗ ở Hán Trung, đến năm 214, 215 lần lượt đánh bại Mã Siêu, Hàn Toại, hàng phục Trương Lỗ, lấy được Hán Trung. Nhưng đến năm 219 Hán Trung rút cuộc lại về tay Lưu Bị. Đánh nhau trong 8, 9 năm chỉ lấy được có vùng Quan Lũng. Năm 220 Tào Tháo ốm chết, Tào Phi phế Hán lập nước Nguỵ, nhưng từ đầu chí cuối không có đủ lực lượng thống nhất nổi toàn quốc.

Sau khi thắng trận Xích bích, năm 209 Lưu Bị lĩnh chức mục ở Kinh Châu, năm 214 lên ngôi hoàng đế lập nên Thục Hán. Sau khi lấy đựơc Hán Trung, Quan Vũ từ Giang Nam bắc tiến đánh Phàn Thành, Kinh Tương, nhân dân khởi nghĩa dần dần chống lại Tào Nguỵ, hưởng ứng Quan Vũ, Tào Tháo đang túng đường ứng phó. Nếu bấy giờ Tôn Quyền thừa có liên hiệp với Thục đánh Nguỵ, cục diện lịch sử có thể sẽ đổi khác, nhưng quân Ngô không những không ra quân giúp đỡ, lại đánh thọc vào hậu phương Thục, cướp Giang Lăn, giết chết Quan Vũ. Hành động nghiêm trong ấy không những cứu vãn được tình thế bất lợi cho Tào Nguỵ, mà còn làm cho mâu thuẫn giứa Ngô, Thục càng sâu sắc hơn. Năm 222, để trả thù cho Quan Vũ và việc mất Kinh Châu, Lưu Bị cử đại binh đi đánh Ngo, vì sai lầm trên chiến thuật và chiến lược, bị thua thảm hại trong trậnh Hào Đình, hơn 40 dinh, mấy trăm dặm vô số đồ quân dụng mất hết trong chốc lát. Lưu Bị chạy về Vĩnh An, năm sau ốm chết ở đấy. Con là Lưu thiền nối ngôi do thừa tướng Gia Cát Lượng phụ chính, hồi phục lại được chính sách liên hiệp Ngô, Thục chống Nguỵ.

Thua trần Hào Đình, Thục Hán tổn thất nặng nề, uy thế lớn của Lưu Bị sụt hẳn đi, mâu thuẫn nội bộ giai cấp đã đến mức bộc lộ ra ngoài, thậm chí nổi dây làm phản, đặc biệt là của tù trưởng các quận Ích Châu, Việt Tuấn, Tường Khi , lực lượng "rợ nam” rất mạnh. Trước tình thế khó khăn đó, Gia Cát Lượng chỉ có dùng cách vỗ về mà không đánh, chuyên môn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng để cho nội bộ được yên. Đến năm 224 lòng người ổn định dần, chuẩn bị đã xong, bèn khởi binh đánh "rợ nam”. Về sau, "bảy lần bắt, bảy lần tha” làm cho Mạnh Hoạch hàng phục, đạt được mục đích chính trị " dùng rợ trị rợ: thông qua bọn cường hào đại phương mà thống trị dân tộc thiểu số vùng Tây Nam.

Từ năm 227 trở đi, để chống lại nước Nguỵ lớn mạnh, mưu đồ sự sống còn, Gia Cát Lượng lại bắt đầu chiến dịch Bắc phát "dùng thế công để làm thế thủ” Trước sau tất cả sáu lần, năm lần chủ động tấn công, một lần bị động phải phòng thủ. Đó là sáu lần ra Kì Sơn” mà mọi người thương quen biết ( thực ra chỉ có ba lần đi qua Kì Sơn). Lực lượng bản thân Thục Hán lúc đó chưa được hoàn toàn khôi phục như Gia Cát Lượng thấy rõ nếu không chủ động để Nguỵ đánh tất lâm vào thế bí, bèn miễn cưỡng gắng sức tiến hành công cuộc Bắc phát vô cùng gian khổ. Lần cuối cùng năm 234 ra Tà Cốc, chiếm đất Võ Công, định kế hoạch đóng lâu dài ở Vị Nam, nhưng bị ốm chết trong doanh trại Ngũ Trượng Nguyên.

Gia Cát Lượng chết, về mặt quan văn trước sau do Tưởng Uyển, Phí vĩ tiếp tục chủ chính; đại tướng do Khương Duy cầm đầu. Tưởng, Phí đều không chủ trương miễn cưỡng đánh Nguỵ, Khương Duy thì cố sức chủ trương Bắc phạt, từ năm 249 đến 262 ra quân cả thảy chín lần. Vì vậy sức dân mệt mỏi, lòng người chán ghét chiến tranh: Bắc phát lần thức sáu ở Đoạn Cốc, bị Đặng Ngải đánh thua, quân lính chết và bị thượng rất nhiều, phái Tây Cam Túc không quy phục Thục Hán nữa, người Ích Châu cũng nhao nhao phản đối chiến tranh. Lại thêm hậu chủ Lưu Thiện ngu muội, hoạn quan Hoàng Hạo chuyên quyền, chính trị cực kì thối nát. Như vậy làm cho Tào Nguỵ thành ra có khả năng diệt Thục.

Mùa xuân năm 263, Tư Mã Chiêu phái 18 vạn quân do Đặng Ngải, Gia Cát Tự, Chung Hội ba đường cùng tiến đại binh đánh Thục, Khương Duy bị bức lui về giữ Kiếm Các. Đầu mùa đông, Đặng Ngải vượt ải Âm Bình, tiến binh vào vùng hiểm trở núi non hoang vu phía đông Tùng Phan 700 dặm, đột nhiên hạ được Giang Du, hậu phương của Kiếm Các, giết Gia Cát Chiêm ở Miên Trúc, vào thẳng Thành Đô. Lưu Thiện nghe theo ý kiến phe đầu hàng của Tiền Chu, đón hàng Đặng Ngải, và ra lệnh cho Khương Duy đầu hàng Chung Hội. Thục Hán diệt vong từ đó.

Năm 265 Tư Mã Chiêu ốm chết, con là Tư Mã Viêm bức Tào Hoán nhường ngôi cho mình, xưng là vua nhà Tấn. Nhà Nguỵ diệt vong từ đó.

Về mặt Đông Ngô, từ sau khi Tôn Quyền chết, nội bộ cứ lục đục mãi không yên. Gia Cát Khác đem 20 vạn quân đánh nguỵ, thất bại trở về, bị Tôn Tuấn giết chết. Sau khi Tôn Tuấn chết, êm là Tôn Lâm chuyên quyền, phế Tôn Lượng, lập Tôn Hựu, Tôn Hạo tiếp tục làm vua nước Ngô, vốn hay gây sự, cướp bóc chém giết, nền chính trị bóc lột tàn khốc của Đông Ngô lúc ấy ngày càng bạo ngược thối nát, nhân dân khởi nghĩa chống lại ầm ầm. Năm 279 Tư Mã Viêm đưa 20 vạn quân chia làm sáu đường đánh Ngô, hầu như không gặp phải sức chống đỡ mạnh mẽ nào, năm sau tiến đánh đến Kiến Nghiệp, Tôn Hạo đón hàng. Nước Ngô cũng mất nốt. "Thiên hạ chia ba” đến bấy giờ toàn bộ do nhà Tấn thống nhất.

Chỉ căn cứ vào phần tóm tắt rất sơ lược trên đây, chúng ta dế thấy ngay lịch trình lịch sẻ của thời kỳ này rối ren biết chừng nào. Bộ truyện của chúng ta chính là viết đúng vào cái lịch trình lịch sử với một thời gian dài dằng dặc, là tình thế phúc tạp như đã kể trên. Đối chiếu với sự thực lịch sử trên đây, cuốn sách lớn gồm 120 hồi, đại khía nội dung chia ra như sau:

Hồi 1 và hồi 2 là mào đầu cho cả cuốn sách, dựa vào nền chính trị thối nát của nhà hán và cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng mà dẫn tới việc lên sân khấu đấu tranh của "các tay anh hùng”.

Từ hồi ba đến hồi mười bốn viết về quân lính và các dư đảng của Đổng Trác vào Lạc Dương cho đến lúc bị tiêu diệt.

Hồi mười bốn đến hồi ba mươi ba viết về tình hình các mặt trong giai đoạn Tào Tháo đánh họ Viên,thống nhất phương Bắc.

Hồi ba mươi tư đến hồi bốn mươi viết về tình tiết Lưu Bị sang Kinh Châu,gặp Gia Cát Lượng. Từ hồi bốn muơi mốt đến hồi năm mươi cuốn sách toàn ra sức viết về Tào Tháo xuống miền Nam và cảnh tượng hung tráng của trận Xích Bích.

Hồi 51 đến hổi 57 chủ yếu viết về sự diễn biến và phát triển của mối quan hệ phức tạp tinh tế giữa hai bên Lưu Bị và Tôn Quyền, tuy liên kết mà vẫn mâu thuẫn với nhau.

Từ hồi 57 trở xuống thẳng một mạch đến hồi 74 viết Tào Tháo tiến quân đánh lấy Hán Trung. Lưu Bị lấy Ích chấu cướp Hán Trung.

Từ hồi bảy mươi nhăm đến hồi tám mươi nhăm viết thành một đoạn trong đó tình tiết chủ yếu là Quan Vũ bị giết chết. Ngô Thục giao tranh, Lưu bị ốm chết, kèm them chuyện dựng nước của Ngụy và Thục.

Hồi tám mươi nhăm đến hồi một trăm linh bốn toàn bộ viết về sự tích đánh nam dẹp bắc "bảy lần bắt” sáu lần ra” của Gia Cát Lượng cho tới khi "cúc cung tận tụy” ốm chết trong hàng quân.

Từ đấy trở xuống hồi 115 viết về cuộc Bắc phạt của Khương Duy. Ba hồi sau, hồi 116 viết về quân của Tấn đánh Thục cho đến khi Thục diệt vong.

Hai hồi cuối cùng lấy chuyện quân Tấn diệt Ngô, ba nước thống nhất làm đoạn kết thục cho toàn bộ cuốn sách.

Độc giả đại khái cứ theo những đoạn chia như vậy mà đọc có thể thấy rõ ràng cuốn truyện không phải dàn ra theo đường thẳng cứng nhắc, mỗi đoạn chỉ chuyên viết về một chuyện. ví như chúng tôi nói từ hồi 14 đến hồi 33 hầu như là giai đoạn tiêu diệt họ Viên, thống nhất phương Bắc, nhưng trong đó còn rất nhiều tình tiết lí thú như Lã Bố bắn kích ở cửa Viên Môn, Hạ Hầu Đôn rút tên nuốt mắt, Tào Tháo đi săn ở Hứa Điền, Tào Tháo và Lưu Bị cùng nhau uống rượu luận anh hùng, Nễ Hành đánh trống mắng Tào Tháo, Quan Vũ treo ấn gói vàng, qua năm cửa quan chém sáu tướng, Quan Vũ, Trương Phi gặp nhau ở Cổ Thành v.v… qua những tình tiết đó, đạt được mấy mục đích như sau: mô tả sự tiến triển của lịch sử, làm nổi bật tính cách của nhân vật và diễn tả thái độ yêu ghét. Những phần khác cũng thế.

Ngày trước có nhà bình luận nói bộ Tam Quốc "Kể truyện trăm năm, bao quát được muôn việc” quả là không ngoa.

 
Trước
Đầu trang
Sau
Bình luận
  10 Mãnh tướng giỏi thời Tam Quốc
  20 Mỹ Nhân Đẹp Nhất Trung Hoa Cổ Đại
  7 cách nhìn người của Gia Cát Khổng Minh
  Ai bắt Điêu Thuyền 'đẻ' trước 1.000 năm?
  Ai mới là Thục Hán đệ nhất quân sư, tài vượt Khổng Minh?
  Ai mới là đạo diễn vụ Tào Tháo đòi cướp vợ Chu Du?
  Ai đứng đầu Ngũ hổ tướng trong Tam Quốc diễn nghĩa?
  Ba lần đến lều tranh
  Bất ngờ với câu phán của Tào Tháo sau chiến bại Xích Bích
  Bí ẩn mộ phần danh tướng thời Tam Quốc
  Bí ẩn những lời “sấm truyền” của Gia Cát Lượng
  Bí ẩn phong thủy quanh cái chết của Gia Cát Lượng
  Các anh hùng của Triều đình nhà Ngô
  Các truyền thuyết về nàng Sái Văn Cơ
  Câu chuyện luân hồi: Hồi ức “rượu ấm trảm Hoa Hùng”
  Các nhân vật Tam Quốc dưới nét vẽ của hậu thế
  Chân dung một số anh hùng thời Tam Quốc
  Chân Thị
  Chỉ ở phương diện sắc và tình, người ta mới thấy một con người hoàn toàn khác với sử sách lẫn tiểu thuyết của Lưu Bị.
  Chu Du
  Chuyện hoàng đế hoạn quan duy nhất Trung Quốc
  Chuyện đời tư ít người biết của gian hùng Lưu Bị
  Con cháu Quan Công, Mã Siêu
  Cuộc đời của Mã Siêu
  Cuộc Đời Của Triệu Vân/ Triệu Tử Long
  Cuộc đời nhà tiên tri nổi tiếng nhất Trung Hoa Gia Cát Lượng
  Cuộc đời Trương Phi
  Danh sách nhân vật hư cấu trong Tam quốc diễn nghĩa
  Dương Hựu
  Gia Cát Lượng
  Giải mã 7 cách chọn người của Gia Cát Lượng
  Giải mã chiến lược thông minh nhất cuộc đời Tào Tháo
  Giải mã những lời “sấm truyền” của Khổng Minh Gia Cát Lượng
  Giải mật câu nói của Tào Tháo khiến Lưu Bị buông bát, rơi đũa
  Giải mật câu nói gây tranh cãi suốt 2.000 năm của Lưu Bị
  Gian hùng cũng có tri ân!
  Hé lộ nguồn gốc thực sự của gia tộc Tào Tháo
  Hoàng Cái
  Hoàng Nguyệt Anh
  Hoàng Phủ Tung
  Hoàng Trung
  Hứa Chử
  Kế giữ nước khôn ngoan của con trai Lưu Bị
  Kết cục bi thảm của danh tướng kế thừa Khổng Minh
  Khám phá lăng mộ Tào Tháo
  Khổng Minh có biết Lưu Bị không tin mình?
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 001
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 002
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 003
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 004
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 005
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 006
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 007
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 008
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 009
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 010
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 011
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 012
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 013
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 014
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 015
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 016
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 017
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 018
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 019
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 020
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 021
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 022
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 023
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 024
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 025
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 026
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 027
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 028
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 029
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 030
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 031
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 032
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 033
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 034
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 035
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 036
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 037
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 038
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 039
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 040
  Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện - 041
  Khổng Minh vì sao trọng dụng Trương Phi mà xa rời Quan Vũ?
  Kỳ nhân 17 tuổi khiến Tào Tháo sợ hơn Lưu Bị, Tôn Quyền là ai?
  Lã Bố
  Lã Bố - Võ tướng số 1 của thời Tam Quốc
  Lã Mông
  Lăng mộ Tào Tháo, ba thực bảy hư
  Lữ Bố: Gia nô 3 họ hay là Tam Quốc chiến thần?
  LUẬN ANH HÙNG TÀO THÁO - 1 - Làm năng thần hay gian hùng
  LUẬN ANH HÙNG TÀO THÁO - 2 - Thiên tài và xuẩn tài
  LUẬN ANH HÙNG TÀO THÁO - 3 - Khoan dung và báo thù
  LUẬN ANH HÙNG TÀO THÁO - 4 - Mấy bản án mưu sát
  LUẬN ANH HÙNG TÀO THÁO - 5 - Vô tình chưa hẳn là hào kiệt thực
  LUẬN ANH HÙNG TÀO THÁO - 6 - Gian hùng đáng yêu
  Luận bàn Tam Quốc - Mao Tôn Cương
  Luận bàn về Khổng Minh
  Luận về nhân vật Quan Công của truyện Tam Quốc Chí
  Lực lượng tinh nhuệ giúp Tào Ngụy đuổi Lưu Bị, phá Mã Siêu
  Lưu Bị
  Lưu Bị ham sống sợ chết như thế nào?
  Lưu Phong
  Lưu Thiện
  Lý giải mới về nguyên nhân cái chết của Lã Bố
  Lý Nghiêm
  Mã Siêu
  Mê gái, cha con Tào Tháo tranh đoạt mỹ nhân
  Mộ phần các anh hùng Tam Quốc bây giờ ra sao?
  Mối quan hệ thực giữa Lưu Bị và Gia Cát Lượng
  Một số ý kiến sau khi xem 'Tam quốc chí - Đâu là sự thật?'
  Mỹ nhân Điêu Thuyền rốt cuộc là ai?
  Năm sinh & Năm mất của một số nhân vật thời kỳ Tam Quốc
  Nàng dâu tuyệt sắc của Tào Tháo và số phận bi thảm
  Nghệ thuật quản lý của người xưa nhìn từ Tam Quốc Diễn Nghĩa
  Nghệ thuật xây dựng Cốt truyện của Tam Quốc chí diễn nghĩa
  Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của Tam Quốc chí diễn nghĩa
  Ngũ Hổ Tướng
  Người thuyết phục được Tôn Quyền chống Tào là Lỗ Túc, chẳng phải Gia Cát Lượng
  Người tình bí mật của Quan Công
  Người tình của Quan Vũ là ai?
  Người đàn bà khiến Tào Tháo say mê, day dứt đến lúc chết
  Ngụy Diên (Ngụy Văn Trường)
  Ngụy Diên có thực là kẻ phản chủ?
  Nguyên nhân con trai Lưu Bị giả làm kẻ ngốc nghếch
  Nhân vật đứng sau chiến lược thông minh nhất của Tào Tháo là ai?
  Những con ngựa nổi tiếng trong sử sách Trung Quốc
  Những người khiến Tào Tháo phải rơi lệ
  Những phát hiện khoa học kỳ lạ về Khổng Minh
  Những quân sư tài ba của thời kỳ Tam Quốc
  Những điều "bá đạo" được rút ra từ Tam Quốc Chí
  Nỗi oan dậy đất của Chu Du trước Gia Cát Lượng
  Ôn tửu trảm Hoa Hùng có thật là công lao Quan Vũ?
  Ông già Lưu Bị có gì khiến Tôn Quyền chịu gả em gái mỹ nhân?
  Phiếm luận về Tào Tháo
  Quách hậu
  Quái chiêu phòng the của các hoàng đế
  Quan Vũ
  Quan Vũ 2
  Quan Vũ chưa từng được cầm Thanh Long Yển Nguyệt đao?
  Quan Vũ rời Tào – Làm sao chinh phục được người tài?
  QUÁCH GIA - 1 - Một mưu lược gia không bao giờ tính toán sai
  QUÁCH GIA - 2 - Hiến kế quét Trung Nguyên
  QUÁCH GIA - 3 - Bàn về mười điều thắng.
  QUÁCH GIA - 4 - Dự đoán về Tôn Sách
  QUÁCH GIA - 5 - Dùng trí đánh bại họ Viên
  QUÁCH GIA - 6 - Tuổi trẻ chết sớm
  Rùng mình chuyện kiểm tra trinh tiết mỹ nữ
  Sắp khai quật mộ Lưu Bị
  Sở hữu Ngọa Long - Phượng Sồ, sao Lưu Bị vẫn tuột tay thiên hạ?
  Sự thật khôi hài về chuyện kết nghĩa vườn đào trong Tam quốc
  Sự thật lịch sử về thời Tam Quốc!
  Sự thực về võ công của Ngụy Vương Tào Tháo
  Tam Quốc chí diễn nghĩa được dịch sang tiếng Việt như thế nào?
  Tam Quốc Diễn Nghĩa
  Tam Quốc mưu thần: Quách Gia tài cao vượt Gia Cát Lượng?
  Tào Ngụy đệ nhất danh tướng khiến Tôn Quyền khóc hận là ai?
  Tào Tháo
  Tào Tháo - 01. Làm năng thần hay gian hùng
  Tào Tháo - 02. Thiên tài và xuẩn tài
  Tào Tháo - 03. Khoan dung và báo thù
  Tào Tháo - 04. Mấy bản án mưu sát
  Tào Tháo - 05. Vô tình chưa hẳn là hào kiệt thực
  Tào Tháo - 06. Gian hùng đáng yêu
  Tào Tháo - Người đầu tiên chú giải 'Binh pháp Tôn Tử'
  Tào Tháo bị cắt đầu sau khi chôn!
  Tào Tháo thèm kỹ nữ
  Tào Tháo: 'Cả đời gian trá, khi chết mới lộ chân tướng'?
  Tào Tháo: 'Diêm Vương sống cùng Bồ Tát'
  Tào Tháo: Chớp thời cơ nên vớ bẫm
  Tào Tháo: Dùng kế 'đểu' để cướp cô dâu trong ngày cưới
  Tên tiếng Anh của các nhân vật & địa danh thời Tam Quốc
  Thanh Long Yển Nguyệt Đao
  Thông tin thêm về tứ đại mỹ nhân Trung Quốc
  Thuật dùng người của Gia Cát Lượng
  Thuật phòng the lạ lùng của Tào Tháo
  Tính cách và bi kịch của Ngụy Diên
  Tôn Quyền là hung thủ giấu mặt vụ ám sát Tiểu Bá Vương Tôn Sách?
  Tôn Thượng Hương
  Top 10 mỹ nhân trong Tam Quốc Diễn Nghĩa
  Trận Di Lăng
  Trang phục nhà binh thời Tam Quốc
  Tranh cãi nảy lửa quanh mộ Tào Tháo
  Trận chiến Quan Độ
  Trận lửa thiêu Xích Bích
  Trận Xích Bích
  Triệu Vân
  Trương phi
  Trương Phi vị mãnh tướng đa tài
  Trương Xuân Hoa
  Truyền nhân Khổng Minh, Chu Du
  Tư Mã Viêm
  Tư Mã Ý & Gia Cát Lượng
  Tư Mã Ý chiếm ngôi Ngụy
  Vì sao Gia Cát Lượng chỉ chọn Lưu Bị mà không phải Tào Tháo?
  Vì sao mộng nhất thống Trung Nguyên của Tào Tháo thất bại?
  Vì sao mỹ nhân xưa thường mang gối khi ngoại tình?
  Vì sao Triệu Vân bị dìm trên quan trường Thục Hán?
  Viên Thiệu vô dũng hay Tào Tháo quá túc mưu?
  Viên Thuật
  Vũ Tài Lục - 00. Nói chuyện Tam Quốc
  Vũ Tài Lục - 01. Những việc đi trước Tam Quốc
  Vũ Tài Lục - 02. Những giai đoạn chủ yếu của Tam Quốc
  Vũ Tài Lục - 03. Mầm loạn
  Vũ Tài Lục - 04. Phần tử trí thức
  Vũ Tài Lục - 05. Quá trình tiêu, trưởng của các lực lượng
  Vũ Tài Lục - 06. Chiến tranh Viên Tào
  Vũ Tài Lục - 07. Trận Xích Bích
  Vũ Tài Lục - 08. Cục diện chính trị Ích Châu và Kinh Châu
  Vũ Tài Lục - 09. Luận về Tào Tháo
  Vũ Tài Lục - 10. Luận về Gia Cát Lượng
  Vũ Tài Lục - 11. Tào Thực
  Vũ Tài Lục - 12. Tư Mã Ý chiếm ngôi Ngụy
  Vũ Tài Lục - 13. Khương Duy, Đặng Ngải và Chung Hội
  Vũ Tài Lục - 14. Tiều Chu và phần tử trí thức cuối Tam Quốc
  Vũ Tài Lục - 15. Tổng luận
  Xét người
  Đại Kiều & Tiểu Kiều
  Đệ nhất danh tác: Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa
  Đệ nhất mỹ nhân Trung Hoa chết thế nào?
  Đi tìm hậu duệ Ngụy, Thục, Ngô
  Đi Tìm Khổng Minh Thật Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa
  Điêu Thuyền
  Điêu Thuyền - Nghi án và truyền thuyết
  Điêu Thuyền là giai nhân không có thật?
  Đọc hiểu đoạn trích Tào Tháo uống rượu luận anh hùng
  Đội đặc vụ tàn ác của Tào Tháo
 
BÌNH LUẬN BÀI NÀY
 
  Tên người bình luận ( * )
  Email
  Tiêu đề bình luận ( * )
Nội dung bình luận chi tiết ( * )    
 
 
Gửi đi
 
Soạn lại